Tiếp cận văn hóa trong xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số

01/11/2013

NGUYỄN LÂM THÀNH

Ủy viên TT Hội đồng Dân tộc của Quốc hội

1. Đặt vấn đề
Trên thế giới, có hơn 400 khái niệm về văn hóa theo những cách tiếp cận khác nhau. Năm 2002, Tổ chức văn hóa - giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO) đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”[1]. Dưới góc độ xã hội học, văn hóa không chỉ là sản phẩm sáng tạo của con người, mà luôn xem xét với tư cách là một quá trình, một trạng thái động, tiếp biến. Văn hóa (gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần) có một ý nghĩa, vị trí quan trọng như một giá trị cốt lõi trong đời sống xã hội của mỗi cộng đồng dân cư, mỗi dân tộc. Văn hóa trở thành nền tảng cho sự phát triển trong mối quan hệ tương tác giữa văn hóa với kinh tế, văn hóa với chính trị.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và dựa trên những nội hàm khái niệm này, Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận thức và thay đổi quan trọng trong quá trình xây dựng chính sách văn hóa ở thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập khu vực và thế giới. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và nhất là Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5, khóa VIII đã xác định quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ và chính sách nhằm triển khai xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tinh thần này luôn được khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng IX, X, XI những năm trở lại đây.  
Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc thiểu số nên việc hình thành chính sách dân tộc là một yêu cầu tất yếu. Chính sách dân tộc là hệ thống những quyết sách của Đảng, Nhà nước được thực thi thông qua bộ máy hành pháp nhằm quản lý và phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với các dân tộc và vùng đồng bào dân tộc nhằm thiết lập sự bình đẳng và hoà nhập phát triển, củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Chính sách văn hóa dân tộc là một bộ phận cấu thành trong hệ thống chính sách dân tộc, một trong những mục tiêu, nội dung phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc và đối với các dân tộc thiểu số. Việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc cần bám sát thực tiễn như Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 29/11/1989 của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã yêu cầu: “phải tính đầy đủ đến những đặc điểm về tự nhiên, lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hoá, phong tục, tập quán của miền núi nói chung và riêng của từng vùng, từng dân tộc”[2].
Rõ ràng là, yếu tố đặc điểm xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán được nhấn mạnh, bên cạnh đó là yếu tố đặc điểm tự nhiên, lịch sử và kinh tế đặt trong bối cảnh miền núi nói chung và từng vùng, từng dân tộc nói riêng. Việc xây dựng chính sách dân tộc và các chương trình dự án phát triển vùng dân tộc thiểu số cần thiết phải được xem xét, tính tới các yếu tố, đặc điểm văn hóa vốn có của nó, như một điều kiện để bảo đảm cho tính phù hợp của chính sách.
2. Tiếp cận văn hóa trong xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số
Tiếp cận từ nội hàm của khái niệm văn hóa
Văn hóa trong cách nhìn hệ thống văn hóa là phản ảnh “điểm nhìn” của một cộng đồng dân tộc về thế giới vật chất, nhận thức điều kiện tự nhiên, môi trường sống xung quanh và những quy tắc ứng xử của cộng đồng tương ứng với nó. Trong một không gian sinh tồn, các dân tộc, các cộng đồng người phải vượt qua sự cản trở của các thế lực tự nhiên và cả xã hội để tồn tại và phát triển, có cả những thích ứng, thích nghi, biến đổi để hòa nhập. Chính quá trình thích nghi này tạo nên những nét đặc thù, điểm khác biệt, hình thành bản sắc của cộng đồng, tổ chức xã hội ở phạm vi hẹp hay ở phạm vi quốc gia dân tộc.
Tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng các dân tộc bắt nguồn từ thế giới quan về trời đất, vũ trụ, thần lửa, quan niệm về rừng ma, rừng thiêng, với nhiều dạng biểu đạt khác nhau. Văn hóa còn tồn tại trong tri thức bản địa về sản xuất, đời sống, ứng xử với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cộng đồng. Đó là những kinh nghiệm được thử thách và đúc rút qua nhiều thế hệ ở các cộng đồng cư dân qua thực tiễn đời sống, trở thành giá trị phổ biến. Nhiều giá trị đã trở thành văn hóa tồn tại trong các tập quán, lối sống hoặc cao hơn là loại hình như dân ca, dân vũ, sử thi và âm nhạc. Từ nhận thức về thế giới quan tạo nên nhân sinh quan trong đời sống cộng đồng các dân tộc, mà nó chính là chiến lược thích nghi của các cộng đồng này.
 Văn hóa trở thành tâm lý xã hội của một cộng đồng, ý thức hệ của một dân tộc. Văn hóa tạo nên sự cấu kết giữa các cá nhân và cộng đồng xã hội chính vì tính thống nhất và phổ biến của nó. Từ nhận thức chung về thế giới quan, và chịu ràng buộc bởi các qui định của luật tục, phong tục, tập quán đã ảnh hưởng sâu sắc đến suy nghĩ, hành vi của mỗi con người, quy định lại những suy nghĩ, hành vi của họ. Từ đó, tạo nên tâm lý xã hội cộng đồng và chuyển hóa cao hơn thành ý thức hệ của một dân tộc, thành thượng tầng kiến trúc của một dân tộc, đó là tư tưởng. Trong một cộng đồng xã hội mà cấp độ và qui mô hẹp như ở các vùng dân tộc thiểu số miền núi nước ta với nhiều yếu tố biệt lập thì tính liên kết nội tại và sự khác biệt với cái chung của quốc gia càng lớn. Một cộng đồng quốc gia 54 dân tộc anh em với hàng trăm phân loại ngành khác nhau, cư trú ở những vùng điều kiện sinh thái khác nhau thì tính đa dạng càng nổi trội. Chính vì vậy, mỗi chính sách can thiệp phải phù hợp với thực tiễn đời sống và tình cảm, tâm lý người dân và cộng đồng, định hướng và chuyển hóa từng bước những yếu tố văn hóa đó trong từng bối cảnh cụ thể.
Tiếp cận từ sự thay đổi, tiếp biến văn hóa trong sự phát triển đương đại
Quá trình phát triển của quốc gia và thế giới hiện nay đã tạo ra sự thay đổi hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa như một sự vận động tất yếu, nhất là văn hóa các dân tộc thiểu số. Trước tiên, phải kể đến các dòng văn hóa vật chất lan tỏa trong quá trình toàn cầu hóa làm thay đổi quan niệm, ý thức của người dân, từ tập quán tiêu dùng đến lối sống, từ suy nghĩ đến hành động, từ phạm vi cá nhân đến cộng đồng. Sự đan xen của giá trị, bản sắc văn hóa với sự mất mát vốn di sản văn hóa có thể diễn ra từng ngày trong nếp nghĩ, ứng xử. Ngày càng có nhiều người dân tộc thiểu số ăn, mặc, sống theo lối sống của người đa số, thậm chí có nơi lớp trẻ theo trào lưu văn hóa Hàn Quốc hay Trung Quốc do sự thâm nhập của văn hóa vật chất và cả phi vật chất. Trong dòng chảy văn hóa đó, có yếu tố mới lạ, có yếu tố văn minh, yếu tố phù hợp với đời sống hiện đại nên dễ được chấp nhận. Câu chuyện về một làng Cờ Tu, tỉnh Quảng Nam nơi có nhiều đứa trẻ sinh ra được đặt tên với họ của người Cờ Tu nhưng tên của các diễn viên Hàn Quốc là một minh chứng rõ nét[3]. Rõ ràng, nếu ý thức tộc người không được củng cố thì văn hóa vật chất sẽ làm thay đổi hoặc biến dạng văn hóa tinh thần, dễ mất đi văn hóa gốc căn bản.
Bên cạnh đó, quá trình chuyển dịch dân cư, đan xen ngày càng trở nên phổ biến, ngày càng hình thành nhiều các cộng đồng dân cư hỗn hợp nhiều dân tộc nảy sinh nhiều thứ bậc và cấp độ quan hệ giữa các dân tộc[4]. Thực tế này dẫn đến quá trình hòa trộn, giao thoa văn hóa, tiếp biến văn hóa. Thường thì một cộng đồng có số đông hơn và kinh tế phát triển hơn sẽ chiếm ưu thế trội ảnh hưởng đến văn hóa các cộng đồng còn lại. Sự hòa trộn đó tạo nên một bức tranh đa sắc màu. Chính sách dân tộc phải được xử lý làm sao không làm mất đi những yếu tố chủ đạo đó là tính “thống nhất trong đa dạng”, được quy định bởi mối quan hệ giữa các dân tộc dựa trên nguyên tắc bình đẳng.
Tiếp cận từ thực tiễn đặc điểm của các dân tộc Việt Nam
 Nước ta có 53 dân tộc thiểu số với trên 12,5 triệu người, chiếm khoảng 14% dân số, phân bố trên địa bàn 58/64 tỉnh, thành cả nước. Các dân tộc có số dân không đồng đều, quần cư xen kẽ và sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội. Sự cách biệt về không gian địa lý làm giảm khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển của quốc gia. Cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật nghèo nàn, thấp kém hơn các vùng khác[5]. Nền kinh tế nông nghiệp còn mang nặng tính tự nhiên tự túc, tự cấp với sức sản xuất thấp, nhiều nơi sản xuất hàng hoá chưa phát triển, một số nhóm dân tộc ít người còn sử dụng loại hình kinh tế “chiếm đoạt” là chủ yếu với phương thức canh tác còn sơ khai.
Lịch sử tồn tại và phát triển đã tạo nên sự đan xen nhiều chiều trong quan hệ giữa các dân tộc. Quan hệ kinh tế là nền tảng chi phối quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế, thúc đẩy giao lưu văn hoá. Quan hệ giao lưu văn hoá thúc đẩy quan hệ kinh tế, quan hệ dân tộc. Một số dân tộc có mối quan hệ quốc tế về cộng đồng dân tộc do lịch sử quá trình tồn tại và phát triển. Sự đa dạng về văn hoá và các sắc thái văn hoá thể hiện rõ nét trong từng dân tộc, nhóm dân tộc và vùng, miền[6]. Sự phát triển kinh tế tạo nên “sự giao thoa văn hoá” giữa các cộng đồng dân tộc, làm phong phú hơn giá trị văn hoá mà các dân tộc đã vốn có.
Thực tiễn đặc điểm dân tộc thiểu số ở nước ta là cơ sở quan trọng để nghiên cứu, đề xuất xây dựng chính sách phát triển cho các dân tộc.
Tiếp cận từ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
Chính sách dân tộc ở Việt Nam mang tính chính trị sâu sắc, là sự thể chế hoá chủ trương, đường lối Nghị quyết của Đảng và Nhà n­ước. Nguyên tắc bao trùm lớn nhất là thể hiện một cách đầy đủ các quyền bình đẳng về chính trị, quyền bình đẳng về mặt kinh tế, quyền bình đẳng về văn hoá - xã hội và đoàn kết giữa các dân tộc, giúp đỡ lẫn nhaucùng phát triển. Tại Điều 5, Hiếp pháp năm 1992 có ghi “...Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc… Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số”[7].
Thực hiện chính sách dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn là một bộ phận hữu cơ, lợi ích sống còn, bảo đảm sự ổn định, không thể tách rời với sự phát triển chung của quốc gia, cả về khía cạnh kinh tế, văn hóa và chính trị. Bên cạnh đó, còn thể hiện mục tiêu công bằng xã hội, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa; thể hiện tình cảm, trách nhiệm của cả nước đối với những đóng góp của đồng bào dân tộc trong sự nghiệp cách mạng giành, giữ nền độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tính nhân văn trong đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc là yêu cầu hết sức quan trọng.
Có thể nhận thấy, quy luật phát triển không đồng đều, làm cho đời sống kinh tế - xã hội giữa các dân tộc chênh lệch nhau cũng gây nên sự mặc cảm, tự ti, làm giảm yếu tố động lực phát triển ở các cộng đồng dân tộc. Và điều này gây bất lợi trong việc xây dựng đoàn kết các dân tộc, nhất là khi mối quan hệ dân tộc trở nên phức tạp và dễ vượt ra khỏi phạm vi dân tộc trở thành quan hệ quốc gia và quốc tế khi bị các thế lực thù địch lợi dụng. Phát triển kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện và nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân, thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa các vùng, các dân tộc là một mục tiêu lớn đặt ra cho công tác dân tộc nói riêng và công tác quản lý nhà nước quốc gia nói chung.
Đây cũng là cơ sở quan trọng để thực hiện các hoạt động văn hóa và chính sách bình đẳng về văn hóa, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số.
3.  Kiến nghị
Những năm vừa qua, văn hoá ở vùng dân tộc thiểu số nước ta đã được quan tâm và đầu tư đáng kể nhằm nâng cao mức độ hưởng thụ cho người dân. Cụ thể như Chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình cho vùng đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo; Bảo tồn văn hoá các dân tộc thiểu số Tây Nguyên và gần đây là Chương trình mục tiêu quốc gia “Đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo” theo Quyết định số 2331/QĐ-TTg ngày 20/12/2011 và Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” theo Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Trong quá trình triển khai, nhiều hoạt động đã lồng ghép các nội dung phổ biến khoa học kỹ thuật, hướng dẫn cách làm ăn, kế hoạch hoá gia đình, xoá bỏ các hủ tục lạc hậu, để xoá đói giảm nghèo và đã có những tác động tích cực. Thiết chế văn hoá ở vùng dân tộc được tăng cường một cách đáng kể, nâng khả năng tiếp cận thông tin cho người dân trên nhiều mặt, nắm bắt được sự phát triển chung của đất nước và đường lối chủ trương, chính sách của Đảng.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, cần có cách nhìn và cách tiếp cận đầy đủ hơn về văn hóa và ý nghĩa, vai trò của nó trong đời sống nhân dân, trong xây dựng và thực hiện chính sách. Chính sách là định hướng cho phát triển nhưng cần được tiếp cận từ góc độ văn hóa để bảo đảm tính phù hợp. Chính sách ở đây được hiểu là những hệ thống chính sách, luật pháp do Nhà nước ban hành, bao gồm cả các chính sách theo lĩnh vực chuyên ngành, phạm vi điều chỉnh mang tính quốc gia như chính sách về đất đai, phát triển nông lâm nghiệp, y tế, giáo dục, tài chính v.v. cùng với một số chính sách ban hành áp dụng cho khu vực miền núi, dân tộc thiểu số là khu vực mang tính đặc thù. Để góp phần hoàn thiện hơn hệ thống chính sách phát triển vùng miền núi và đồng bào dân tộc, các nội dung chính sách cần được xem xét và bảo đảm các khía cạnh sau:
- Bảo đảm sự phù hợp một cách tương đối với điều kiện, hoàn cảnh môi trường sống của khu vực miền núi dân tộc, cộng đồng các dân tộc thiểu số, nơi cái gốc để sản sinh văn hóa và nuôi dưỡng văn hóa truyền thống.
- Bảo đảm phù hợp với trình độ hiểu biết, nhận thức của người dân hay chính là điểm thực tại của bối cảnh văn hóa của một cộng đồng và nó được quy định bởi yếu tố nền tảng là mặt bằng trình độ phát triển, nhất là về giáo dục và cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật hiện có, cũng như quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa đang diễn ra.
- Đánh giá, phát hiện các vấn đề thuận lợi để khai thác, điểm hạn chế cho phát triển để điều chỉnh, khắc phục, tránh trở ngại, hoặc định hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo chiều thuận mà không tạo nên những xung đột văn hóa, tâm lý xã hội. Xử lý một cách khôn khéo việc định dạng và xử lý loại trừ những tập tục không phù hợp trong đời sống cũng như tiếp nhận những yếu tố văn minh của văn hóa mới.
- Tôn trọng tính đa dạng văn hóa, đồng nghĩa với việc phải tăng cường quảng bá, giới thiệu đầy đủ hơn bản sắc của từng dân tộc, đồng thời khắc phục tâm lý tự ti dân tộc, khắc phục tư tưởng định kiến dân tộc từ quá trình giao lưu văn hóa. Vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá, suy cho cùng là giải quyết một cách hài hoà mối quan hệ giữa con người với văn hóa, bao gồm cả văn hóa bên trong và văn hóa bên ngoài. Đề cao chủ thể văn hóa các dân tộc, đẩy mạnh việc khai thác và sử dụng tri thức địa phương trong các hoạt động phát triển. Xử lý hài hoà các nhu cầu và lợi ích, giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, giữa kinh tế và văn hoá trong sự biến đổi kinh tế - văn hoá, quan hệ dân tộc đang là nhu cầu bức thiết, đòi hỏi khả năng giải quyết tình hình thực tiễn nhạy bén, linh hoạt đang là thách thức đối với các cấp, các ngành, địa phương vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay.
Thực tiễn đòi hỏi cần tiếp tục các nghiên cứu, điều tra về đời sống kinh tế, xã hội cộng đồng, tri thức bản địa và chúng phải được tiến hành kỹ lưỡng nhằm phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường các hoạt động giao lưu, sưu tầm quảng bá văn hóa, tăng cường vị thế văn hóa trong đời sống cộng đồng nói riêng và đời sống xã hội nói chung. Nâng tầm giá trị văn hóa trong phát triển như một yếu tố nền tảng và mục tiêu chính sách như  yêu cầu của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X “Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”[8]. Xây dựng “Bình đẳng về văn hóa” là mục tiêu cao nhất trong chính sách dân tộc của sự phát triển của một quốc gia có nhiều dân tộc, hướng tới sự phát triển bền vững./.
 


[1] Tuyên bố chung của UNESCO về tính đa dạng của văn hóa, 2002.
[2] Văn kiện Nghị quyết 22 - NQ/TW ngày 29/11/1989 của Bộ Chính trị.
[3] Người Cờ Tu đặt tên con theo diễn viên Hàn Quốc, Giáo duc.net.vn ngày 18/7/2011.
[4] Đắc Lắc hiện đã có đại diện của 47 nhóm dân tộc. Bên cạnh cộng đồng người Kinh và dân tộc tại chỗ như Ê đê, Gia rai là các cộng đồng di cư từ phía Bắc như Tày, Thái, Nùng, Mông.
[5] Báo cáo của Ủy ban Dân tộc tháng 4/2013.
[6] Nước ta có 54 dân tộc với hàng trăm nhóm ngành khác nhau, 8 nhóm ngữ hệ, 3 vùng văn hóa lớn.
[7] Hiến pháp năm 1992.
[8] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thú X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.

 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22(254), tháng 11/2013)


Thống kê truy cập

33956455

Tổng truy cập