Hoàn thiện chính sách pháp luật văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế

01/12/2015

TS. TRẦN THÁI DƯƠNG

Đại học Luật Hà Nội

Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế hiện nay, văn hoá được coi là sức mạnh mềm của dân tộc. Bên cạnh các yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, văn hoá là một trong những trụ cột phát triển bền vững của đất nước. Để bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước, chính sách pháp luật văn hoá cần tiếp tục được củng cố, hoàn thiện, phát huy được vai trò kiến tạo môi trường, định hướng, dẫn dắt sự phát triển của hệ thống pháp luật văn hoá trên cơ sở nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này. Từ nhận thức khái niệm chung về chính sách pháp luật văn hoá, những yêu cầu bảo đảm phát triển bền vững đối với chính sách pháp luật văn hoá, bài viết nêu khái quát những hạn chế, bất cập và đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật văn hoá đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay. 
 Untitled_1045.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Khái niệm chính sách pháp luật văn hoá và yêu cầu phát triển bền vững đối với chính sách pháp luật văn hoá
Trên bình diện khái quát, có thể hiểu chính sách pháp luật là tổng thể các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó nêu rõ những nhận định, đánh giá khách quan, khoa học về nhu cầu điều chỉnh pháp luật của xã hội, những định hướng lớn về xây dựng và thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội (KT-XH)… theo từng thời kỳ, giai đoạn nhất định[1]. Chính sách pháp luật là bộ phận cấu thành của hệ thống chính sách phát triển KT-XH toàn diện của đất nước, được thể hiện dưới những hình thức khá phong phú nhưng chủ yếu là các chiến lược phát triển tổng thể và các chiến lược phát triển về từng lĩnh vực pháp luật.
Ở nước ta hiện nay, văn hoá là khái niệm có nội hàm rất rộng[2], gồm nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội và quản lý nhà nước như văn hoá di sản, văn hoá xã hội, văn hoá nghệ thuật, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, thông tin - truyền thông, văn hoá đối ngoại… Do vậy, chính sách pháp luật văn hoá có thể được hiểu là tổng thể các quan điểm, định hướng trong đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực văn hoá theo nghĩa chung đó. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chính sách pháp luật văn hoá được tiếp cận nghiên cứu theo nghĩa hẹp hơn, chủ yếu gồm ba lĩnh vực: văn hoá di sản, văn hoá xã hội và văn hoá nghệ thuật.
Chính sách pháp luật văn hoá được thể hiện trong đường lối, chủ trương phát triển hệ thống pháp luật, phát triển KT-XH (tổng thể các yếu tố KT-XH, trong đó có văn hoá), phát triển nền văn hoá của Đảng và Nhà nước.
Yêu cầu phát triển bền vững đối với chính sách pháp luật chính là những nguyên tắc, tư tưởng chủ đạo, có tính xuyên suốt nhằm định hướng mục tiêu đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước trên tổng thể các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh đặt ra cho quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật với tính cách là đảm bảo pháp lý (thể chế) cho những nguyên tắc, định hướng mục tiêu phát triển bền vững. Yêu cầu phát triển bền vững đối với chính sách pháp luật đòi hỏi toàn bộ nội dung, hình thức thể hiện, quy trình xây dựng và ban hành cũng như tổ chức thực hiện chính sách pháp luật phải đáp ứng được mục tiêu, định hướng nhằm bảo đảm bằng pháp luật cho công cuộc phát triển bền vững toàn bộ nền KT-XH của đất nước.
Yêu cầu phát triển bền vững đặt ra đối với toàn bộ hệ thống chính sách pháp luật hiện nay nói chung gồm các định hướng lớn là:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, toàn diện, đồng bộ, có tính khả thi đáp ứng nhu cầu điều chỉnh của nền KT-XH theo yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế;
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước một cách hài hoà, cân đối, kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa phát triển KT-XH với phát triển văn hoá, bảo vệ vững chắc nền độc lập, thống nhất đất nước, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững đối với hệ thống chính sách pháp luật nói chung, có thể xác định được yêu cầu phát triển bền vững đối với chính sách pháp luật văn hoá dựa trên những nguyên tắc căn bản như sau:
- Chính sách pháp luật văn hoá là bộ phận hợp thành quan trọng, không thể thiếu trong toàn bộ hệ thống chính sách pháp luật;
- Yêu cầu phát triển bền vững đối với chính sách pháp luật văn hoá thống nhất với yêu cầu phát triển bền vững đối với toàn bộ hệ thống chính sách pháp luật.
Đối với chính sách pháp luật văn hoá, yêu cầu phát triển bền vững đặt ra không chỉ là đảm bảo phát triển bền vững cho lĩnh vực pháp luật văn hoá mà chính là nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế văn hoá đảm bảo sự phát triển cân đối, hài hoà, xử lý mối quan hệ giữa yêu cầu phát triển về chính trị, KT-XH, bảo vệ môi trường với phát triển nền văn hoá (nhất là trong điều kiện hội nhập như hiện nay). Do vậy, có thể hiểu yêu cầu phát triển bền vững đặt ra đối với chính sách pháp luật văn hoá là tổng thể các nguyên tắc, định hướng mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật văn hoá nhằm điều chỉnh một cách toàn diện, đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả các quan hệ xã hội theo hướng phát triển bền vững của đất nước. Yêu cầu phát triển bền vững đối với chính sách pháp luật văn hoá được xác định chủ yếu qua các chính sách như: chính sách phát triển bền vững, chính sách pháp luật, chính sách pháp luật văn hoá và các chính sách phát triển KT-XH nói chung của đất nước.
Ở tầm khái quát, yêu cầu phát triển bền vững đặt ra đối với chính sách pháp luật văn hoá là cần phải định hướng cho sự phát triển đầy đủ, toàn diện hệ thống pháp luật văn hoá đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trên lĩnh vực này trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế. Về nội dung điều chỉnh pháp luật, yêu cầu phát triển bền vững đặt ra vấn đề giải quyết mối liên hệ đảm bảo tính cân đối, hài hoà, sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển chính trị, KT-XH nói chung với phát triển văn hoá, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái. Quan điểm định hướng phát triển hệ thống pháp luật cần hướng tới mục tiêu xây dựng và hoàn thiện khung thể chế, đảm bảo sự điều chỉnh phù hợp nhằm phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Yêu cầu phát triển bền vững đối với chính sách pháp luật văn hoá bao gồm những nội dung lớn, định hướng chung cho toàn bộ hệ thống pháp luật văn hoá nhưng cũng có thể được xem xét trên từng lĩnh vực cụ thể của chính sách như: văn hoá di sản; văn hoá nghệ thuật; văn hoá xã hội.
Yêu cầu phát triển bền vững đối với hệ thống chính sách pháp luật nói chung quyết định yêu cầu phát triển bền vững đối với chính sách pháp luật văn hoá; yêu cầu phát triển bền vững đối với chính sách pháp luật văn hoá là biểu hiện cụ thể, góp phần củng cố yêu cầu phát triển bền vững đối với toàn bộ hệ thống chính sách pháp luật nói chung.
Về thẩm quyền, quy trình xây dựng, ban hành; tổ chức thực hiện; hình thức thể hiện nội dung chính sách cũng đặt ra những yêu cầu nhất định nhằm đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững của các chính sách pháp luật văn hoá và toàn bộ hệ thống chính sách pháp luật nói chung. Các yêu cầu có liên quan ở đây gồm:
- Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và quyền dân chủ của nhân dân trong việc xác định thẩm quyền ban hành, quy trình xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện;
- Phương thức thể hiện đảm bảo tính khoa học, hiệu quả;
- Đảm bảo sự hợp tác, hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy nội lực và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
2. Những hạn chế, bất cập về nội dung và hình thức của chính sách pháp luật văn hoá trước yêu cầu phát triển bền vững hiện nay
* Về nội dung chính sách pháp luật văn hoá
Qua nghiên cứu, có thể thấy ưu điểm về nội dung của chính sách pháp luật văn hoá hiện nay được thể hiện ở những nét chính như: đã chuyển tải được quan điểm phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước; định hướng được nội dung pháp luật nhằm đảm bảo phát triển bền vững; ghi nhận được nội dung cơ bản về định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật; định hướng được tổ chức thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo phát triển bền vững. Những ưu điểm đó góp phần tích cực trong việc xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật văn hoá trong thời gian qua ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển bền vững, chính sách pháp luật văn hoá hiện nay cũng còn những biểu hiện hạn chế, bất cập.
Thứ nhất, định hướng “xây” dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vẫn còn mang tính định tính là chủ yếu, thiếu các mô hình pháp lý với những nội dung điều chỉnh cụ thể; thiếu những tiêu chí, chuẩn mực pháp lý cần thiết cho quá trình xây dựng và triển khai thực hiện pháp luật văn hoá trong đời sống KT-XH. Do vậy, trên thực tế việc triển khai xây dựng và thực thi pháp luật trong điều kiện đổi mới và hội nhập hiện nay còn nhiều khó khăn, bởi lẽ văn hoá là lĩnh vực đời sống tinh thần và vật chất rất rộng lớn, mang tính thiêng liêng, nhạy cảm cao; giữa giá trị văn hoá (tinh thần) và giá trị vật chất có sự lồng ghép vào nhau, hàm chứa và gắn bó chặt chẽ trong các sản phẩm, các dịch vụ cung ứng cho đời sống xã hội. Những năm gần đây, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cũng đã ban hành được một số tiêu chuẩn cụ thể về các danh hiệu như “gia đình văn hoá”, “thôn văn hoá”, “làng văn hoá”, “ấp văn hoá”, “tổ dân phố văn hoá” và tương đương (khu dân cư văn hoá)[3]. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện cũng còn nhiều khó khăn và mang tính hình thức, trong khi đó các định hướng xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn quan trọng khác để đánh giá, giám sát tính hợp pháp của hành vi xã hội dưới góc độ văn hoá lại chưa được chú trọng. Để vạch hướng phát triển bền vững, nhất thiết chính sách pháp luật văn hoá phải đưa ra được những mục tiêu cần đạt tới trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Chẳng hạn, trên cơ sở tính toán, xác định nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực, chính sách phải định hướng, tập trung nguồn lực cho việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực thi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan một cách toàn diện, đồng bộ. Chính sách pháp luật văn hoá không chỉ nêu định hướng quy định những hành vi hợp pháp mà còn phải định hướng quy định hành vi vi phạm, các chế tài cũng như trình tự, thủ tục áp dụng các quy phạm tương ứng trong lĩnh vực này.
Thứ hai, trong mối quan hệ với các yếu tố khác trong trụ cột phát triển bền vững của Việt Nam, văn hoá chưa có được vị trí, vai trò tương xứng (vẫn chỉ là một nội dung của yếu tố xã hội theo nghĩa rộng). Do vậy, sự gắn kết những nội dung định hướng xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong pháp luật văn hoá với những định hướng phát triển pháp luật trong các lĩnh vực khác chưa đảm bảo được một cách đầy đủ cho các yêu cầu của phát triển bền vững. Chính sách pháp luật văn hoá với những định hướng đảm bảo phát triển bền vững đất nước vẫn còn khá biệt lập, chưa thực sự gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào chính sách pháp luật trong các lĩnh vực KT-XH, an ninh, quốc phòng và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái. Đặc biệt, nội dung chính sách “kinh tế trong văn hoá” và chính sách “văn hoá trong kinh tế” vẫn chưa được định hình một cách cụ thể rõ nét. Do vậy, pháp luật khó có thể đưa ra được những đại lượng, mô hình, tiêu chuẩn đánh giá sự đảm bảo tính lồng ghép đó cho cả hai lĩnh vực hoạt động văn hoá và kinh tế. Quan điểm định hướng xây dựng văn hoá tiêu dùng (trong lĩnh vực phát triển kinh tế) là một định hướng đúng đắn nhưng khi xác định nội dung chính sách pháp luật văn hoá đảm bảo phát triển bền vững cho đất nước, chúng ta lại chưa xác định được khái niệm, mô hình văn hoá tiêu dùng phù hợp với điều kiện KT-XH và bản chất con người Việt Nam hiện nay. Rõ ràng, ở đây thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lĩnh vực KT-XH và văn hoá trong hoạch định chính sách pháp luật đảm bảo phát triển bền vững hiện nay. Có thể dẫn chứng một ví dụ khá điển hình là vừa qua chúng ta chưa gắn kết chặt chẽ chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hoá với các chính sách kinh tế, giải quyết an sinh xã hội, quy hoạch phát triển các vùng miền nên đã xảy ra tình trạng người dân muốn trả lại danh hiệu khu di tích hoặc di sản đã được công nhận.
Thứ ba, chính sách pháp luật văn hoá của chúng ta hiện nay chưa thể hiện đầy đủ tư duy chiến lược phát triển hệ thống pháp luật một cách bền vững. Các quan điểm định hướng phát triển pháp luật văn hoá Việt Nam mới chỉ được thể hiện một cách khái quát trong Nghị quyết số 48-NQ/TƯ của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng, Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2020, Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020, Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 mà chưa thể hiện được một cách cụ thể định hướng xây dựng và thực hiện hệ thống pháp luật từ Hiến pháp, luật đến các loại văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, kể cả về nội dung “xây” và “chống” trong lĩnh vực xây dựng, bảo vệ và phát triển nền văn hoá dân tộc. Văn hoá là lĩnh vực tinh thần nhạy cảm, có sự linh hoạt, biến đổi thường xuyên, nhất là trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường, đổi mới và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Do vậy, việc định hướng cho sự phát triển của hệ thống pháp luật văn hoá đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững chung của đất nước cũng cần dựa trên cơ sở điều tra, khảo sát, đánh giá đúng đắn nhu cầu, mức độ đòi hỏi sự điều chỉnh pháp luật của các quan hệ xã hội để đưa ra được lộ trình xây dựng và thực hiện pháp luật phù hợp với từng giai đoạn. Việc xác định quan điểm có tính chỉ đạo về phân định vai trò mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật (tương ứng với mỗi loại là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân), mức độ, phạm vi điều chỉnh, phối hợp điều chỉnh các quan hệ xã hội là điều cần thiết. Tuy vậy, ở đây chúng ta có thể thấy chính sách pháp luật văn hoá hiện nay vẫn còn thiếu hụt, cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện. Chẳng hạn, định hướng phát triển pháp luật văn hoá chưa được gắn kết chặt chẽ với quá trình sửa đổi Hiến pháp, chương trình xây dựng, hoàn thiện các đạo luật trong các lĩnh vực KT-XH, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường; còn có sự định hướng xây dựng pháp lệnh để điều chỉnh một số lĩnh vực quan hệ xã hội ở lĩnh vực văn hoá như nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật - nhiếp ảnh… Định hướng này tỏ ra chưa phù hợp, chưa thống nhất với định hướng hạn chế và tiến tới xoá bỏ pháp lệnh với tính cách là loại hình thức văn bản quy phạm pháp luật. Ở góc độ khác cũng còn những lĩnh vực cụ thể khác của nền văn hoá chưa được định hướng điều chỉnh pháp luật. Chẳng hạn, đối với tiếng Việt (gồm tiếng nói và chữ viết, đã được xác định là một trong những hình thức di sản phi vật thể cần được bảo vệ và phát huy), nhất là trong điều kiện mở cửa, hội nhập, giao lưu, hợp tác quốc tế được đẩy mạnh như hiện nay, quan điểm chính sách pháp luật của ta chưa được định hình một cách tường minh, ngoài khẩu hiệu chung chung là “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” đã được đưa ra cách đây mấy chục năm. Đối với loại di sản phi vật thể khác là “tập quán xã hội và tín ngưỡng”, chính sách pháp luật văn hoá của chúng ta vẫn chưa phân định những phạm vi hoặc ranh giới giữa tập quán tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, tín ngưỡng tâm linh cần bảo vệ, bảo tồn, phát huy với những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan cần đấu tranh ngăn chặn, loại trừ. Vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực văn hoá, chống xu hướng bá quyền, ngoại xâm văn hoá, nhất là ở lĩnh vực văn hoá tư tưởng còn nhiều diễn biến phức tạp, khó khăn. Tuy nhiên, chính sách pháp luật văn hoá của chúng ta hiện nay cũng chưa đưa ra được định hướng cụ thể để xây dựng các mô hình pháp luật (xây dựng và thực hiện pháp luật), các tiêu chuẩn pháp lý đánh giá tính đúng đắn, phù hợp đối với các hành vi xã hội.
Từ góc độ hội nhập quốc tế, trong đó có khía cạnh văn hoá, chính sách pháp luật văn hoá hiện nay của chúng ta vẫn chưa thể hiện được một cách đầy đủ, đồng bộ quan điểm tôn trọng và thực thi các cam kết quốc tế có liên quan. Chẳng hạn, Việt Nam đã tham gia Công ước của Tổ chức Văn hoá, giáo dục và khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) về Bảo vệ và thúc đẩy sự đa dạng trong biểu đạt văn hoá. Chúng ta đã có chủ trương chung về xây dựng nền văn hoá Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Tuy nhiên, các định hướng cụ thể hoá chủ trương này chưa được làm rõ, những phong tục, tập quán, nét văn hoá riêng của các dân tộc thiểu số (trong mối liên hệ với dân tộc Kinh và các dân tộc khác) ở Việt Nam cần được tôn trọng, bảo vệ, bảo tồn và phát huy. Tuy vậy, Nhà nước cũng phải khẳng định một cách nhất quán nguyên tắc xác định phạm vi, ranh giới giữa cái được giữ gìn, bảo vệ, bảo tồn, phát huy với cái cần phải ngăn cấm, đấu tranh xoá bỏ hoặc hạn chế, không khuyến khích. Nói cách khác, sự định hướng cho việc xây dựng các tiêu chí, định chuẩn pháp lý còn thiếu vắng nhiều trong hệ thống chính sách pháp luật văn hoá của chúng ta hiện nay. Điều này khiến cho quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật văn hoá gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, là một trong những lý do dễ gây nên tình trạng ban hành “luật ống”, “luật khung” cũng như có quá nhiều văn bản quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành văn bản luật. Việc lồng ghép các yếu tố bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững xét từ khía cạnh văn hoá trong xây dựng chính sách pháp luật về các lĩnh vực KT-XH và thực tiễn thực hiện pháp luật chưa được cụ thể hoá thành các tiêu chuẩn, mô hình thích hợp, khiến cho việc áp dụng còn nhiều lúng túng, không thống nhất.
* Về hình thức thể hiện chính sách pháp luật văn hoá
Yêu cầu phát triển bền vững không chỉ đặt ra đối với nội dung mà còn đặt ra cả đối với hình thức (cách thức thể hiện) của chính sách pháp luật văn hoá. Những yêu cầu đó đã được chính sách pháp luật văn hoá hiện hành đáp ứng ở mức độ nhất định, thể hiện qua các khía cạnh chủ yếu sau:
-  Chính sách pháp luật văn hoá được thể hiện ở nhiều hình thức đa dạng, phong phú và hình thành nên hệ thống chính sách pháp luật khá toàn diện, nhất quán về lĩnh vực này. Hệ thống thể chế chính trị - pháp lý Việt Nam có những điểm đặc thù so với hệ thống thể chế nhiều nước khác, đó là sự thể hiện cơ chế phân công vai trò: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Do vậy, xét về mặt hình thức thể hiện, chính sách pháp luật văn hoá được chứa đựng trong hệ thống các văn bản của Đảng (cương lĩnh chính trị, đề cương, chiến lược, nghị quyết đại hội Đảng, nghị quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng, các bài phát biểu của lãnh đạo Đảng…), các văn bản của Nhà nước như chiến lược, tầm nhìn, chương trình, đề án, mục tiêu, kế hoạch, quy hoạch… và các văn bản quy phạm pháp luật. Với sự phân vai cho các chủ thể khá rõ ràng, chính sách pháp luật văn hoá đã được định hình từ tầng cao nhất là các văn bản của Đảng (được gọi chung là đường lối của Đảng) đến các văn bản cụ thể hoá của Nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan chính quyền địa phương (theo sự phân cấp quản lý nhà nước). Tiếp đến là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực thi. Chúng ta có thể thấy rõ trách nhiệm của Nhà nước là tiến hành cụ thể hoá đường lối của Đảng, thực hiện vai trò quản lý xã hội, xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật nói chung, trong đó có lĩnh vực pháp luật văn hoá. Tuy vậy, thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam cho thấy, chính sách nói chung và chính sách pháp luật còn tiếp tục được hoàn thiện và chính thức được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật. Vì thế, đây cũng là một trong những hình thức thể hiện chính sách pháp luật văn hoá được sử dụng khá hiệu quả với tính cách là sự pháp luật hoá nội dung chính sách cần thiết. Như vậy, với các hình thức đa dạng, phong phú, nhiều cấp độ, hệ thống chính sách pháp luật văn hoá của Việt Nam về cơ bản có sự thuận lợi để thể hiện một cách toàn diện, đầy đủ, đồng bộ, nhất quán các chủ trương định hướng xây dựng và thực hiện pháp luật văn hoá theo yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
- Ưu điểm chủ yếu về cách thức tiến hành xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật văn hoá hiện nay được thể hiện ở chỗ quy trình xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật văn hoá đã được xác định và thực hiện tương đối chặt chẽ, hợp lý. Điều đó bước đầu phát huy được trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong bộ máy Đảng, Nhà nước; phát huy được vai trò của các chuyên gia, nhà khoa học và nhất là vai trò của người dân, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xã hội dân sự trong quá trình điều tra, khảo sát, đánh giá hiện trạng nền văn hoá, nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật và quá trình hình thành nên các quan điểm định hướng, lồng ghép các yếu tố phát triển bền vững; tổ chức thực hiện, hoàn thiện chính sách pháp luật văn hoá theo yêu cầu phát triển bền vững.
Tuy đã có một số ưu điểm như trên nhưng hình thức thể hiện chính sách pháp luật văn hoá trước yêu cầu phát triển bền vững hiện nay của chúng ta vẫn còn những điểm bất cập, hạn chế sau:
Một là, các văn bản chứa đựng nội dung chính sách pháp luật còn tản mát, thiếu tính đồng bộ, thống nhất. Chẳng hạn, đối với hình thức văn bản có tên gọi là “chiến lược” thì có chiến lược là văn bản của Đảng (như Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Chiến lược phát triển KT-XH 2011 - 2020). Chiến lược còn là văn bản của Nhà nước (Thủ tướng Chính phủ ký ban hành) như Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2020, Chiến lược phát triển bền vững 2011 - 2020 (năm 2004, chiến lược phát triển bền vững có tên là “Định hướng chiến lược phát triển bền vững - Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam”). Ở góc độ chính sách pháp luật văn hoá, sự tồn tại các hình thức văn bản với tên gọi giống nhau do các chủ thể khác nhau ban hành đã không gắn được hình thức văn bản với trách nhiệm của mỗi loại chủ thể có thẩm quyền, dễ gây nên tình trạng lẫn lộn giữa các văn bản đó. Chúng tôi cho rằng, chính sách pháp luật cần phải được thể hiện dưới những hình thức phù hợp, trong đó mỗi loại hình thức có vai trò nhất định, bổ sung, hỗ trợ cho nhau một cách chặt chẽ, tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. 
Tính tản mát, thiếu tập trung, thống nhất của chính sách pháp luật văn hoá hiện nay biểu hiện ở chỗ định hướng nội dung, phương thức, phạm vi mức độ điều chỉnh pháp luật được ghi nhận trong nhiều loại hình thức văn bản khác nhau. Tình trạng đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến tính không đồng bộ trong chính sách pháp luật xét từ mối quan hệ giữa các khía cạnh phát triển KT-XH, văn hoá với điều chỉnh pháp luật và phát triển bền vững. Điều đó cũng dẫn đến một thực trạng là có sự rời rạc, thiếu tính đồng bộ khi thể hiện các quan điểm định hướng xây dựng và thực hiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật văn hoá. Chẳng hạn, đường lối phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được thể hiện khá hoàn chỉnh trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 5 (khoá VIII) cũng như Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng số 48-NQ/TƯ nhưng khi xây dựng Chiến lược phát triển KT-XH 2011 - 2020; Chiến lược phát triển văn hoá; Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 còn chưa thể hiện đầy đủ các yêu cầu phát triển bền vững nói chung và phát triển bền vững nền văn hoá dân tộc nói riêng. Vai trò của pháp luật và thực hiện pháp luật chưa tương xứng với định hướng xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển bền vững đất nước. Những quan điểm định hướng về xây dựng và thực hiện pháp luật trong các văn bản này phần nhiều còn ở tầm khái quát, chung chung, thiếu nhất quán. Các nguyên tắc, mô hình, tiêu chuẩn, khung pháp lý còn thiếu và không đồng bộ. Có thể lấy ví dụ cụ thể: trong Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 khi đề cập các chỉ tiêu giám sát và đánh giá phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, bên cạnh các chỉ tiêu tổng hợp như “GDP xanh”, “chỉ số phát triển con người” (HDI), "chỉ số bền vững môi trường” (ESI); các chỉ tiêu về kinh tế; các chỉ tiêu về xã hội, các chỉ tiêu về tài nguyên và môi trường thì không có chỉ tiêu giám sát, đánh giá phát triển bền vững dưới góc độ văn hoá. Các chỉ tiêu số sinh viên trên 10.000 dân; số thuê bao INTERNET trên 100 dân (nằm trong các chỉ tiêu về phát triển con người) chưa đủ để giám sát, đánh giá pháp luật và thực hiện pháp luật văn hoá theo yêu cầu phát triển bền vững được. Bản Kế hoạch hành động quốc gia về phát triển bền vững giai đoạn 2013 - 2015[4] cũng đã giao nhiệm vụ cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành thông tư để hướng dẫn một số vấn đề cụ thể nhằm thực hiện Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam 2011 - 2020[5]. Tuy nhiên, toàn bộ nội dung bản Kế hoạch và Thông tư nêu trên đây cũng không đề cập việc xây dựng và triển khai áp dụng các tiêu chuẩn, công cụ giám sát, đánh giá tác động văn hoá đối với các dự án, chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH nói chung. Một trong những nội dung có tính kỹ thuật là việc lồng ghép các yêu cầu phát triển bền vững trong quá trình xây dựng, triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH đã được Thông tư hướng dẫn khá cụ thể nhưng cũng không thấy có việc lồng ghép các yêu cầu phát triển bền vững ở khía cạnh văn hoá. Trong khi đó, trên quan điểm yêu cầu phát triển bền vững đối với chính sách pháp luật nói chung, yếu tố văn hoá có vị trí, vai trò tương xứng với các yếu tố khác là KT-XH, quốc phòng, an ninh, tài nguyên, môi trường sinh thái. Văn hoá không chỉ có nhu cầu phát triển tự thân mà hơn thế phải được thấm sâu vào mọi lĩnh vực hoạt động KT-XH. Vốn văn hoá ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong cơ cấu nguồn vốn KT-XH; văn hoá ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng thu nhập quốc dân. Ngược lại, các hoạt động KT-XH phải tuân theo yêu cầu phát triển bền vững nền văn hoá và những thành tựu về phát triển KT-XH là điều kiện đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Do thiếu tính đồng bộ trong các văn bản hoạch định chính sách phát triển bền vững ở các lĩnh vực KT-XH, văn hoá, quốc phòng, an ninh, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái và pháp luật nên chúng ta có thể thấy một thực trạng là trong khi chúng ta đã đặt thành nguyên tắc các dự án phát triển KT-XH cần phải có đánh giá tác động môi trường, các dự án luật phải có đánh giá tác động KT-XH thì vẫn chưa có định hướng xây dựng nguyên tắc pháp lý về việc đánh giá tác động văn hoá đối với các dự án phát triển KT-XH, thậm chí cả các dự án luật. Đây rõ ràng là sự mất cân đối, thiếu sự phối kết hợp chặt chẽ trong định hướng chính sách pháp luật nói chung và chính sách pháp luật văn hoá trước yêu cầu phát triển bền vững Việt Nam hiện nay.
Hai là, về thẩm quyền ban hành văn bản chính sách nói chung, trong đó có nội dung chính sách pháp luật. Hiến pháp là văn bản chính trị - pháp lý có hiệu lực cao nhất trong hệ thống pháp luật, Hiến pháp cần phải ghi nhận nguyên tắc chung có tính định hướng cho sự phát triển hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật văn hoá trước yêu cầu phát triển bền vững, ghi nhận một cách tường minh các yếu tố trụ cột của phát triển bền vững Việt Nam, trong đó có yếu tố nền tảng tinh thần của toàn xã hội, đó là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mặt khác, với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan có quyền lập pháp, Quốc hội phải có thẩm quyền quyết định toàn bộ hệ thống chính sách cơ bản của quốc gia, trong đó có chính sách pháp luật, chính sách phát triển bền vững và chính sách phát triển nền văn hoá dân tộc. Do vậy, hình thức “chiến lược” là hình thức thể hiện chính sách dài hạn, tổng thể về các lĩnh vực phát triển bền vững mặc dù được Chính phủ các bộ ngành chuẩn bị nhưng cũng cần phải được xác định thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội, không nên phê duyệt chiến lược bằng một quyết định của Thủ tướng Chính phủ như hiện nay. Với tư cách là đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng không nên ban hành chủ trương, đường lối bằng hình thức “chiến lược”. Trong điều kiện chính trị Việt Nam hiện nay, chúng tôi cho rằng Đảng nên tập trung vào việc xác định và kiểm tra, giám sát việc thực hiện những định hướng lớn về chính trị cho sự phát triển của đất nước, còn việc ban hành và tổ chức thực thi toàn bộ hệ thống chính sách quốc gia nên xác định là công việc của bộ máy nhà nước. Hình thức văn bản của Đảng nên thống nhất quy định là cương lĩnh (dài hạn), các nghị quyết như nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc (theo nhiệm kỳ), nghị quyết của Ban Chấp hành trung ương (theo khoá), nghị quyết của Bộ Chính trị (theo khoá)… Văn bản của Đảng đóng vai trò là cơ sở định hướng chính trị cho việc xây dựng và thực thi các chính sách quốc gia, trong đó có chính sách pháp luật, chính sách phát triển bền vững, chính sách phát triển nền văn hoá dân tộc. Rất tiếc, Hiến pháp mới được sửa đổi (năm 2013) hiện nay của chúng ta vẫn chưa thể hiện được tinh thần này. Các chính sách quan trọng của quốc gia là chính sách pháp luật, chính sách phát triển bền vững và chính sách xây dựng nền văn hoá dân tộc vẫn chưa được xác định thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội.
Về cách diễn đạt, các văn bản đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vẫn chưa thể hiện rõ với những tính chất đặc trưng riêng. Nhiều văn bản của Nhà nước lặp lại lối diễn đạt như văn bản của Đảng và ngược lại, văn bản của Đảng lại đi sâu vào việc xác định những chủ trương, biện pháp chi tiết, cụ thể. Ở đây có thể lấy ví dụ cụ thể, đó là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá VIII về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Có thể nói đây là văn bản thể hiện một cách khá toàn diện và sâu sắc những định hướng phát triển nền văn hoá Việt Nam trong bối cảnh đổi mới, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững của chặng đường 15 năm qua. Tuy vậy, nhiều định hướng về nội dung xây dựng nền văn hoá nước nhà cũng như các giải pháp tổ chức thực hiện được đề ra một cách cụ thể, biểu hiện sự làm thay vai trò hoạch định chính sách quốc gia của các cơ quan nhà nước. Ngược lại, Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2020 (được ban hành theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 581/2009/QĐ-TTg ngày 6/5/2009) có nhiều đoạn diễn đạt như văn bản nghị quyết của Đảng, thực chất là nhắc lại một cách không cần thiết nội dung nghị quyết của Ban Chấp hành trung ương Đảng. Trong khi đó có những nội dung quan trọng khác lại chưa được xác định cụ thể, đầy đủ trong Chiến lược như chủ trương chung, các mục tiêu, giải pháp xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật văn hoá đáp ứng toàn diện các yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Tình trạng thiếu tính khoa học, rõ ràng về thẩm quyền và hình thức văn bản đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước như phân tích trên đã làm giảm tính thống nhất và hiệu lực, hiệu quả chính sách pháp luật văn hoá hiện nay của chúng ta. Điều này ảnh hưởng không tốt đến quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật văn hoá trước các yêu cầu phát triển bền vững đất nước hiện nay, làm cho hệ thống pháp luật chưa thể hiện được đầy đủ, toàn diện và chính xác tinh thần chính sách phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay. Nhìn chung, từ góc độ hình thức thể hiện đến thẩm quyền, quy trình, cách thức xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật, chính sách pháp luật văn hoá hiện nay của chúng ta vẫn chưa có khả năng thống nhất, gắn kết chặt chẽ giữa các yếu tố chính trị, KT-XH với văn hoá, giữa phát triển nền dân chủ, KT-XH, văn hoá, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái với sự đảm bảo cho phát triển đất nước bằng hệ thống pháp luật trên cơ sở tư duy, tầm nhìn phát triển bền vững trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế hiện nay.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện chính sách pháp luật văn hoá theo yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
Yêu cầu phát triển bền vững của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt ra vấn đề hết sức cấp bách là cần nâng cao nhận thức về vai trò của chính sách pháp luật văn hoá đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc và công cuộc đổi mới phát triển bền vững đất nước nói chung. Phát triển bền vững đã trở thành nguyên tắc, định hướng chủ đạo trong chính sách pháp luật phát triển của Việt Nam nói chung. Phát triển bền vững tiếp tục đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với toàn bộ hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước, trong đó có chính sách pháp luật văn hoá. Có một nhà nghiên cứu văn hoá đã nói: nếu văn hoá không còn thì với xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, chúng ta sẽ không còn là Việt Nam nữa. Chính sách pháp luật văn hoá hiện nay còn có những điểm hạn chế, bất cập thể hiện ở cả nguyên tắc, định hướng chung và các lĩnh vực cụ thể của chính sách như trên chúng tôi đề cập. Ở tầm chủ trương, định hướng lớn về chính trị, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành trung ương Đảng (khoá VIII) được ban hành cách đây đã 16 năm, đến nay đời sống KT-XH đã có nhiều biến chuyển căn bản. Trình độ dân chủ, dân trí, đời sống xã hội và công nghệ thông tin đã có tiến bộ vượt bậc so với những năm cuối thập kỷ thứ 9 của thế kỷ trước. Điều này dẫn đến sự cần thiết phải có sự sửa đổi, bổ sung các quan điểm chính sách phát triển nền văn hoá dân tộc thích ứng với yêu cầu mới. Trên thực tế, nhiều quan điểm mới về xây dựng nền văn hoá dân tộc, về phát triển bền vững của Đảng được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung năm 2011), trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, nhất là trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá XI (tháng 5 năm 2014) “Về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” cũng như các văn bản khác của Đảng đã vượt qua Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành trung ương khoá VIII (năm 1998). Đặc biệt, khâu cụ thể hoá chính sách và tổ chức thực hiện chính sách bên cạnh kết quả đáng ghi nhận vẫn còn khá nhiều điểm tồn tại[6]. Thực trạng đó khiến cho hệ thống pháp luật văn hoá chưa đảm bảo được đầy đủ, toàn diện, thống nhất các yêu cầu phát triển bền vững nói chung và phát triển nền văn hoá Việt Nam. Hình thức thể hiện chính sách pháp luật văn hoá chưa đảm bảo khoa học, đồng bộ, thống nhất; thẩm quyền hoạch định và tổ chức thực thi chính sách pháp luật văn hoá còn một số bất hợp lý cần khắc phục.
Những biểu hiện hạn chế, bất cập đã nêu là do tổng thể các nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan có ý nghĩa trực tiếp. Đó là nhận thức chung của xã hội, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ làm chính sách, sự phối hợp kém hiệu quả của các cơ quan chức năng trong hoạch định và thực thi chính sách. Sự vận hành của bộ máy Đảng, Nhà nước và xã hội còn thiếu tính đồng bộ, thiếu sự phối hợp ăn khớp, nhịp nhàng khiến cho hệ thống chính sách pháp luật phát triển chưa bảo đảm tính thống nhất, hiệu quả.
Qua nghiên cứu, để góp phần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật nói chung, chính sách pháp luật văn hoá theo yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, bước đầu chúng tôi xin nêu một số kiến nghị sau:  
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách pháp luật phát triển  
Chính sách pháp luật phát triển là những nguyên tắc, định hướng lớn, có tính chất chung, bao trùm các chính sách pháp luật trên từng lĩnh vực cụ thể. Chính sách pháp luật phát triển giữ vai trò định hướng, điều hoà, phối hợp toàn bộ các chính sách pháp luật phát triển ở tất cả các lĩnh vực. Chính sách pháp luật phát triển cần nhấn mạnh quan điểm phát triển bền vững trên cơ sở kết hợp hài hoà các yếu tố cơ bản (trụ cột của sự phát triển) gồm: chính trị, quốc phòng-an ninh, KT-XH, văn hoá, môi trường. Đặc biệt chính sách pháp luật văn hoá phải được coi là yếu tố bên trong, cấu thành nên các trụ cột hay bệ đỡ của chính sách pháp luật phát triển bền vững của Việt Nam.
Thứ hai, hình thành những nguyên tắc xây dựng các mô hình, tiêu chuẩn pháp lý về nền văn hoá Việt Nam phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững.
Để xây dựng được nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chính sách pháp luật văn hoá cần xác định được những nguyên tắc cụ thể hoá đường lối chung của Đảng nhằm thiết lập các hệ chuẩn, tiêu chí, mô hình pháp lý về nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, trong đó kết hợp hài hoà tính tuyền thống và tính tiên tiến của bản sắc văn hoá Việt Nam. Cần có chính sách cụ thể để phát triển hệ thống pháp luật bảo đảm được sự phối hợp chặt chẽ, hài hoà giữa phát triển KT-XH với phát triển văn hoá, giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái. Văn hoá bên cạnh là yếu tố đóng vai trò làm nền tảng tinh thần của dân tộc, thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội nhưng văn hoá cũng là cái gì đó rất thực tế, hữu dụng và cũng phải được coi là ngành hoạt động kinh tế, là tiêu chí của đời sống chính trị, ngoại giao, là nội dung cần gìn giữ, bảo vệ trong nội hàm chủ quyền quốc gia.
Bên cạnh việc hình thành nên những nguyên tắc xác định các yếu tố “xây”, yếu tố “giữ gìn”, “bảo tồn”, “phát huy”, yếu tố “bản sắc” riêng của nền văn hoá dân tộc, chính sách pháp luật văn hoá cũng cần định hình rõ nguyên tắc xác định các yếu tố cần phải “chống”, loại bỏ hay hạn chế, không khuyến khích. Chính sách pháp luật văn hoá phải thể hiện được một cách tập trung, thống nhất quan điểm coi pháp luật là yếu tố không thể thiếu trong hệ thống thể chế văn hoá, bảo đảm sự vận hành của nền văn hoá đúng trật tự, theo yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Chính sách pháp luật văn hoá cũng phải hình thành nên định hướng nguyên tắc cho việc thể hiện sự lồng ghép các yêu cầu văn hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, chính sách pháp luật văn hoá cũng cần thể hiện rõ định hướng phát triển đồng bộ các lĩnh vực pháp luật, từ pháp luật nội dung đến pháp luật tố tụng, thiết chế bộ máy văn hoá. Đánh giá tác động văn hoá cần được quy định mang tính bắt buộc trong nội dung và quy trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật ở mọi lĩnh vực KT-XH.
Thứ ba, đổi mới phương thức ban hành, hình thức thể hiện chính sách pháp luật văn hoá.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, nền dân chủ, tôn trọng và bảo đảm các quyền con người hiện nay, chính sách pháp luật văn hoá phải được xây dựng dựa trên cơ sở và là kết quả của dân chủ. Quy trình hình thành chính sách pháp luật cần huy động được nguồn lực về tinh thần, trí tuệ và vật chất to lớn của các cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng dân tộc hướng tới bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền văn hoá. Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy xây dựng và vận hành chính sách có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc thiết kế, bố trí phân công vai trò, thực hiện vai trò, kiểm soát việc thực hiện vai trò giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị phải nhằm mục tiêu cao cả là hướng tới con người và vì con người. Người dân có quyền và Nhà nước phải có cơ chế pháp lý để bảo đảm quyền yêu cầu hình thành nên các chính sách vì cuộc sống của họ và giám sát việc thực thi các chính sách đó. Cần xác định rõ hình thức thể hiện chính sách đi liền với vai trò, trách nhiệm của các chủ thể hoạch định chính sách pháp luật văn hoá của các cơ quan, tổ chức trong bộ máy Đảng và hệ thống các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Chúng tôi cho rằng, trong điều kiện hiện nay, Đảng cần đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc đảng cầm quyền. Về chính sách pháp luật phát triển nói chung và chính sách pháp luật văn hoá, có thể chúng ta vẫn cần tới nghị quyết mới của hội nghị Ban Chấp hành trung ương về chủ đề văn hoá nhưng chắc chắn phải trên cơ sở tư duy mới về sự phân công vai trò giữa Đảng và Nhà nước. Nghị quyết của Đảng về văn hoá chỉ nên thể hiện những tư tưởng có tính định hướng lớn về chính trị, có tầm nhìn xa, rộng và sâu sắc từ các khía cạnh tổng thể tình hình trong nước và xu hướng quốc tế. Chiến lược phát triển KT-XH, phát triển văn hoá, chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cần được coi là hình thức văn bản chính sách có tính trực tiếp của Nhà nước, do cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân quyết định. Về mặt hình thức thể hiện, cần có quy định cụ thể về thẩm quyền ban hành, các hình thức, quy trình ban hành văn bản chính sách đối với mỗi chủ thể trong hệ thống chính trị, đặc biệt chính sách pháp luật nói chung và chính sách pháp luật văn hoá phải có hình thức văn bản độc lập không trùng hợp với văn bản quy phạm pháp luật. Mặt khác, các hình thức văn bản chính sách của Nhà nước (chẳng hạn chiến lược, chương trình mục tiêu, đề án, dự án…) cũng phải có cách thức riêng, đặc thù, không lặp lại đường lối chủ trương được thể hiện trong văn bản của Đảng (như cương lĩnh chính trị, nghị quyết đại hội, nghị quyết hội nghị trung ương...).
Thứ tư, đổi mới nội dung, phương thức cụ thể hoá và tổ chức thực hiện chính sách pháp luật văn hoá.
Để cụ thể hoá và tổ chức thực hiện chính sách pháp luật văn hoá cần có cơ chế pháp lý bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể trong các hoạt động xây dựng pháp luật và phát triển KT-XH, văn hoá. Đánh giá tác động chính sách pháp luật văn hoá không chỉ là nội dung, quy trình bắt buộc trong hoạt động xây dựng chính sách pháp luật mà còn là yêu cầu không thể thiếu trong toàn bộ quá trình thực hiện, giám sát của người dân trong việc thực hiện chính sách pháp luật văn hoá./. 

 


[1] Xem thêm: PGS,TS. Nguyễn Văn Động, Chính sách pháp luật phát triên bền vững ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học số 3/2013; tr.10; TS. Trần Thái Dương, Xây dựng chính sách pháp luật theo quan điểm phát triển bền vững, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2/2009; tr.3.
[2] Theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng (khoá VIII) số 03-NQ/TW ngày 17/6/1998 về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, văn hoá gồm các lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống; giáo dục, khoa học; văn học, nghệ thuật; thông tin đại chúng; giao lưu văn hoá với nước ngoài.
[3] Xem: Thông tư của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch số 12/2011/TT-BVHTTDL ngày 10/10/2011 quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận danh hiệu “gia đình văn hoá”, “thôn văn hoá”, “làng văn hoá”, “bản văn hoá”, “ấp văn hoá”, “tổ dân phố văn hoá” và tương đương.
 
[4] Xem: Kế hoạch hành động quốc gia về phát triển bền vững, ban hành theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 160/2013/QĐ-TTg ngày 15/01/2013.
[5] Xem: Thông tư của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư số 02/2013/TT-BKHĐT ngày 27/3/2013 hướng dẫn thực hiện Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
[6] Xem thêm: Thông báo Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá XI. Nguồn: dangcongsan.vn, truy cập ngày 15/9/2015.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 23(303), tháng 12/2015)


Thống kê truy cập

32962131

Tổng truy cập