Hoàn thiện quy định của Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội dùng nhục hình

29/12/2021

THS. HOÀNG NGỌC ANH

Trường Đào tạo, Bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Tóm tắt: Cùng với việc trở thành thành viên của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Việt Nam luôn nỗ lực trong việc xây dựng các cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nghiêm cấm các hành vi tra tấn, đối xử tàn bạo, hạ thấp nhân phẩm của con người. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội bức cung, nhục hình là công cụ pháp lý hữu hiệu để đạt được mục tiêu nêu trên. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích những bất cập trong quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội dùng nhục hình và đề xuất kiến nghị hoàn thiện.
Từ khóa: Bộ luật Hình sự, tội dùng nhục hình, truy cứu trách nhiệm hình sự, hình phạt.
Abstract: Since becoming a member of the International Covenant on Civil and Political Rights in 1966, Vietnam has always made great efforts in establishing mechanisms to protect human rights and citizens' rights, and prevent acts of torture, cruel treatment, and demeaning of human beings. The improvement of the provisions of the criminal law on the crimes of forced confession and using corporal punishment is an effective legal tool to achieve this goal. Within the scope of this article, the author provides an analysis of the shortcomings in the provisions of the Criminal Code of 2015 on the crime of using corporal punishment and proposes recommendations for further improvements.
Keywords: The Criminal Code; corporal punishment; criminal prosecution, punishment.
 
Trong xã hội hiện đại, với việc tối đa hóa các hoạt động nhằm mục đích vì con người, đảm bảo các điều kiện sống của con người ngày càng văn minh, tiến bộ thì việc nghiêm cấm các hành vi xâm phạm đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm của con người, trong đó có hành vi bức cung, dùng nhục hình đối với người phạm tội đều bị nghiêm cấm.
 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948 khẳng định, không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm; tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ như nhau, không có bất cứ sự phân biệt nào.HÌNH-SỰ_1.jpg
Khoản 1 Điều 10 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 tiếp tục khẳng định: “Không ai có thể bị tra tấn hoặc phải chịu những hình phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp phẩm giá con người; những người bị tước tự do vẫn phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm”.
Năm 1982, Việt Nam chính thức gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Với vai trò là thành viên tích cực của Công ước, Nhà nước ta luôn coi mục tiêu bảo vệ quyền con người, quyền công dân, coi đó là sứ mệnh lịch sử quan trọng được ưu tiên hàng đầu.
Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: "1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm".
1. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội dùng nhục hình
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 373 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) quy định tội dùng nhục hình.
So với quy định tại Điều 298 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì nội dung tội dùng nhục hình quy định tại Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng. Cụ thể:
Điều luật có sự điều chỉnh tăng số khoản từ 04 khoản lên thành 05 khoản; bổ sung, làm rõ phạm vi áp dụng quy định của điều luật là trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thay cho việc quy định là trong hoạt động trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án như trước đây; đồng thời, cụ thể hóa các tình tiết định tội, định khung để đảm bảo việc đánh giá, áp dụng trong thực tiễn được thuận lợi và chính xác hơn. Bên cạnh đó, hình phạt áp dụng trong từng trường hợp (khoản) cụ thể cũng được tăng lên để đảm bảo tính phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Có thể nói, việc sửa đổi, bổ sung này là hoàn toàn phù hợp và cần thiết, đảm bảo tính khoa học, logic.
 Khi nghiên cứu quy định của điều luật thì thấy, tại khoản 1 Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 không đưa ra khái niệm cụ thể thế nào là dùng nhục hình mà chỉ mô tả người nào…. dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, căn cứ vào thực tiễn xét xử loại tội phạm này có thể xác định: Dùng nhục hình là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tác động lên thể xác của người bị buộc tội, khiến họ bị đau đớn, tổn hại về sức khỏe, tinh thần và nhân phẩm.
Tội dùng nhục hình xâm phạm đến hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, đồng thời cũng xâm phạm một số quyền cơ bản của công dân.
Về chủ thể của tội phạm: Tội phạm này được thực hiện bởi chủ thể đặc biệt, đó là những người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc như: Điều tra viên thuộc Cơ quan cảnh sát điều tra, Kiểm sát viên thuộc Viện Kiểm sát nhân dân, Thẩm phán thuộc Tòa án nhân dân, Trưởng trại giam giữ, trại cải tạo và cũng có thể là Công an xã, phường trong khi hoạt động tư pháp, hải quan, kiểm lâm,…
Về mặt khách quan của tội phạm: Tội phạm sử dụng hành vi bạo lực vật chất hoặc có hành vi khác đối với những người đang bị bắt, đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc người đang chấp hành hình phạt tù …gây ra cho họ những đau đớn về thể xác, ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm sinh lý của họ. Ví dụ như: người phạm tội có các hành vi đánh đập người bị giam giữ, bắt quỳ khi hỏi cung, bắt nhịn ăn...Tội dung nhục hình là tội phạm cấu thành hình thức, có nghĩa là chỉ cần người phạm tội có hành vi dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào là đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm mà không đòi hỏi phải gây ra thiệt hại cho người bị nhục hình hay chưa.
Về mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Đối với tội phạm này thì động cơ, mục đích không phải là yếu tố cấu thành tội phạm.
2. Thực tiễn áp dụng quy định của BLHS năm 2015 về tội dùng nhục hình và kiến nghị
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong xét xử cho thấy quy định của BLHS năm 2015 về Tội dùng nhục hình còn những bất cập sau đây:
 -Quy định về việc áp dụng hình phạt bổ sung
Việc quy định hình phạt bổ sung được thiết kế trong hầu hết các điều luật trong Bộ luật Hình sự năm 2015, nhằm tăng cường, củng cố tác dụng của hình phạt chính. Tuy nhiên, cách quy định như trong khoản 5 Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 lại tồn tại sự chưa phù hợp, gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng. Cụ thể:
Theo quy định tại Điều 32 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt bao gồm hai loại là hình phạt chính (khoản 1) và hình phạt bổ sung (khoản 2).
Khoản 3 Điều 32 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: "3. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung".
Theo quy định của Điều luật, đối với mỗi tội phạm thì người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Với vai trò bổ trợ cho hình phạt chính nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội, giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm[1] thì việc áp dụng hình phạt bổ sung không phải là bắt buộc trong tất cả các trường hợp, phụ thuộc vào tính chất, mức độ của từng tội phạm mà Hội đồng xét xử sẽ xem xét, quyết định có áp dụng hình phạt bổ sung hay không. Việc áp dụng hình phạt bổ sung không đặt ra đối với người phạm tội là người dưới 18 tuổi.
Như vậy, bản chất của hình phạt bổ sung là nhằm bổ trợ cho hình phạt chính trong việc trừng trị người phạm tội, giáo dục ý thức tuân theo pháp luật… do đó, trong hầu hết các điều luật có ghi nhận hình phạt bổ sung, nhà làm luật đều phản ánh đúng bản chất của loại hình phạt này bằng việc quy định: "người phạm tội còn có thể bị…". Tuy nhiên, trong quy định tại khoản 5 Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: "Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ,…"; với việc quy định này gây ra nhiều cách hiểu chưa thống nhất khi áp dụng trong thực tiễn; theo đó, có quan điểm cho rằng, bằng việc quy định "cứng" người phạm tội nhục hình còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ… là mang tính chất bắt buộc, do đó, người phạm tội dùng nhục hình dường như bị áp dụng cùng lúc “hai hình phạt chính”, bắt buộc trong cùng một bản án và điều này là không hợp lý và hợp pháp, không phù hợp với bản chất của hình phạt bổ sung. Quan điểm khác lại cho rằng, với bản chất của hình phạt bổ sung là mang tính bổ trợ cho hình phạt chính nên dù quy định như thế nào thì hình phạt bổ sung vẫn đảm bảo bản chất nội tại của nó và thực tế thì các chức vụ có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự cũng không nên để người phạm tội đảm nhiệm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.
Tác giả cho rằng, việc áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề đối với người phạm tội dùng nhục hình là cần thiết, nhưng cách thiết kế như khoản 3 Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 là không phù hợp với bản chất của hình phạt bổ sung, không đảm bảo tính đồng bộ với các quy định về hình phạt bổ sung trong các điều luật khác.
Đồng thời, chúng tôi cho rằng, quy định của khoản 5 Điều 373 nêu trên mâu thuẫn với chính sách hình sự quy định tại Điều 32 BLHS năm 2015. Theo đó, hình phạt bao gồm hai loại là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Như vậy, theo quy định của Điều 32 BLHS năm 2015 hình phạt bổ sung là không bắt buộc, phụ thuộc vào tính chất, mức độ của từng tội phạm mà Hội đồng xét xử sẽ xem xét, quyết định có áp dụng hình phạt bổ sung hay không.
Xét về bản chất của hình phạt bổ sung là nhằm bổ trợ cho hình phạt chính trong việc trừng trị người phạm tội, giáo dục ý thức tuân theo pháp luật… do đó, trong hầu hết các điều của BLHS năm 2015 có ghi nhận hình phạt bổ sung đều phản ánh đúng bản chất của loại hình phạt này bằng quy định: "người phạm tội còn có thể bị…", ngoại trừ khoản 5 Điều 373 Bộ luật Hình sự.
Chúng tôi cho rằng, việc áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề đối với người phạm tội dùng nhục hình là cần thiết, nhưng cách thiết kế như khoản 3 Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 là không phù hợp với bản chất của hình phạt bổ sung, không đảm bảo tính đồng bộ với các quy định về hình phạt bổ sung trong các điều luật khác.
-Quy định về khung hình phạt
Khoản 4 Điều 373 Bộ luật Hình sự quy định: "Phạm tội làm người bị nhục hình chết, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân".
Như vậy, trong trường hợp người bị dùng nhục hình chết thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Tuy nhiên, điều luật chỉ quy định hậu quả là làm người bị nhục hình chết mà không quy định phân hóa số người chết là một người hay từ hai người trở lên. Do đó, khi người phạm tội dùng nhục hình dẫn đến hậu quả là làm cho một người bị nhục hình chết cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm và áp dụng hình phạt giống/tương tự đối với trường hợp người phạm tội gây hậu quả là có từ hai người bị nhục hình chết trở lên. Điều này không đảm bảo tính công bằng và hợp lý trong các trường hợp tại các phán quyết của Tòa án.
Nghiên cứu quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì thấy, tại điểm a khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội giết người thì người nào giết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Đối với các trường hợp giết người mà không thuộc quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm, trong đó có trường hợp giết 01 người. Như vậy, nội dung Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có sự phân hóa trách nhiệm hình sự đối với trường hợp giết 01 người và trường hợp giết từ 02 người trở lên. Mặc dù mục đích phạm tội của tội giết người và tội dùng nhục hình mà người phạm tội hướng đến là hoàn toàn khác nhau. Đối với tội dùng nhục hình, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội không mong muốn hậu quả chết người xảy ra, hay nói cách khác thì hậu quả chết người xảy ra nằm ngoài mong muốn của họ. Tuy nhiên, hậu quả chết người đã xảy ra và người phạm tội buộc phải chịu hình phạt thích đáng đối với hành vi và hậu quả do mình gây ra.
Trong tội dùng nhục hình, chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, là người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tố tụng, hoạt động thi hành án... nên quan điểm của Đảng và nhà nước ta là hình phạt áp dụng đối với chủ thể này phải nghiêm khắc hơn chủ thể của tội giết người là người dân bình thường. Tại tiểu mục 2.1 mục 2 phần II Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định rõ: “...Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác...”.
            Quan điểm này là hoàn toàn hợp lý và đúng đắn; bởi lẽ, chủ thể của tội phạm là người có chức vụ, quyền hạn là những người có học thức, có trình độ nhất định, được đào tạo bài bản về kỹ năng chuyên môn, về cách ứng xử chuẩn mực, so với người dân thì họ là những người nắm rõ quy định của pháp luật, họ được trả lương từ nguồn đóng góp của nhân dân để thực hiện nhiệm vụ của mình. Do đó, nếu họ thực hiện hành vi phạm tội thì họ buộc phải chịu trách nhiệm nặng hơn, nghiêm khắc hơn so với người dân bình thường.
            Như vậy, rõ ràng việc quy định tại khoản 4 Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 vừa không đảm bảo được sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong trường hợp một người bị nhục hình chết với trường hợp từ hai người bị nhục hình trở lên chết. Từ đó có khả năng việc áp dụng hình phạt trong các trường hợp mang tính tùy tiện, không đảm bảo tính công bằng, phù hợp. Đồng thời, không đảm bảo việc thực hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW mà tác giả vừa nêu ở trên đối với chủ thể của tội phạm là người có chức vụ quyền hạn với chủ thể tội phạm là người dân bình thường. Chính vì vậy, có thể xảy ra trường hợp người phạm tội dùng nhục hình dẫn đến hậu quả có từ 02 người bị nhục hình trở lên chết nhưng bị áp dụng hình phạt thấp hơn quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự (Tội giết người) giết 02 người trở lên với mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Từ ví dụ này đã thể hiện rõ sự khác biệt trong việc áp dụng luật, áp dụng chế tài đối với cùng một hậu quả “chết người” nhưng do công dân thực hiện và do những người có chức năng, nhiệm vụ thực hiện. Theo khoa học hình sự thì mọi hành vi xâm phạm đến thân thể dẫn đến tử vong, chấm dứt sự sống của người khác đều được xem là giết người.
Tuy nhiên, nếu theo quy định của Bộ luật Hình sự, dù cùng hậu quả có 02 người chết người nhưng nếu do người dân thực hiện thì có thể bị xử lý với tội danh giết người với mức hình phạt cao nhất có thể lên đến chung thân hoặc tử hình nhưng nếu do người đang thi hành công vụ thực hiện thì lại được áp dụng tội dùng nhục hình với mức hình phạt nhẹ hơn rất nhiều.
Vì vậy, để đảm bảo sự nhất quán trong chính sách hình sự, đảm bảo sự phù hợp với quan điểm, chủ trương của Đảng ta, tác giả kiến nghị trong thời gian tới, khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2015, nhà làm luật cần nghiên cứu hoàn thiện việc phân hóa trách nhiệm hình sự cụ thể đối với trường hợp người bị nhục hình bị chết trong khoản 4 Điều 373 BLHS năm 2015. Theo đó, cần có sự phân định cụ thể trách nhiệm hình sự đối với trường hợp có 01 người bị nhục hình chết với trường hợp có từ 02 người bị nhục hình chết.
-Về xác định đồng phạm đối với tội dùng nhục hình
Thực tiễn điều tra, xét xử các vụ án về tội dùng nhục hình cho thấy, có nhiều trường hợp việc thực hiện hành vi phạm tội không chỉ là một người mà có từ 2 người cùng thực hiện. Do đó, đặt ra vấn đề xác định những người phạm tội này có phải là đồng phạm hay không còn tồn tại nhiều quan điểm chưa thống nhất. Bởi lẽ, nếu xác định có đồng phạm thì tất cả những người này đều phải chịu trách nhiệm về hậu quả cuối cùng mà họ gây ra và chỉ cá thể hóa hình phạt qua xác định vai trò của các bị cáo[2]. Còn nếu xác định họ không phải là đồng phạm thì họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự một cách độc lập tương ứng với mức độ hậu quả mà họ gây ra.
Ví dụ: Nguyễn Văn A là bị can trong vụ án trộm cắp tài sản. A bị chết tại trại tạm giam X trong quá trình lấy lời khai. Qua việc điều tra, xác minh chứng minh được người gây ra cái chết cho A là B, C, D - đều là cán bộ điều tra thuộc cơ quan điều tra công an tỉnh X. Trường hợp này, nếu xác định B, C, D là đồng phạm thì các bị cáo này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cùng một tội là Tội dùng nhục hình quy định tại Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015; còn nếu không chứng minh được B, C, D là đồng phạm thì mỗi bị cáo sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi độc lập của mình đối với hậu quả mà hành vi đó gây ra. Theo đó, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dùng nhục hình và tội giết người (Điều 123 BLHS năm 2015).
Có thể thấy, chế định đồng phạm là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của pháp luật hình sự từ xưa đến nay. Trong Bộ luật Hình sự năm 2015, chế định đồng phạm được quy định tại Điều 17 với nội dung như sau: “1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. 2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm...”.
Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 thì trường hợp có từ hai người trở lên cùng cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì được gọi là đồng phạm.
Trong khoa học luật hình sự, đồng phạm được coi là hình thức phạm tội đặc biệt, có nhiều điểm khác biệt để phân biệt với trường hợp phạm tội riêng lẻ. Do đó, trong Bộ luật Hình sự đã quy định nguyên tắc xử lý có tính riêng biệt cho trường hợp phạm tội này và quy định bổ sung về trách nhiệm hình sự của đồng phạm và của từng loại người đồng phạm.
Để nhận diện, đánh giá đồng phạm trong thực tiễn, cần căn cứ vào các yếu tố chủ yếu sau:
Yếu tố chủ thể: chế định đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người trở lên, có đủ dấu hiệu về chủ thể của tội phạm và cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Cùng thực hiện một tội phạm có nghĩa là người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong bốn vai trò sau: Hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm, hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Trong vụ đồng phạm có thể có đủ bốn loại hành vi này nhưng cũng có thể chỉ có một loại hành vi - hành vi thực hành.
Về mặt chủ quan (yếu tố lỗi): đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm đều phải có lỗi cố ý. Với một số tội phạm có dấu hiệu mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc thì những người cùng thực hiện đòi hỏi phải có cùng mục đích này. Yếu tố chủ quan đòi hỏi những người đồng phạm cần phải có sự thống nhất về ý chí, có sự bàn bạc, thống nhất, hứa hẹn trước với nhau, mong muốn sự liên kết hành vi để cùng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Như vậy, bản chất của đồng phạm là phải có sự thống nhất về ý chí và lý trí. Sự thống nhất này thể hiện thông qua sự bàn bạc, thống nhất về mục đích thực hiện hành vi và trong nhiều trường hợp còn có sự phân công cụ thể về vai trò, nhiệm vụ của từng người.
Có thể thấy, nguyên nhân dẫn đến tội phạm dùng nhục hình là rất đa dạng và phần lớn xuất phát từ tư tưởng, tâm lý nôn nóng của người được giao nhiệm vụ muốn nhanh chóng điều tra để ra kết luận điều tra về hành vi phạm tội, ... vì vậy, trong quá trình điều tra đã sử dụng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào để nhanh chóng đạt được mục đích đó. Tuy nhiên, trong tội dùng nhục hình, việc chứng minh đồng phạm đối với những người thực hiện hành vi phạm tội không phải đơn giản và thống nhất trong tất cả các trường hợp, bởi thực tế, rất nhiều trường hợp không chứng minh được những người phạm tội này có sự bàn bạc, thỏa thuận, thống nhất nào kể cả vào thời điểm trước hoặc trong quá trình thực hiện tội phạm. Do vậy, trong thực tế xảy ra việc các cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng đối với tội dùng nhục hình, khi xét xử, nếu có từ hai người trở lên cùng thực hiện tội phạm thì họ phải cùng chịu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả mà họ gây ra[3]. Tuy nhiên, việc nhận định như vậy trong một số trường hợp là chưa hoàn toàn chính xác, chưa đảm bảo sự phân hóa trách nhiệm hình sự đối với từng người phạm tội với hành vi tương ứng mà họ thực hiện. Không phải cứ có từ hai người trở lên cùng thực hiện tội phạm và cho rằng trường hợp này họ ngầm thống nhất ý chí với nhau, ngầm tiếp nhận ý chí cùng thực hiện tội phạm để chứng minh đồng phạm đối với họ.
Tác giả cho rằng, tội dùng nhục hình là tội phạm có chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, là những người có nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong hoạt động tố tụng, hoạt động thi hành án... Do đó, đối với loại tội phạm này, cần xác định chính xác người nào được phân công/có quyết định phân công thực hiện việc điều tra, thi hành án... mà có hành vi dùng nhục hình thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dùng nhục hình, còn người mặc dù cùng có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tố tụng, thi hành án... nhưng không phải là chủ thể được giao thực hiện hiện nhiệm vụ điều tra trong vụ án đó mà có hành vi đánh đập, đối xử tàn bạo với bị can trong vụ án đó thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự tương ứng đối với hậu quả mà hành vi của họ gây ra.
            Về xác định có đồng phạm hay không, trong khoa học luật hình sự, biểu hiện ý chí trong đồng phạm có hai hình thức là “hành động” và “không hành động”. Cụ thể như sau:
Về biểu hiện bằng hành động: Là trường hợp chủ thể chính có lời nói, cử chỉ, thái độ, ánh mắt, ám hiệu… để chủ thể đồng phạm hiểu được ý muốn của họ. Việc chứng minh sự tiếp nhận ý chí trong trường hợp này tương đối thuận lợi vì chủ thể chính đã thể hiện ý chí của mình bằng một hành động cụ thể.
Về biểu hiện bằng không hành động: Là sự để mặc cho chủ thể đồng phạm tự thực hiện hành vi tội phạm theo mong muốn của chủ thể chính. Đây là trường hợp rất phức tạp mà các cơ quan tố tụng thường vướng mắc khi giải quyết, bởi để chứng minh được việc “để mặc” đồng nghĩa với việc “mong muốn người khác thực hiện theo ý của mình” là vô cùng khó khăn[4]
Trở lại ví dụ nêu trên, nếu B, C, D đều có quyết định được giao nhiệm vụ xác minh vụ án theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định mà có hành vi dùng nhục hình gây ra cái chết cho A thì được xác định là đồng phạm đối với tội dùng nhục hình. Còn nếu chỉ có B là người có quyết định phân công nhiệm vụ xác minh vụ án còn C, D chỉ là cán bộ điều tra của cơ quan điều tra thuộc cùng đơn vị với B, thấy B trong quá trình điều tra đối với A có hành vi xô xát dẫn đến B có hành vi đánh A thì C, D cũng xông vào đánh A. Trường hợp này hậu quả là A chết, B bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dùng nhục hình còn C, D chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bởi tội dùng nhục hình là tội phạm được thực hiện bởi chủ thể đặc biệt, tội phạm được thực hiện ở những nơi đặc biệt (ví dụ: trại tạm giam), việc chứng minh các yếu tố của đồng phạm rất khó khăn nên thực tiễn áp dụng còn nhiều quan điểm chưa thống nhất, gây khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Do đó, tác giả kiến nghị trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở tổng kết thi hành tội phạm này trong thực tiễn sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể việc xác định đồng phạm trong tội dùng nhục hình. Đồng thời, cần tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ về việc áp dụng quy định của pháp luật về tội phạm này, đảm bảo việc áp dụng pháp luật được thống nhất và chính xác, đảm bảo hiệu lực và hiệu quả trong thực tiễn.
Tóm lại, có thể nói, việc xây dựng, ban hành một đạo luật cần đảm bảo các quy định, chế tài có tính dự liệu trước các trường hợp có thể xảy ra trong tương lai để các đạo luật đó không chỉ phát huy vai trò là công cụ để đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật,... mà còn đảm bảo tính ổn định lâu dài của đạo luật đó, nhất là Bộ luật Hình sự - một trong những đạo luật quan trọng nhất để duy trì và bảo vệ trật tự pháp luật, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Với việc phân tích, chỉ ra một số hạn chế, vướng mắc trong áp dụng các quy định đối với tội dùng nhục hình và đưa ra một số đề xuất, kiến nghị, tác giả mong muốn trong lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự tiếp theo, các quy định về tội dùng nhục hình tiếp tục được nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện./. 

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 20 (444), tháng 10/2021.)