Biển Đông: Các vấn đề chính trị - pháp lý năm 2014

01/02/2014

PGS. TS.NGUYỄN HỒNG THAO

Đại học Quốc gia Hà Nội

Năm 2014 là năm có nhiều thách thức trên biển đối với Việt Nam. Nổi bật nhất là cuộc đấu tranh trên thực địa và ngoại giao chống lại sự xâm hại của giàn khoan di động Haiyang Shiyou (Hải dương Thạch du - HYSY 981) và cân nhắc mức độ tham gia trong vụ kiện của Philippines với Trung Quốc. Các bài học trong xử lý hai vấn đề này sẽ có giá trị cho cuộc đấu tranh trong những năm tiếp theo.
Untitled_415.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
Sự kiện HYSY 981 và các bài học
2014 là một năm không hề yên tĩnh trên Biển Đông. Ngày 1/1/2014, Chính quyền tỉnh Hải Nam chính thức áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá đối với tàu thuyền nước ngoài trên toàn Biển Đông mà họ yêu sách. Tàu thuyền Trung Quốc đã tấn công, đánh đập, bắt giữ, phá hoại tài sản của ngư dân Việt Nam, Philippines, khiến các nước bị hại phải ra tuyên bố phản đối, yêu cầu bồi thường. Năm 2014 cũng đánh dấu 40 năm ngày Việt Nam mất Hoàng Sa vào tay Trung Quốc và 35 năm chiến tranh biên giới phía Bắc.
Đỉnh điểm của căng thẳng là việc ngày 1/5/2014, Tổng Công ty Dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC) thông báo triển khai giàn khoan di động HYSY 981,tại tọa độ 15o29’ vĩ Bắc, 111o12’ kinh Đông, thời gian hoạt động đến ngày 15/8/2014. Việt Nam cho rằng, theo Công ước Luật biển năm 1982, vị trí này nằm sâu trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế 200 hải lý của mình nên lập tức yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay hành động trên và rút giàn khoan khỏi vùng biển Việt Nam. Đáp lại, Trung Quốc cho rằng đây là hoạt động khai thác tài nguyên bình thường trên vùng biển Trung Quốc và tố cáo ngược lại Việt Nam là bên gây hấn[1]. Trung Quốc đã liên tục tăng số lượng tàu hộ tống, tàu hải quân, tàu hải cảnh, đâm va, bắn vòi rồng vào các lực lượng chấp pháp biển Việt Nam. Vụ việc đã kéo theo sự quan ngại của quốc tế và cộng đồng ASEAN.
Vị trí giàn khoan HYSY 981 hạ đặt nằm cách bờ biển Việt Nam 130 hải lý và đảo Lý Sơn 119 hải lý, cách đá Triton thuộc quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý và đảo Phú Lâm cũng thuộc quần đảo này của Việt Nam 103 hải lý, cách bờ biển Hải Nam (Trung Quốc) 182 hải lý. Theo Công ước Luật biển của Liên hợp quốc UNCLOS 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên, mỗi nước có quyền có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa tính từ đường cơ sở. Nếu tính từ bờ biển Việt Nam và đảo Hải Nam, khu vực này nằm trong vùng chồng lấn đặc quyền kinh tế của hai bên. Tuy nhiên, Luật biển lại quy định rõ ràng trong vùng biển chồng lấn, các bên không được có những hành động đơn phương thăm dò khai thác vượt quá đường trung tuyến (hoặc cách đều) mà phải tiến hành đàm phán hoặc có những dàn xếp tạm thời trong khi chờ đợi phân định cuối cùng. Thực tiễn phân định cho thấy, các đảo ít khi được hưởng cùng một hiệu lực như lãnh thổ đất liền. Vì vậy, xét từ lý thuyết phân định, trong tương quan giữa bờ biển Việt Nam và đảo Hải Nam, khu vực này nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam hoặc chí ít cũng nằm về phía Việt Nam qua đường trung tuyến. Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi liên quan đến tương quan giữa bờ biển Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa. Đây là quần đảo Việt Nam khẳng định đã xác lập chủ quyền từ thế kỷ XVII, song lại nằm dưới sự quản lý thực tế của Trung Quốc từ năm 1974 sau khi đánh chiếm từ Việt Nam Cộng hòa bằng vũ lực. Trung Quốc đã tuyên bố đường cơ sở cho quần đảo này vào năm 1996 và đá Triton là một trong những điểm nhô ra nhất về phía Nam của đường cơ sở đó. Tuyên bố này bị thế giới phê phán vì đã áp dụng cách vẽ đường cơ sở quốc gia quần đảo cho một quần đảo đang tranh chấp chủ quyền[2]. Tuy nhiên, Trung Quốc luôn cho rằng quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) thuộc về họ, không có tranh chấp, không đàm phán. Nghiêm trọng hơn, tháng 7/2012, Trung Quốc tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa có trụ sở trên đảo Phú Lâm và quản lý toàn vùng biển trong “đường lưỡi bò” chiếm 80% diện tích Biển Đông[3]. Việt Nam không bao giờ chấp nhận đảo Phú Lâm, đá Triton và các địa vật của quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc. Áp dụng Điều 121 (3) của UNCLOS 1982, các đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng như Triton sẽ chỉ có lãnh hải 12 hải lý mà không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Ngay cả đảo Phú Lâm rộng 200 ha nếu có hiệu lực phân định thì vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đảo được hưởng cũng rất nhỏ. Như trong phân định Vịnh Bắc Bộ, đảo Bạch Long Vĩ  2,5 km2 chỉ được hưởng ¼ hiệu lực. Trong phân định Vịnh Thái Lan, đảo Thổ Chu chỉ hưởng 1/3 hiệu lực. Phán quyết của Tòa án và Trọng tài quốc tế đều khẳng định xu thế các đảo không có hiệu lực tương xứng trong tương quan với đất liền.
Trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về tài nguyên và quyền tài phán về lắp đặt, sử dụng, duy trì và sửa chữa các công trình thiết bị trên biển. Vì vậy, việc Trung Quốc đơn phương triển khai hoạt động khoan thăm dò khai thác trong vùng biển nước khác được xem là vi phạm mang tính khiêu khích[4]. Việc tập trung một số lượng lớn tàu hải giám, tàu cá, tàu và máy bay quân sự, chủ động đâm hỏng, đâm chìm tàu đối phương là sự vi phạm Luật Phòng chống đâm va trên biển COLREG 1972, làm ảnh hưởng đến an toàn hàng hải quốc tế và trực tiếp vi phạm Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc về không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Việc triển khai giàn khoan còn đi ngược lại tinh thần của Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002. DOC yêu cầu các bên liên quan tiến hành giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thông qua tham vấn hữu nghị và đàm phán giữa các quốc gia trực tiếp liên quan, phù hợp với các nguyên tắc thừa nhận chung của luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. DOC cũng kêu gọi các bên phải hết sức kiềm chế, không tiến hành các hoạt động làm phức tạp hay leo thang xung đột, ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định. Vụ việc này còn đi ngược lại Thỏa thuận Việt - Trung về nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề trên biển ký ngày 11/10/2011[5]. Hành động đâm chìm tàu cá Việt Nam cũng vi phạm các nguyên tắc của Luật Nhân đạo quốc tế và truyền thống cứu giúp nhau của những người đi biển[6].
Trước sự đấu tranh kiên quyết của Việt Nam và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, ngày 15/7/2014, HYSY 981 buộc phải di chuyển ra khỏi vùng biển Việt Nam trước thời hạn. CNPC thông báo Tập đoàn này đã hoàn thành việc khoan và thăm dò ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa và tìm thấy dấu hiệu của dầu mỏ và khí đốt tự nhiên và đang tiến hành đánh giá dữ liệu thu thập được. Ngoài ra, họ cũng cho biết việc rời giàn khoan cũng còn là để tránh mùa mưa bão sắp tới.
Đối với Việt Nam, 75 ngày đấu tranh không tiếng súng đã đạt được những thắng lợi nhất định. Sự kiện HYSY 981 là thách thức đối ngoại hàng đầu của Việt Nam kể từ năm 1988. Cách xử lý quan hệ với Trung Quốc trong sự kiện này đã cho Việt Nam những bài học quý igá.
 Đoàn kết, nhất trí, bình tĩnh, trí tuệ, kiên định xử lý vấn đề
Sự kiện HYSY 981 đã gây ra làn sóng bất bình trong cộng đồng người Việt trong và ngoài nước. Nhiều tiếng nói, kiến nghị với tinh thần Diên Hồng, Sát Thát, sẵn sàng xả thân vì độc lập, vì chủ quyền đất nước. Bên cạnh lòng tự hào dân tộc, cũng có những hành động lợi dụng, phá hoại, chia rẽ, gây nghi ngờ sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Ngay trong những ngày nóng bỏng đó, tại Hội nghị Trung ương 9, Ban chấp hành Trung ương đã kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tăng cường đoàn kết, nhất trí, đồng tâm hiệp lực cả nước một lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Việt Nam đã chủ động, khôn khéo vạch sách lược đấu tranh tổng thể, nhiều hình thức, buộc Trung Quốc phải xuống thang mà không làm tổn hại đến hòa bình cũng như chủ quyền của đất nước. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, Việt Nam đấu tranh bằng mọi biện pháp hòa bình, kể cả đấu tranh pháp lý, dù Việt Nam không mong muốn chiến tranh, xung đột xảy ra nhưng phải chuẩn bị tất cả mọi phản ứng. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định, Việt Nam không chấp nhận bất cứ ai, bất cứ nước nào, dù mạnh đến đâu, bắt phải nhượng bộ chủ quyền, lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trên diễn đàn quốc tế đã phát biểu Việt Nam không chấp nhận đánh đổi chủ quyền thiêng liêng để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc. Trước hành động hung hăng, bất chấp luật pháp quốc tế và các thỏa thuận khu vực của Trung Quốc, phản ứng của Việt Nam dù ở mức độ kiềm chế, không sử dụng biện pháp quân sự, nhưng cũng thể hiện nhanh nhất, đồng bộ nhất, kiên quyết nhất. Chiến thuật “chuột vờn chặn mèo” được áp dụng - chỉ sử dụng lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư, ngư dân - kiềm chế đối phương là biểu hiện sinh đông truyền thống Việt Nam “lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy đoản binh thắng trường trận”. Bên có quyết tâm cao hơn vẫn có thể giành thắng lợi dù là bên yếu hơn. Lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư khi thực thi pháp luật đã thể hiện rõ bản lĩnh của người bộ đội Cụ Hồ. Đó là kiên trì, kiên quyết, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích, không nổ súng trước. Biện pháp quân sự là không mong muốn với một dân tộc yêu chuộng hòa bình như Việt Nam và chỉ có thể sử dụng khi “không còn đường nào khác”. Bất kể hành vi nào có thể dẫn đến xung đột và chiến tranh đều phải được nỗ lực để ngăn chặn, dù còn cơ hội nhỏ nhoi nhất cho hòa bình chúng ta cũng phải tận dụng. Việt Nam cũng đã bình tĩnh xử lý các vụ bạo động chống người Hoa tại một số khu công nghiệp, làm yên lòng các nhà đầu tư và giữ hình ảnh tốt đẹp của một đất nước thân thiện. Đoàn kết, thống nhất nội bộ, đặt niềm tin vào lãnh đạo là sức mạnh chiến thắng. Việt Nam đã không khuất phục trước sức ép bạo hành.
Đấu tranh tổng hợp nhiều mũi giáp công
HYSY 981 đã làm sống lại nghệ thuật ba mũi giáp công. Bên cạnh đấu tranh thực địa, Việt Nam đã rất coi trọng đấu tranh ngoại giao, đấu tranh công luận, tuyên truyền. Đấu tranh ngoại giao là công cụ hữu hiệu trong thời bình. Đối ngoại Việt Nam đã có nhiều hình thức phong phú, kết hợp ngoại giao Nhà nước, ngoại giao nhân dân, đoàn thể, đối thoại quốc phòng, phối hợp trong và ngoài nước. Chưa lần nào Việt Nam phải huy động một lực lượng đối ngoại hùng hậu trong một thời gian ngắn như vậy. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã tận dụng mọi cơ hội đăng đàn trong nước và quốc tế lên án hành động ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế và kêu gọi giải quyết hòa bình các tranh chấp. Các Hội, đoàn thể như Hội Nghề cá, Hội Cựu chiến binh… đều lên tiếng. Bộ Ngoại giao đã có hơn 40 cuộc tiếp xúc đấu tranh. Các Đại sứ, các cơ quan đại diện Việt Nam tại các nước trên thế giới đều được huy động vào cuộc viết bài, tuyên truyền, vận động bạn bè quốc tế ủng hộ. Lần đầu tiên kể từ năm 1992, các Ngoại trưởng ASEAN đã có một Tuyên bố riêng về Biển Đông. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi ASEAN vừa có sự rạn nứt, không ra được tuyên bố chung tại Campuchia thời gian trước đó. Đối thoại Shanga-ri La, Diễn đàn Liên hợp quốc cũng là nơi trao đổi liên tục các tuyên bố, tài liệu pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã có những cuộc điện đàm với Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì và đăng đàn tại Liên hợp quốc ngày 27/9/2014 khẳng định lập trường không khoan nhượng của Việt Nam. Vụ HYSY 981 đã châm ngòi cho các cuộc biểu tình với quy mô lớn của cộng đồng người Việt trong và ngoài nước, thể hiện sức mạnh yêu nước của người dân Việt trước hiểm họa xâm lấn từ bên ngoài. Hơn bốn triệu đồng bào ở hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới đều đồng lòng hướng về Tổ quốc, xuống đường biểu tình phản đối giàn khoan trái phép. HYSY 981 đã làm cho lòng người dân Việt gần nhau hơn, hòa hợp hơn. Các cơ quan báo chí đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên những mạch máu li ti gắn liền từng người dân Việt ở bất kỳ đâu với biển đảo quê hương.
Ngay sau khi HYSY 981 phải rút khỏi vùng biển của mình, Việt Nam đã chủ động cử Đặc phái viên của Tổng Bí thư sang Trung Quốc. Kết quả chuyến công du của đặc sứ Lê Hồng Anh ngày 26 - 27/8/2014 là một bước tốt tạo cơ sở cho Việt Nam đấu tranh tiếp tục với Bắc Kinh trên hồ sơ Biển Đông khi lãnh đạo hai bên khẳng định “Nghiêm túc thực hiện “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc; Tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển; Kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; Duy trì đại cục quan hệ Việt - Trung và hoà bình, ổn định trên Biển Đông”. Nội dung “Kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp” chính là thực hiện Điều 5 của DOC và giống với đề nghị đóng băng các hành vi khiêu khích từng được đề nghị tại Hội nghị ASEAN ở Myanmar, và đã bị Trung Quốc bác bỏ. Chuyến đi này cũng mở đường cho chuyến đi tiếp theo sang Việt Nam của Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì ngày 26 - 27/10/2014 và Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Du Chính Thanh ngày 26/12//2014. Chủ tịch Trương Tấn Sang đã gặp lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc là Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình ngày 10/11/2014. Phía Trung Quốc đã nêu quan điểm hết sức coi trọng phát triển quan hệ với Việt Nam, luôn kiên trì phương châm hợp tác hữu nghị với Việt Nam và sẽ cùng với Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam cố gắng thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung tiếp tục phát triển; cũng như nỗ lực duy trì quan hệ hai nước phát triển lành mạnh, ổn định; chỉ đạo thực hiện tốt các nhận thức chung nhằm khôi phục và phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước. Việt Nam đã xử lý khéo léo mối quan hệ vừa bảo vệ được độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ vừa giữ được quan hệ, ổn định, hòa bình cho phát triển.
Vận động, tranh thủ sự ủng hộ sâu rộng của quốc tế
Lập trường chính nghĩa của Việt Nam giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, bảo vệ chủ quyền và các quyền chính đáng trên Biển Đông trên cơ sở Luật quốc tế, đặc biệt Công ước Luật biển năm 1982, tôn trọng các thỏa thuận khu vực như Tuyên bố của các bên về cách ứng xử ở Biển Đông, đã được cộng đồng thế giới thừa nhận và ủng hộ. Dư luận quốc tế đã phản ứng với hành động của Trung Quốc một cách mạnh mẽ nhất, đoàn kết nhất. Các tiếng nói phê phán vang lên khắp từ Mỹ, EU, Đông Bắc Á và Đông Nam Á... ASEAN cũng đã thể hiện mình là một khối thống nhất trước áp lực chia rẽ của Trung Quốc, coi Biển Đông là chủ đề không thể bỏ qua trong nghị trình của Hiệp hội. Phóng viên quốc tế đã đi theo các chuyến công tác của cảnh sát biển, kiểm ngư Việt Nam, tận mắt chứng kiến những hành động phun vòi rồng, đâm va, gây tổn hại những hoạt động bình thường của lực lượng kiểm soát biển Việt Nam, và hoạt động của ngư dân Việt Nam, góp phần đem những bức ảnh, những bình luận chân thực tới cộng đồng quốc tế. Trong khó khăn, Việt Nam đã phát triển các quan hệ đối tác chiến lược với nhiều nước. Mỹ đã dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam, ra nghị quyết lên án sự phi pháp của đường lưỡi bò trên Biển Đông, Ấn Độ tiếp tục các chương trình hợp tác dầu khí và hải quân, Nhật Bản tuyên bố giúp đỡ lực lượng kiểm soát biển Việt Nam làm tốt hơn vai trò bảo vệ hòa bình, ổn định, an ninh hàng hải trên Biển Đông.
Nâng cao nhận thức chung trong cộng đồng về chủ quyền biển đảo và chiến lược biển Việt Nam
Qua sự kiện HYSY 981, nhận thức về luật biển, về chủ quyền và các quyền tài phán trên biển trong người dân đã được nâng lên đáng kể. Hàng loạt các triển lãm tài liệu pháp lý lịch sử chứng minh chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo đã được tổ chức từ địa đầu Hà Giang đến Mũi Cà Mau. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, doanh nghiệp, cá nhân đã có nhiều sáng kiến, nhiều hoạt động quyên góp giúp đỡ, hỗ trợ cho cảnh sát biển, kiểm ngư, ngư dân. Từ sự đóng góp của nhân dân, chùa chiền, trường học đã xuất hiện nhiều trên quần đảo Trường Sa, góp phần tạo sự hiện diện vững chắc của người Việt trên Biển Đông. Người dân đã tham gia giám sát, phát hiện các dự án kinh tế chưa coi trọng yếu tố quốc phòng, an ninh, đòi hỏi sự điều chỉnh cần thiết như dự án nghỉ dưỡng trên đèo Hải Vân.
Xây dựng lực lượng, chú trọng cải thiện đời sống, hỗ trợ ngư dân 
Trong hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn thiếu thốn, với tầm nhìn xa, lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã có những quyết sách tập trung xây dựng lực lượng kiểm soát biển từ sớm. Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam được thành lập từ năm 1998, là một trong những lực lượng cảnh sát biển đầu tiên trong khu vực, đã trưởng thành vượt bậc, đảm đương vai trò chủ đạo trong chấp pháp biển. Lực lượng kiểm ngư thành lập 2014, ngay trước sự kiện HYSY 981, là lực lượng hỗ trợ xứng đáng sát cánh cùng các chiến sỹ cảnh sát biển. Trong năm 2014, một binh chủng mới của Quân đội nhân dân Việt Nam đã hình thành với ba chiếc tàu ngầm Kilo đầu tiên được tiếp nhận và đi vào huấn luyện. Quân đội Việt Nam là một quân đội tự vệ, mang tính phòng thủ, đã có thêm vũ khí để sẵn sàng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và các quyền lợi trên biển của đất nước.
Nghị định số 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ về Một số chính sách phát triển ngành thủy sản đã đi vào cuộc sống. Nhiều chính sách tương đối đồng bộ đã được áp dụng để hỗ trợ phát triển mạnh mẽ ngành đánh bắt thủy hải sản xa bờ. Nhà nước hỗ trợ vay vốn và khuyến khích ngư dân đóng tàu công suất lớn, vỏ thép để dần chuyển từ khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ có giá trị kinh tế cao hơn, đồng thời góp phần vào bảo vệ các vùng biển Việt Nam. Các chính sách này đã góp phần động viên người dân yên tâm sản xuất, vừa tham gia phát triển kinh tế biển vừa bảo vệ chủ quyền đất nước.
Cách xử lý quan hệ láng giềng của Việt Nam là rõ ràng, minh bạch, có sức thuyết phục: “vừa hợp tác vừa đấu tranh”. Trong một thế giới phẳng, các nước phụ thuộc lẫn nhau, hợp tác luôn là luồng chủ đạo. Hợp tác không thủ tiêu đấu tranh. Đấu tranh không loại bỏ hợp tác. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói: “Trong thời đại ngày nay, hội nhập, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng thịnh vượng là nhu cầu tất yếu của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác, những mâu thuẫn về lợi ích buộc mỗi quốc gia phải đấu tranh để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, trong đó có những phạm trù hết sức thiêng liêng là độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có được hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi và bền vững. Không thể có bạn kiểu nhà tôi là nhà anh, của tôi là của anh được”. Cách xử lý sự kiện HYSY 981 cũng mang đậm tính nhân văn của người Việt: “Cảnh giác trong hợp tác, kiên quyết trong đấu tranh” trên cơ sở tôn trọng độc lập, tự chủ, chủ quyền và lợi ích của nhau, phù hợp với luật quốc tế.
Vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông
Chính sách hung hăng, lấn lướt các nước nhỏ của Trung Quốc đã buộc Philippines phải sử dụng cơ chế Tòa án trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật biển năm 1982. Nước này đã mời Trung Quốc tham gia khi gửi thông báo khởi kiện vào tháng 1/2013. Thông báo ngày 22/1/2013 của Philippines có 13 điểm, nhưng tựu trung có hai nội dung chính. Thứ nhất, Philippines cho rằng yêu sách về biển của Trung Quốc tại Biển Đông theo "đường chín đoạn" (đường lưỡi bò) là trái với Công ước Luật biển và vô giá trị. Thứ hai, Philippines yêu cầu Tòa xác định quy chế của các đá, bãi cạn mà tại đó, Trung Quốc đang chiếm đóng. Philippines cho rằng, những vị trí này chỉ có thể được coi là "đá" (không phải "đảo" nên chỉ có lãnh hải 12 hải lý theo Điều 121.3 của Công ước Luật biển). Các bãi cạn nửa nổi nửa chìm không có lãnh hải và là một bộ phận của Thềm lục địa Philippines. Như vậy, dù không phân định thì bên ngoài 12 hải lý, các vị trí trên là vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Philippines, Trung Quốc không có quyền ngăn chặn các hoạt động của Philippines tại đó.
Ngày 19/2/2013, Chính phủ Trung Quốc từ chối và gửi lại Philippines công hàm kèm theo Thông báo và Tuyên bố khởi kiện. Tuân theo thủ tục và nỗ lực để thuận tiện cho các bên, Tòa trọng tài thường trực La Haye đã để ngỏ khả năng Trung Quốc quyết định tham gia vụ kiện đến hạn ngày 15/12/2014.
Tài liệu nêu lập trường của Chính phủ Trung Quốc về vụ kiện này được gửi đến Philippines và Tòa trọng tài thường trực La Haye ngày 7/12/2014 nêu bốn lý do:
1. Bản chất đối tượng của vụ kiện trọng tài này là chủ quyền lãnh thổ trên một số địa vật biển trong Biển Đông, nằm ngoài phạm vi của Công ước và không liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước;
2. Trung Quốc và Philippines đã đồng ý, thông qua các công cụ song phương và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, giải quyết tranh chấp liên quan của mình thông qua đàm phán. Bằng việc đơn phương khởi xướng trọng tài hiện tại, Philippines đã vi phạm các nghĩa vụ của mình theo luật pháp quốc tế;
3. Thậm chí giả định, với nghĩa tranh cãi, đối tượng của trọng tài có liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước, thì đối tượng này sẽ là một phần không thể thiếu trong phân định biển giữa hai nước, do đó thuộc phạm vi điều chỉnh tuyên bố của Trung Quốc năm 2006 theo quy định của Công ước, đã đặc biệt (inter alia[7]) loại bỏ các tranh chấp liên quan phân định biển khỏi trọng tài bắt buộc và các thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc khác;
4. Do đó, Tòa Trọng tài rõ ràng không có thẩm quyền đối với vụ kiện trọng tài hiện tại. Dựa trên lập trường nói trên và căn cứ vào quyền tự do của mỗi quốc gia được lựa chọn các phương tiện giải quyết tranh chấp, việc bác bỏ và không tham gia của Trung Quốc vào vụ kiện trọng tài hiện tại có cơ sở vững chắc trong luật pháp quốc tế.
Trong Tài liệu lập trường, điểm 4,Trung Quốc đã khẳng định lại nước này “có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các quần đảo trong Biển Đông (quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa và quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và các vùng biển lân cận. Các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông đã có từ hơn 2.000 năm trước. Trung Quốc là quốc gia đầu tiên phát hiện, đặt tên, thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên của Biển Đông và là bên đầu tiên thực hiện quyền hạn chủ quyền một cách liên tục trên các quần đảo và vùng biển này. Từ năm 1930 đến năm 1940, Nhật Bản chiếm đóng bất hợp pháp một số bộ phận của các quần đảo trên Biển Đông trong chiến tranh xâm lược chống lại Trung Quốc. Vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, Chính phủ Trung Quốc đã giành lại quyền thực hiện chủ quyền đối với các quần đảo ở Biển Đông”. Bằng tuyên bố này, Trung Quốc đã chối bỏ lịch sử, lờ đi các hoạt động của ngư dân Việt Nam, Philippines, Malaysia trong lịch sử, các hoạt động chiếm hữu và quản lý Hoàng Sa, Trường Sa một cách hòa bình, liên tục và thực sự của Nhà nước phong kiến Việt Nam theo đúng các yêu cầu của luật quốc tế, hoạt động đưa quân đóng giữ Trường Sa và đăng trên Công báo năm 1933 của Pháp nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Nhật Bản… Tài liệu lập trường của Trung Quốc cũng cố tình coi đây là tranh chấp song phương giữa Trung Quốc và Philippines, bỏ qua đòi hỏi chủ quyền của các Bên khác, dù trong Điểm 92 có nêu vấn đề Biển Đông liên quan đến nhiều quốc gia.
Trong điểm 11, lần đầu tiên Trung Quốc cổ súy mạnh mẽ cho nguyên tắc “đất thống trị biển” trong tranh chấp ở Biển Đông “Đó là một nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế theo đó chủ quyền trên lãnh thổ đất là cơ sở cho việc xác định các vùng biển”. Đây là thái độ khác với sự bực bội và phản ứng của Trung Quốc khi nguyên tắc này được nêu ra trong Công hàm của Phái đoàn thường trực Philippines tại Liên hợp quốc ngày 5/4/2011 bác bỏ yêu sách đường chín đoạn, cũng như trong phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton tại ARF Hà Nội năm 2010. Xuất phát từ nguyên tắc “đất thống trị biển”, Tuyên bố khởi kiện của Philippines đã cáo buộc đường yêu sách chín đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông là vô giá trị theo luật quốc tế. “Đường lưỡi bò” này được vẽ ra hoàn toàn không dựa trên bất kỳ một địa vật biển nào, hoàn toàn trái ngược với nguyên tắc “đất thống trị biển”. Trung Quốc đã cố tình lờ đi điểm yếu này mà sử dụng nguyên tắc “đất thống trị biển” với tiền đề tất cả các địa vật biển lớn nhỏ trong Biển Đông đều có đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, liên quan đến phân định biển và vì vậy Tòa trọng tài sẽ không có thẩm quyền. Tính bất nhất cho thấy Trung Quốc chỉ sử dụng các luận cứ của luật quốc tế khi có lợi cho mình, bỏ qua quyền lợi của các nước khác. Vấn đề ở đây là đường lưỡi bò đã yêu sách một vùng biển rộng lớn hơn rất nhiều so với vùng biển giả thiết mà tất cả các đảo, đá, bãi trong Biển Đông có một vùng biển 200 hải lý không tính đến sở hữu thuộc quốc gia nào cộng lại. Trung Quốc lảng tránh đòi hỏi của Philippines với Tòa xem xét tính pháp lý của đường chín đoạn. Bắc Kinh sử dụng nguyên tắc “đất thống trị biển” để lái yêu cầu của Philippines đối với Tòa từ xem xét các quyền trên biển của quốc gia ven biển sang vấn đề chủ quyền. Theo tài liệu lập trường của Trung Quốc tại điểm 13: “Trong vụ kiện này, nếu không đầu tiên xác định chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc đối với các địa vật biển trong Biển Đông, Tòa án Trọng tài sẽ không có được vị thế để xác định phạm vi Trung Quốc có thể yêu sách các quyền trên biển ở Biển Đông theo quy định của Công ước, cũng như không thể nhận định các yêu sách của Trung Quốc vượt quá phạm vi cho phép theo Công ước hay không. Tuy nhiên, đó lại là vấn đề chủ quyền lãnh thổ không thuộc phạm vi hoạt động của Công ước”. Rõ ràng, khi nhấn mạnh đến vai trò của các địa vật biển nhỏ li ti ở Biển Đông, Trung Quốc lại chối bỏ quyền chính đáng của các quốc gia ven biển có bờ biển dài, liên tục có quyền được hưởng các vùng biển theo quy định của Công ước. Tòa sẽ dễ dàng công nhận đòi hỏi của Philippines là “đường lưỡi bò” không phù hợp với Công ước Luật biển, nhưng sẽ khó khăn khi Trung Quốc đòi hỏi phải xem xét “đường lưỡi bò” trên cơ sở yêu sách vùng nước lịch sử theo luật quốc tế.
Trong điểm 18, Tài liệu lập trường của Trung Quốc cho rằng, Philippines đã sai khi chỉ chọn một số địa vật biển yêu cầu Tòa trọng tài xem xét, phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc trên toàn quần đảo Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) chứ không chỉ trên một vài địa vật riêng biệt đó. Điều này cho thấy Trung Quốc sẽ khó mà từ bỏ giấc mơ độc chiếm Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam), và Biển Đông. Gác tranh chấp cùng khai thác sẽ chỉ là bánh vẽ và yêu cầu giữ nguyên trạng khó làm Bắc Kinh động lòng.
Điểm 25 của Tài liệu cho rằng, vấn đề các bãi cạn nửa nổi nửa chìm có được sở hữu không là câu hỏi về chủ quyền lãnh thổ, không phải là vấn đề giải thích và áp dụng Công ước. Trung Quốc cho rằng (điểm 27) tiền đề để Philippines cáo buộc Bắc Kinh xâm phạm các quyền tài phán biển của Manila cũng như đe dọa tự do hàng hải là phạm vi các vùng biển của Philippines phải được xác định và không tranh chấp. Cho đến nay, Trung Quốc và Philippines chưa tiến hành phân định biển nên cáo buộc trên không đứng vững.
Các vấn đề trên chắc chắn sẽ phải tranh luận nhiều trước Tòa. Song, có một nguyên tắc công bằng là, trong khi tranh chấp, không bên nào có thể đơn phương tiến hành các hoạt động làm thay đổi nguyên trạng có lợi cho mình và bất lợi cho đối thủ. Việc Trung Quốc tiến hành tôn tạo các bãi nửa nổi nửa chìm đang chiếm đóng thành các đảo nhân tạo và đòi hỏi cho chúng các vùng biển đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng lớn không lẽ lại nằm ngoài phạm vi giải thích và áp dụng Công ước?
Tài liệu lập trường cũng cáo buộc Philippines đã vi phạm cam kết của mình cùng Trung Quốc hiệp thương hữu nghị và đàm phán giải quyết tranh chấp trong hàng loạt thỏa thuận song phương cũng như trong Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông. Vì vậy, theo Trung Quốc, Tòa sẽ không thể có thẩm quyền khi hai quốc gia đàm phán giải quyết tranh chấp và không viện dẫn tới trọng tài hay bất kỳ phương thức giải quyết nào khác có sự can dự của bên thứ ba. Song trong luật quốc tế, nguyên tắc thiện chí quy định đàm phán phải thiện chí đi đến kết quả cuối cùng. Khó có thể chấp nhận việc nói đàm phán nhưng trên biển lại sử dụng vũ lực tấn công tàu cá, ngang nhiên đấu thầu trong các vùng nước không tranh chấp, tôn tạo mở rộng trái phép các bãi cạn. Luật quốc tế cũng không cấm trong khi đàm phán các bên vẫn có thể thỏa thuận sử dụng các biện pháp giải quyết hòa bình khác.
Tham gia Tòa án hay không là quyền của các quốc gia độc lập, có chủ quyền. Trong hai năm qua, đã có rất nhiều ý kiến bình luận cả trong và ngoài nước tư vấn cho Chính phủ về khả năng can dự vụ kiện của Việt Nam. Nhiều ý kiến cho rằng, đây là cơ hội cho Việt Nam, đất nước bị ảnh hưởng nhiều nhất về “đường lưỡi bò” do Trung Quốc tự vẽ ra, và sốt ruột vì sự chậm trễ của Nhà nước. Trong sự kiện HYSY 981, áp lực đòi hỏi chính quyền phải kiện Trung Quốc ra Tòa ngày càng mạnh mẽ. Trước tình hình đó, Việt Nam vẫn rất tỉnh táo. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 21/5/2014 khẳng định tại Manila: “Việt Nam đang xem xét nhiều biện pháp phòng vệ khác nhau, bao gồm các hành động pháp lý phù hợp với luật pháp quốc tế”. Giải quyết tranh chấp ở Biển Đông đòi hỏi một giải pháp tổng thể về chính trị, ngoại giao, pháp lý, quân sự. Sử dụng các vũ khí có trong tay, bao gồm cả pháp lý, khi nào, mức độ thế nào, ở đâu để bảo vệ lợi ích quốc gia một cách tốt nhất là cả một nghệ thuật. Việt Nam luôn nhất quán giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật quốc tế, nhất là Công ước Luật biển năm 1982. Công ước vừa kỷ niệm có hiệu lực 20 năm kể từ ngày 16/11/1994. Những “món nợ” năm 1974, 1988 cần phải được đặt trên cơ sở pháp lý cao hơn. Năm 2009, công chúng rất lo lắng cho Việt Nam trước thời hạn ngày 13/5/2009 phải nộp báo cáo ranh giới ngoài thềm lục địa. Ngày 7/5/2009, Việt Nam đã làm được hơn thế khi cùng Malaysia nộp báo cáo chung về ranh giới ngoài thềm lục địa ở phần phía Nam Biển Đông, một công việc đã được tiến hành chuẩn bị chu đáo nhiều năm trước. Ngày 5/12/2014, trước thời hạn cuối cùng 15/12/2014 mà Tòa trọng tài quy định để Trung Quốc có thể quyết định tham gia vụ kiện, Việt Nam đã gửi thông báo tới Tòa trọng tài về các quan tâm của mình với ba điểm: Tòa Trọng tài có quyền hợp pháp trong giải thích các điều khoản của Công ước Luật biển; đề nghị Tòa quan tâm đến các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam, đồng thời bác bỏ yêu sách “đường chín đoạn” của Trung Quốc.
Như vậy, những người gác cửa pháp lý đã không để cho Tổ quốc bị lỡ trớn hay hụt chân trên những diễn đàn quốc tế quan trọng. Các yêu cầu chính đáng của Việt Nam được bảo đảm. Cuộc đấu tranh trên Biển Đông còn lâu dài, phức tạp. Cách xử lý của Chính phủ trong vụ việc này là một điểm son được công luận cả trong và ngoài nước bước đầu ủng hộ. Việt Nam ngày càng vững vàng với vai trò một bên kiến tạo cuộc chơi trong bàn cờ chính trị khu vực, không để đất nước trở thành con cờ trong tay các nước lớn.
Năm 2015, tình hình Biển Đông sẽ tiếp tục nóng với các hoạt động của Trung Quốc mở rộng các bãi cạn nửa nổi nửa chìm, tạo sự đã rồi và tiến trình khó lường của vụ Philippines kiện Trung Quốc. Những bài học của 2014 sẽ giúp cho Việt Nam biến cái không thể thành có thể, biến đại sự thành trung sự, trung sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự, giữ vững chủ quyền và các quyền tài phán trên biển, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực, xứng đáng với lời dạy của tiền nhân: “Biển Đông vạn dặm dang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững trị bình” (Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm)./.
 
 

[1] Nigel Wilson, Vietnam China Tensions Escalate Over South China Sea Oil Rig, International Business Times, May 8, 2014, http://InternationalBusinessTimes/ Vietnam%20China%20Tensions%20Escalate%20Over%20South%20China%20Sea%20Oil%20Rig.htm
[2] Nguyễn Hồng Thao, Về việc Trung Quốc công bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, Tạp chí Quốc phòng toàn dân 6/1996.
[4] Phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry: China's Oil Rig in South China Sea 'Provocative', http://www.voanews.com/content/kerry-chinas-oil-rig-in-south-china-sea-provocative/1913329.html
[5]Việt - Trung: Thỏa thuận 6 nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển. http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Viet--Trung-Thoa-thuan-6-nguyen-tac-giai-quyet-van-de-tren-bien/20136/171392.vgp
[6]VietnamNet 27/5/2014; http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/177750/viet-nam-trieu-dai-dien-ngoai-giao-tq.html; The Star Online 27 may 2014, http://www.thestar.com.my/News/Regional/2014/05/27/Vietnam-fishing-boat-rammed-sunk-by-China-ship/
[7] Thuật ngữ Latin chỉ “among other thing”, nhấn mạnh đây là một phần trạng thái liên quan đến sự kiện trong một vụ án nhưng không phải là tất cả trạng thái. Cũng có thể dịch là “đặc biệt nhấn mạnh”.  

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 3+4(283+284), tháng 2/2015)


Thống kê truy cập

33954964

Tổng truy cập