Tăng cường năng lực giám sát đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước

01/10/2013

ThS. ĐẶNG THỊ KIM NGÂN

Phó Vụ trưởng, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Trong những năm qua, các tập đoàn kinh tế (TĐKT) nhà nước đã được Nhà nước đầu tư rất lớn về vốn, đất đai và nhiều ưu đãi khác để phát triển sản xuất, kinh doanh. Một số TĐKT làm ăn có hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm cho hàng trăm nghìn lao động, bảo đảm an sinh xã hội và góp phần điều tiết kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp đó, các TĐKT nhà nước đã và đang bộc lộ một số bất cập như hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, năng lực và quản trị doanh nghiệp yếu kém, thực trạng tài chính có nhiều vấn đề ở một số tập đoàn, gây thất thoát và lãng phí vốn nhà nước. Thực tế này đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết cho việc tăng cường năng lực giám sát đối với các TĐKT nhà nước.
Untitled_428.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Tập đoàn kinh tế nhà nước và thực trạng giám sát các tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay
 Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, TĐKT là nhóm các công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định, hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT. Tính đến tháng 10/2012, Chính phủ đã thành lập 13 TĐKT nhà nước theo hai mô hình, là:
Tổ chức lại các tổng công ty nhà nước (các tổng công ty 90 và 91): gồm 10 tập đoàn: Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Tập đoàn Bảo Việt, Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam.
 Tổ hợp các doanh nghiệp độc lập có cùng lĩnh vực hoạt động: gồm 2 tập đoàn là Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ hợp các doanh nghiệp độc lập hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng và cơ khí chế tạo. Tập đoàn Phát triển Nhà và Đô thị Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ hợp từ các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và sản xuất, cung ứng vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, ngày 2/10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định dừng thí điểm 2 tập đoàn này và chuyển thành Tổng công ty, giao Bộ Xây dựng quản lý.
Như vậy, sau khi rà soát, sắp xếp lại, đến nay nước ta có 11 TĐKT nhà nước.
TĐKT nhà nước ở nước ta mang những đặc trưng cơ bản như sau:
- Đều hình thành từ việc chuyển đổi và tổ chức lại các tổng công ty nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Hoạt động trong những ngành kinh tế mũi nhọn, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, là một trong những công cụ điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
- Hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, quy mô và khả năng tích tụ vốn lớn hơn so với các tổng công ty trước đây; phạm vi hoạt động được mở rộng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài.
- Hợp tác và liên kết kinh doanh giữa các đơn vị trong TĐKT chặt chẽ hơn về đầu tư vốn và tài chính, thị trường phân công chuyên môn hóa, nghiên cứu và phát triển, thể hiện rõ nét đặc trưng quan hệ giữa các doanh nghiệp thành viên trong TĐKT.
- Quan hệ nội tại của TĐKT nhà nước bao gồm:
Công ty mẹ (gọi tắt là doanh nghiệp cấp I) là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn hoặc giữ quyền chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Công ty con của doanh nghiệp cấp I (gọi tắt là doanh nghiệp cấp II) là các doanh nghiệp do doanh nghiệp cấp I giữ quyền chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên trở lên, tổng công ty theo hình thức công ty mẹ - công ty con, công ty liên doanh, công ty con ở nước ngoài.
Công ty con của doanh nghiệp cấp II và các cấp tiếp theo.
Các doanh nghiệp liên kết của tập đoàn gồm: doanh nghiệp có vốn góp dưới mức chi phối của công ty mẹ và của công ty con; doanh nghiệp không có vốn góp của công ty mẹ và của công ty con, tự nguyện tham gia liên kết dưới hình thức hợp đồng liên kết hoặc không có hợp đồng liên kết, nhưng có mối quan hệ gắn bó lâu dài về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ khác với công ty mẹ hoặc doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn.
Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên tập đoàn có tư cách pháp nhân; có vốn và tài sản riêng; có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình theo quy định của pháp luật và theo thỏa thuận chung của tập đoàn. Nhà nước là chủ sở hữu vốn nhà nước trực tiếp đầu tư tại công ty mẹ. Công ty mẹ là chủ sở hữu vốn nhà nước tại các công ty con, doanh nghiệp liên kết.
- Quan hệ giữa tập đoàn với bộ, ngành và Chính phủ: Nhà nước là chủ sở hữu của TĐKT nhà nước. Chính phủ thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ và đối với phần vốn nhà nước tại TĐKT nhà nước; Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập công ty mẹ, quyết định tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu công ty mẹ theo đề nghị của bộ quản lý ngành và ý kiến của các bộ, ngành có liên quan; Thủ tướng Chính phủ giao bộ quản lý ngành, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và hội đồng quản trị tập đoàn thực hiện một số quyền của chủ sở hữu theo pháp luật hiện hành, theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của từng tập đoàn.
- Quản lý, giám sát đối với TĐKT nhà nước được thực hiện theo các phương thức: thông qua chế độ báo cáo của hội đồng thành viên công ty mẹ; thông qua thực hiện kiểm toán tại công ty mẹ và các đơn vị thành viên; thông qua thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất của công ty mẹ; thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá của các cơ quan theo quy định của pháp luật.
Như vậy, việc hình thành các TĐKT không theo quy luật chung của thế giới là dựa vào sự tích tụ và tập trung vốn, công nghệ; thôn tính, sáp nhập tự nguyện giữa các doanh nghiệp hoạt động trên cùng một lĩnh vực hoặc đa lĩnh vực mà là được hình thành từ một quyết định hành chính, từ sự vận hành kém hiệu quả của các tổng công ty nhà nước nên phải chuyển sang mô hình TĐKT, liên kết với mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động.
Các TĐKT nhà nước ở nước ta hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, ngoài giám sát nội bộ, còn chịu sự giám sát của chủ sở hữu (là Nhà nước), của các tổ chức chính trị - xã hội.
Thực tế hoạt động của các TĐKT nhà nước trong thời gian qua cho thấy rất nhiều bất cập về cơ chế giám sát cũng như về năng lực giám sát đối với các TĐKT nhà nước, cụ thể:
Sau khi quyết định thành lập, Chính phủ đã trao cho hội đồng thành viên của các tập đoàn những quyền hạn quá lớn trong đầu tư, kinh doanh và sử dụng vốn của Nhà nước, nhưng không quy định rõ cơ chế kiểm soát, giám sát hiệu quả.
Việc phân công, phân cấp thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu nhà nước đối với các TĐKT nhà nước còn những điểm chưa hợp lý, chưa rõ ràng, còn phân tán vai trò và trách nhiệm của các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân trong quản lý, giám sát việc sử dụng vốn, tài sản tại các TĐKT. Nhiều cơ quan nhà nước còn gặp khó khăn trong việc nắm bắt một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác thông tin về vốn, tài sản Nhà nước và tình hình hoạt động tại các TĐKT. Một số sai phạm trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản Nhà nước chỉ phát hiện sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán tại các TĐKT hoặc có khiếu nại, tố cáo.
Thông qua các cơ quan như Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán nhà nước cũng có chức năng giám sát, kiểm soát các hoạt động của tập đoàn. Tuy nhiên, việc thanh tra, kiểm toán chưa phải là quy định bắt buộc và mang tính định kỳ.
Hiện nay mỗi tập đoàn đều có ban kiểm soát, trưởng ban kiểm soát của tập đoàn do Thủ tướng bổ nhiệm và có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư, kinh doanh của các tập đoàn và báo cáo cho cơ quan quản lý cấp trên. Nhưng vấn đề đặt ra là ban kiểm soát chưa có đủ quyền lực cần thiết trên thực tế để thực hiện nhiệm vụ của mình và họ thường bị chi phối, hoặc do lợi ích cá nhân gắn với lợi ích của tập đoàn, hoặc thậm chí là bị vô hiệu hóa bởi lãnh đạo của tập đoàn. Hay nói cách khác, giám sát nội bộ của các tập đoàn vẫn còn tình trạng chủ thể giám sát (nội bộ) đồng thời là đối tượng giám sát thì việc giám sát chỉ là hình thức, không có ý nghĩa. Mặt khác, còn những bất cập của chế độ đại diện và ủy quyền; việc chưa tách bạch giữa quản lý và điều hành, giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát. Do đó, để khắc phục gốc rễ của vấn đề giám sát và quản trị doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cần phải xác định rõ chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu; nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của đại diện chủ sở hữu; cải cách mạnh mẽ cơ chế ủy quyền của chủ sở hữu nhà nước.
Về khung pháp lý, hiện chưa có luật riêng về giám sát đánh giá DNNN nói chung và TĐKT nhà nước nói riêng. Trong khi đó, hệ thống các văn bản điều chỉnh hoạt động của TĐKT trên thực tế đã hết hiệu lực hoặc một số văn bản còn hiệu lực nhưng lại không còn phù hợp.
Mặt khác, việc chưa quy định rõ quy trình, thời hạn, thủ tục, phương pháp, công cụ và trách nhiệm thực hiện giám sát (định kỳ, đột xuất) dẫn đến tính trạng lúng túng trong thực hiện. Thậm chí nếu thực hiện cũng thiếu chuẩn mực, không hiệu quả, mang tính hình thức.
Về cơ chế giám sát, chưa làm rõ trách nhiệm của bộ máy nhà nước trong hoạt động giám sát, đánh giá TĐKT; năng lực giám sát và đánh giá của bản thân các cơ quan giám sát còn yếu và việc chưa quy định rõ ràng, dẫn tới tình trạng lúng túng trong thực hiện hoặc nếu có thực hiện thì cũng thiếu chuẩn mực, không hiệu quả.
Hầu hết các TĐKT nhà nước hiện nay đều có lượng vốn đầu tư  và số lượng đơn vị thành viên lớn. Trong khi đó, các tập đoàn vẫn chịu sự quản lý trực tiếp của các bộ và Chính phủ, chưa có một cơ quan chuyên trách quản lý các hoạt động của các tập đoàn và DNNN nên việc kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước thường chỉ dựa vào báo cáo của các tập đoàn và các cơ quan kiểm toán. Từ thực tế của Vinashin, Vinalines cho thấy, đã đến lúc cần xây dựng một cơ chế giám sát dành riêng cho các tập đoàn và khối DNNN. Các kết luận kiểm tra, giám sát hoạt động của các tập đoàn cần bảo đảm tính độc lập, tránh hiện tượng chủ quản doanh nghiệp vừa là người ra quyết định đầu tư vừa là người đi giám sát. Cũng cần phân tầng giám sát và đa dạng hóa các cơ quan giám sát, các kênh giám sát hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước. Như giám sát của các cơ quan Quốc hội, cơ quan Đảng, Chính phủ, giám sát của báo chí, của các đoàn thể, tổ chức độc lập khác. Tuy nhiên, các cơ chế giám sát này phải được trao quyền và có thực quyền.
Mặt khác, để nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động của các tập đoàn, DNNN, trước hết, phải xây dựng được một cơ chế giám sát nội bộ của chính các tập đoàn và doanh nghiệp này. Giám sát nội bộ tập đoàn tốt là hình thành một bộ máy quản trị doanh nghiệp tốt để các thành tố trong đó giám sát lẫn nhau. Quy trình giám sát nội bộ này phải được công khai và minh bạch. Đồng thời, cần có cơ chế để kiểm tra việc thực hiện quy trình giám sát nội bộ; thay đổi cách thức quản lý của nhà nước với các tập đoàn, DNNN. Trong tương lai gần cần phải thay đổi tư duy trong bổ nhiệm nhân sự giám sát phần vốn nhà nước tại các tập đoàn, có thể mời các chuyên gia có kinh nghiệm giám sát hoạt động của các tổng giám đốc.
2. Giải pháp tăng cường năng lực giám sát các tập đoàn kinh tế nhà nước
Tuy nhiên, việc đổi mới quản trị DNNN nói chung và giám sát TĐKT nhà nước nói riêng theo cam kết gia nhập WTO và thông lệ kinh tế thị trường một cách hiệu quả, là vấn đề lớn và khó, nhưng nếu làm được, nước ta sẽ bớt đi những vụ việc như Vinashin, Vinalines... Có thể đưa ra một số giải pháp để tăng cường năng lực giám sát đối với các TĐKT nhà nước như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện khung khổ pháp luật và cơ chế giám sát đối với TĐKT nhà nước.
TĐKT nhà nước hiện nay hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Nghị định số 101/2009/NĐ-CP ngày 5/11/2009 của Chính phủ về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý TĐKT nhà nước.
Về quy định của pháp luật về cơ chế giám sát đối với TĐKT nhà nước, trong thời gian qua, để thực hiện việc giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước hoạt động theo Luật DNNN và Luật Doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg ngày 6/10/2006 về việc ban hành Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả của DNNN và Quyết định số 169/2007/QĐ-TTg ngày 8/11/2007 về việc ban hành Quy chế giám sát đối với DNNN kinh doanh thua lỗ, hoạt động không có hiệu quả. Theo đó, hàng năm Bộ Tài chính đã phối hợp các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố tiến hành đánh giá, phân loại doanh nghiệp trên cơ sở báo cáo tài chính đã được kiểm toán của doanh nghiệp và tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ vào quý 4. Thông qua công tác giám sát, cơ quan quản lý nhà nước về tài chính đã có sự cảnh báo với chủ sở hữu DNNN về những nguy cơ, dấu hiệu rủi ro tài chính. Nhiều cảnh báo, kiến nghị của Bộ Tài chính đã được Chính phủ thông qua và chỉ đạo thực hiện nhưng các bộ, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước chưa tuân thủ nghiêm nên tính răn đe và phòng ngừa rủi ro còn thấp. Điều đó cũng cho thấy cần nâng cao trách nhiệm của các bộ, địa phương trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các tập đoàn, tổng công ty.
Qua triển khai thực hiện các quy định về Quy chế giám sát cũng cho thấy những vấn đề khiếm khuyết cần được bổ sung, đặc biệt việc quy định người chịu trách nhiệm vẫn chưa rõ, vì vậy rất nhiều những vụ án liên quan đến các TĐKT, tổng công ty nhà nước không thể quy trách nhiệm được cho các cơ quan quản lý nhà nước.
 Trong điều kiện hệ thống các văn bản quy phạm làm khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các doanh nghiệp có vốn nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đang được nghiên cứu, hoàn thiện và ban hành (như Nghị định quy định về phân cấp chủ sở hữu nhà nước, Nghị định quy định về tiền lương của doanh nghiệp; Nghị định ban hành quy chế quản lý tài chính doanh nghiệp đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu...). Đồng thời xuất phát từ thực tế: một số doanh nghiệp có vốn nhà nước bị lâm vào tình trạng mất cân đối tài chính nghiêm trọng, song do thiếu các biện pháp giám sát cụ thể và chế tài xử lý nên việc khôi phục tình hình tài chính tại các doanh nghiệp này chậm và xấu đi; doanh nghiệp thua lỗ nặng, lâm vào tình trạng phá sản; yêu cầu về tăng cường công tác quản lý vốn và tài sản nhà nước thông qua việc đẩy mạnh công tác quản lý và giám sát tài chính đối với các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước rất cần thiết đòi hỏi ban hành sớm các tiêu chí giám sát tài chính. Cần nghiên cứu để thành lập tổ chức chuyên ngành, hoạt động chuyên nghiệp để giám sát các TĐKT nhà nước.
Thứ hai, làm rõ vấn đề chủ sở hữu của các TĐKT nhà nước.
Quyền sở hữu tài sản nhà nước trong TĐKT nhà nước thuộc về Nhà nước. Doanh nghiệp có quyền tài sản pháp nhân đối với toàn bộ tài sản mà nhà đầu tư đã đầu tư vào doanh nghiệp, kể cả tài sản nhà nước. Việc phân biệt chủ sở hữu có quyền pháp nhân với người điều hành doanh nghiệp có quyền tài sản pháp nhân là cơ sở để làm rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người điều hành doanh nghiệp có quyền tài sản pháp nhân, là cơ sở để làm rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người điều hành doanh nghiệp.
Chế độ chủ quản đối với TĐKT nhà nước là chế độ của chủ sở hữu nhà nước được nhà nước phân cấp thực hiện cho các cơ quan quản lý nhà nước đối với tập đoàn. Đây là một hình thức quản lý các DNNN ở nước ta được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp và không còn phù hợp với cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề chủ sở hữu của TĐKT nhà nước không rõ ràng vì liên quan tới nhiều cơ quan nhà nước. Đây chính là cản trở cho việc xây dựng một cơ chế quản lý nhà nước hiệu quả.
Thực tế hoạt động của các TĐKT nhà nước cho thấy mức độ cạnh tranh hạn chế trên quy mô toàn cầu do trình độ khoa học công nghệ, năng lực quản trị doanh nghiệp yếu kém và tiềm lực tài chính có hạn. Vì vậy, phải tập trung nguồn lực vào một số lĩnh vực Việt Nam có lợi thế cạnh tranh tương đối, không đầu tư dàn trải ra nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề. Mô hình tổ chức của các tập đoàn phải có tính gắn kết cao, chuyên sâu về khoa học công nghệ và lĩnh vực kinh doanh. Bản thân các doanh nghiệp thành viên cần có sự ràng buộc chặt chẽ nghĩa vụ và quyền lợi thông qua việc sở hữu vốn lẫn nhau. Để khắc phục những nhược điểm của mô hình hiện nay, cần tách bạch nguồn tài chính và chức năng kiểm soát của toàn hệ thống, để tập đoàn tiếp cận vào thị trường vốn cạnh tranh, thông qua sự đánh giá khách quan của các ngân hàng thương mại cổ phần hoặc các tập đoàn tài chính nhà nước.
Thứ ba, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá và xây dựng thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả, đảm bảo công khai minh bạch thông tin.
Cổ phần hoá một phần các tập đoàn nhà nước là hướng đi phù hợp tăng cường hiệu quả quản trị doanh nghiệp. Tạo lập thị trường cạnh tranh, cho phép tư nhân tham gia thị trường hoặc nhiều tập đoàn nhà nước cùng cạnh tranh một lĩnh vực, làm cho các tập đoàn này phải hoạt động hiệu quả hơn. Cơ chế giám sát hoạt động các tập đoàn cũng minh bạch hơn nếu có sự tham gia của nhiều cổ đông tư nhân trong tập đoàn. Mặc dù quyền bỏ phiếu vẫn bị chi phối bởi đại diện chủ sở hữu nhà nước nhưng với sự minh bạch thông tin và sự giám sát chặc chẽ từ các cổ đông, ban điều hành chịu sức ép lớn hơn về hiệu quả kinh doanh. Người đại diện vốn nhà nước trong tập đoàn cũng chịu sức ép lớn hơn về hiệu quả kinh doanh và các cổ đông tư nhân trong việc theo dõi và chấn chỉnh các hoạt động của tập đoàn. Kế hoạch phát triển dài hạn của doanh nghiệp phải cụ thể và lượng hoá được. Theo đó, bản tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cần được lập ra và hỗ trợ quá trình theo dõi, giám sát ban điều hành.
Phải chú trọng công khai, minh bạch trong việc công bố thông tin về hoạt động của TĐKT nhà nước. Thực tế nhiều doanh nghiệp thường chậm và thiếu sót, do cách thức quản lý thiếu công khai; nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong đánh giá tài sản vì thiếu thông tin minh bạch, là nguyên nhân chính để tạo ra sơ hở cho tình trạng tham nhũng thường có dưới những hình thức khác nhau.
Thứ tư, cần tăng cường dân chủ cơ sở, đặc biệt là vai trò của công đoàn và các đoàn thể quần chúng và người lao động. Nhờ vai trò làm chủ này, khu vực DNNN có khả năng vượt lên, khai thác hết giá trị tài sản, vật chất đã được trang bị, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ và tăng cường kỹ năng quản lý hiện đại. Tuy nhiên, để người lao động tại đây ngày càng gắn bó với doanh nghiệp, phải quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của mỗi thành viên trong doanh nghiệp.
Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của nhân dân.
Cùng với sự lãnh đạo của tổ chức Đảng trong TĐKT, cần tăng cường cơ chế giám sát chéo của cộng đồng, nhất là của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của các Hội nghề nghiệp thông qua giám sát và phản biện xã hội đối với các dự án, chương trình và thẩm định chất lượng hoạt động của TĐKT nhà nước.
Muốn vậy cần thực hiện hệ thống các giải pháp liên quan đến tái cơ cấu các DNNN nói chung và các TĐKT nhà nước nói riêng. Một trong những giải pháp quan trọng của quá trình tái cơ cấu DNNN trong giai đoạn tới đó là tăng cường quản lý, giám sát việc đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp nhằm đạt được hai mục tiêu chính là: DNNN có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh. Thực sự làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.
Những thất thoát, lãng phí lớn về vốn nhà nước trong các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong những năm vừa qua có nguyên nhân hàng đầu do cơ chế giám sát của nhà nước, năng lực giám sát yếu, hiệu quả giám sát thấp. Chính vì vậy, việc nâng cao năng lực giám sát đối với cá TĐKT nhà nước là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay để nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng kỳ vọng của nhà nước và nhân dân.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 19(251), tháng 10/2013)


Thống kê truy cập

33957686

Tổng truy cập