Kiến nghị hoàn thiện pháp luật an toàn, vệ sinh lao động từ kinh nghiệm quốc tế

01/12/2014

TS. BÙI SỸ LỢI

Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội

Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), cứ 15 giây có một người lao động (NLĐ) tử vong vì một tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và cứ 15 giây có 160 công nhân bị tai nạn lao động. Mỗi ngày trôi qua lại có khoảng 6.300 người chết do tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và khoảng hơn 2,3 triệu ca tử vong mỗi năm vì lý do đó. Tầm quan trọng của vấn đề an toàn và sức khỏe trong lao động đã khiến ILO đặc biệt quan tâm đến định nghĩa “việc làm bền vững là việc làm an toàn”.
Quyền được bảo đảm an toàn và sức khỏe trong lao động từ lâu đã được xác định thuộc nội hàm của quyền con người và trực tiếp gắn với phạm trù an ninh con người (human security) với hàm nghĩa đa dạng về an ninh kinh tế (việc làm và thu nhập), an ninh sức khỏe, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng… Bởi vậy, bảo đảm an toàn và sức khỏe lao động không chỉ ngày càng trở thành vấn đề quan trọng trong nghị sự toàn cầu, mà còn là mối quan tâm của từng quốc gia, gắn với phát triển bền vững. Tuy nhiên, hiệu quả của sự vận hành các quy tắc pháp lý về an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) đưa lại những kết quả khác nhau ở mỗi quốc gia, trong các thành phần kinh tế cũng như các nhóm xã hội khác nhau. Chúng tôi đề cập đến thực tiễn pháp luật quốc tế và kinh nghiệm nước ngoài về ATVSLĐ và nêu một số kiến nghị đối với hoạt động điều chỉnh pháp luật về vấn đề này của Việt Nam.
Untitled_284.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
I. Kinh nghiệm quốc tế
1. Tổ chức lao động quốc tế
ILO được thành lập vào năm 1919 nhằm liên kết các Chính phủ, giới sử dụng lao động và các Công đoàn để thống nhất hành động vì công bằng xã hội và điều kiện sống tốt hơn cho mọi nơi trên thế giới.
Ngày 10/5/1944, Hội nghị toàn thể của ILO, kỳ họp thứ 26 ở Philadenphia (Mỹ) đã thông qua Bản Tuyên ngôn về tôn chỉ, mục đích của ILO khẳng định lại những nguyên tắc cơ bản, làm nền tảng cho hoạt động của mình, trong đó nhấn mạnh: “Có các chủ trương về tiền lương và thu nhập, về thời giờ làm việc và các điều kiện lao động khácđể ai cũng được hưởng phần công bằng trong kết quả của tiến bộ… Mở rộng việc áp dụng biện pháp an sinh xã hộinhằm bảo đảm mức thu nhập cơ bản cho mọi người cần có sự bảo vệ này, và sự chăm sóc y tế đầy đủ; bảo vệ thích đáng cuộc sống và sức khoẻ của NLĐ trong mọi loại công việc”. Trong Lời nói đầu của Điều lệ ILO cũng có đoạn nói rõ yêu cầu cấp thiết đối với việc “…điều tiết thời giờ làm việc, bao gồm cả việc quy định thời giờ làm việc tối đa trong 1 ngày và trong 1 tuần…; bảo vệ công nhân đối với những bệnh tật thông thường, bệnh nghề nghiệp và tai nạn lao động…”
Như vậy, ILO đã rất coi trọng đến các biện pháp an sinh xã hội, bảo đảm an toàn, bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ cho NLĐ trên thế giới. Vấn đề ATVSLĐ đã trở thành một trong những chủ đề cơ bản đưa ra thảo luận trong các Hội nghị lao động quốc tế hàng năm và đã được ILO ban hành các chủ đề đó dưới dạng các công ước và khuyến nghị. Công ước là các điều ước quốc tế mà các nước thành viên cần phê chuẩn và sau khi phê chuẩn có nghĩa vụ thi hành, còn khuyến nghị là nguyên tắc chỉ đạo cho pháp luật quốc gia và chính sách quốc gia, bổ sung cho các công ước về cùng một chủ đề.
 ILO luôn quan tâm đến công tác ATVSLĐ, coi đây là một trong những hoạt động chủ yếu của mình. ILO đã ban hành hơn 40 Công ước và Khuyến nghị đề cập trực tiếp hoặc có liên quan đến ATVSLĐ. Hơn ½ số văn bản này đã được thi hành cho thấy khả năng của ILO trong việc giải quyết trực tiếp hoặc gián tiếp các vấn đề nêu trên. Các văn bản tiêu biểu được ban hành bởi ILO có thể chia thành 3 nhóm sau: (1) các Công ước quy định chung về ATVSLĐ (Công ước số 155 về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp năm 1981 và Nghị định thư năm 2002, Công ước số 61 về dịch vụ sức khỏe năm 1958) (2) các Công ước quy định về ATVSLĐ trong các ngành nghề đặc thù (Công ước số 120 về vệ sinh lao động trong thương mại và văn phòng năm 1964; Công ước số 152 về an toàn và vệ sinh lao động trong các công việc bốc xếp ở cảng năm 1979, Công ước số 167 về an toàn và vệ sinh lao động trong ngành xây dựng năm 1988, Công ước số 176 về an toàn và sức khỏe trong các hầm lò năm 1995, Công ước số 184 về an toàn và sức khỏe trong nông nghiệp năm 2001…); và (3) các Công ước nhằm đưa ra các biện pháp chống lại các nguy cơ đặc biệt (Công ước số 115 về bảo vệ phóng xạ năm 1960, Công ước số 139 về bệnh ung thư do nghề nghiệp năm 1974, Công ước số 148 về môi trường làm việc năm 1977, Công ước số 162 về Amiăng năm 1986, Công ước số 170 về hóa chất năm 1990…).
2. Liên minh châu Âu 
Cộng đồng chung châu Âu đã đưa ra rất nhiều biện pháp dựa trên quy định của Điều 153 Hiệp ước châu Âu (Điều 137 cũ). Theo đó, hàng loạt các chỉ thị được thông qua đều có tính bắt buộc và được nội luật hóa bởi các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu. Các văn bản có hiệu lực pháp lý đã được tổ chức này thông qua bao gồm: Chỉ thị khung và các chỉ thị khác của châu Âu đề cập đến các khía cạnh đặc thù của ATVSLĐ. Các văn bản này, một mặt, đưa ra các điều kiện tối thiểu và các nguyên tắc nền tảng (ví dụ như nguyên tắc phòng ngừa và khắc phục rủi ro), quy định trách nhiệm của NLĐ và người sử dụng lao động (NSDLĐ); mặt khác, khuyến khích các tổ chức hoạt động trong khu vực châu Âu áp dụng các chỉ thị trên.
3. Trung Quốc
Sau khi ban hành Bộ luật Lao động điều chỉnh các quan hệ về hợp đồng lao động, cơ chế hợp tác ba bên, hệ thống lao động chuẩn mực, cơ chế giải quyết tranh chấp và hệ thống giám sát trong lao động, Trung Quốc ban hành một số văn bản về ATVSLĐ, đó là Luật Phòng ngừa và kiểm soát bệnh nghề nghiệp 2001, Luật về Sản xuất an toàn. Ngoài ra, để củng cố hiệu lực của các quy định liên quan đến ATVSLĐ thì một số điều khoản của Bộ luật Hình sự nước này cũng có quy định trách nhiệm và hình phạt đối với những người gây ra hiểm họa đối với bệnh nghề nghiệp của NLĐ.
Luật Phòng ngừa và kiểm soát bệnh nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa, kiểm soát và đảm bảo an toàn lao động. Bên cạnh việc đưa ra khái niệm các bệnh nghề nghiệp, đề cao vai trò của phòng ngừa, luật này còn quy định quyền và lợi ích của NLĐ, gắn trách nhiệm của NSDLĐ với việc bảo vệ sức khỏe của NLĐ, đồng thời đề ra cách xử lý đối với người mắc bệnh. Luật này xác định các quyền được bảo vệ sức khỏe tại nơi làm việc của NLĐ, các nghĩa vụ và nhiệm vụ của NSDLĐ trong việc bảo vệ NLĐ, trách nhiệm của Chính phủ ở các cấp độ khác nhau, của đại diện công đoàn đối với việc bảo vệ sức khỏe của NLĐ. Luật này còn đưa ra các nguyên tắc cơ bản cho việc phòng ngừa và kiểm soát bệnh nghề nghiệp, các biện pháp phòng tránh, giám sát và quản lý nơi làm việc, chuẩn đoán các bệnh nghề nghiệp, điều tra các cơ quan y tế và trách nhiệm pháp lý trong trường hợp vi phạm pháp luật.
Khái niệm bệnh nghề nghiệp trong Luật bao gồm các bệnh của NLĐ do các hoạt động trong công nghiệp, các chất nhiễm phóng xạ, hoặc các chất gây độc khác ở nơi làm việc. Để phân loại các bệnh nghề nghiệp, Bộ Y tế phối hợp với Bộ Lao động và an sinh xã hội đã xác định, chỉnh lý và ban hành tập “Phân loại và danh sách các bệnh nghề nghiệp”. NLĐ bị nhiễm các bệnh nằm trong danh sách trên được hưởng bồi thường lao động.
Về công tác phòng ngừa bệnh nghề nghiệp, Chính phủ ở các cấp độ khác nhau phải xác định rõ ràng kế hoạch phòng ngừa và kiểm soát đối với các bệnh nghề nghiệp và đưa chúng vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cũng như thực tiễn.
Về việc gắn trách nhiệm của NSDLĐ với việc bảo vệ sức khỏe của NLĐ, Luật này yêu cầu NSDLĐ thiết lập hệ thống đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động. NSDLĐ phải thành lập bộ phận chăm sóc sức khỏe lao động làm việc toàn thời gian hoặc bán thời gian để quản lý và phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe tại nơi làm việc; NLĐ bị mắc bệnh tại nơi làm việc phải được kiểm tra thường xuyên, bao gồm kiểm tra trước khi nhận công tác, kiểm tra định kỳ khi đang công tác và kiểm tra trước khi rời khỏi vị trí công tác. NSDLĐ phải trả chi phí cho các kiểm tra sức khỏe trên và báo cáo chính xác quá trình từ khi NLĐ nhận việc làm, bởi vì khi NLĐ phát hiện có bệnh, thanh tra y tế sẽ vào cuộc để điều tra ở đâu và từ khi nào người này phát bệnh.
NSDLĐ có trách nhiệm đào tạo NLĐ. Họ tổ chức các khóa huấn luyện trước và trong khi làm việc cho NLĐ về chống lại các nguy cơ gây hại cho sức khoẻ và phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn lao động. Khi thương lượng và ký kết hợp đồng lao động, NSDLĐ phải thông báo cho NLĐ về các nguy cơ mắc bệnh có thể xảy ra tại nơi làm việc, hệ quả của chúng và các biện pháp có thể sử dụng để tránh các tác hại trên. NSDLĐ phải đưa thông tin này vào hợp đồng và không được giấu giếm, che đậy dưới bất kể hình thức nào.
Tất cả các chi phí cho việc phòng ngừa và kiểm soát nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp, kiểm tra nơi làm việc, kiểm tra sức khỏe NLĐ và đào tạo bảo vệ sức khỏe lao động đều được tính trong chi phí thường xuyên (chi phí sản xuất).
Về cách xử lý đối với những người mắc bệnh nghề nghiệp, chẩn đoán bệnh nghề nghiệp phải được tiến hành bởi cơ sở y tế có thẩm quyền và do cơ quan y tế có thẩm quyền ở cơ sở hoặc cấp cao hơn xác nhận. NLĐ có thể xin được khám chẩn đoán bệnh nghề nghiệp dù làm việc ở bất kỳ doanh nghiệp nào. Những NSDLĐ này phải cung cấp báo cáo về tình hình sức khỏe của người dự tuyển và nơi làm việc để làm báo cáo y tế. Các bên liên quan khác, NLĐ hay NSDLĐ mà không đồng ý với kết luận của chẩn đoán có thể xin ý kiến của cơ quan y tế địa phương hoặc vùng.
Người bị mắc bệnh phải tuân theo chỉ dẫn điều trị và tuân thủ các quy định của Nhà nước. NSDLĐ không được thuyên chuyển NLĐ bị mắc bệnh nghề nghiệp sang vị trí làm việc khác. NLĐ bị mắc bệnh nghề nghiệp phải được bồi thường theo quy định của Nhà nước về an sinh xã hội dành cho các tổn thất lao động. Ngoài khoản tiền được bồi thường thì NLĐ bị mắc bệnh còn được hưởng trợ cấp theo quy định của luật dân sự và có thể kiện NSDLĐ nếu không nhận được.
4. Thái Lan
Luật ATVSLĐ Thái Lan được thông qua năm 2011 với các quy định ràng buộc trách nhiệm của NSDLĐ đối với an toàn và vệ sinh tại nơi làm việc và được áp dụng cho hầu hết NSDLĐ không kể ở thành thị, nông thôn hay cơ quan nhà nước, không một NSDLĐ nào được loại trừ khỏi các quy định trong luật. Một số nội dung chính của văn bản này là: đưa ra các khái niệm có liên quan như an toàn, vệ sinh nơi làm việc và môi trường làm việc, NSDLĐ, NLĐ, người quản lý, thanh tra viên, nhân viên phụ trách an toàn nơi làm việc, nơi làm việc; quy định trách nhiệm của NLĐ, NSDLĐ; quy định thủ tục đăng ký đối với chuyên gia về ATVSLĐ; quy định NSDLĐ phải cử một nhân viên phụ trách an toàn lao động; quy định cụ thể các nhiệm vụ chung của NSDLĐ liên quan đến ATVSLĐ; quy định các nhiệm vụ của NSDLĐ và nhân viên giám sát; quy định các nhiệm vụ của nhân viên phụ trách an toàn lao động, người giám sát và người quản lý; quy định về trách nhiệm của người thầu chính và người thầu phụ; quy định thành lập một hội đồng thường trực về ATVSLĐ và môi trường lao động để hỗ trợ cho Bộ trưởng về chính sách, soạn thảo các quy định liên quan đến ATVSLĐ; một số nhiệm vụ khác của NSDLĐ như: đánh giá mức độ an toàn, xem xét mức độ ảnh hưởng của môi trường làm việc đối với NLĐ, xây dựng kế hoạch hành động cho an toàn vệ sinh nơi làm việc và môi trường lao động, tăng cường kiểm soát NLĐ và môi trường làm việc…; các nhiệm vụ khi xảy ra tai nạn nghiêm trọng; khi công việc bị ngưng trệ thì NSDLĐ vẫn phải chi trả tiền lương và các khoản khác, trừ trường hợp NLĐ gây nên tình trạng ngưng trệ này.
5. Hàn Quốc
Luật ATVSLĐ của Hàn Quốc được thông qua năm 1980, có hiệu lực từ năm 1981, đã được sửa đổi, bổ sung 27 lần trong những năm qua. Luật ATVSLĐ gồm 9 chương, gồm: quy định chung về ATVSLĐ; quy định về hệ thống quản lý ATVSLĐ; các quy định quản lý ATVSLĐ; quy định về các biện pháp phòng ngừa các yếu tố nguy hiểm, có hại; quản lý sức khỏe NLĐ và quy định về xử phạt. Theo quy định của Luật ATVSLĐ của Hàn Quốc, Bộ Lao động Hàn Quốc có trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực ATVSLĐ, gồm có các cơ quan quản lý và cơ quan thanh tra lao động. Ngoài ra, các cơ quan hỗ trợ kỹ thuật nằm trong Cơ quan An toàn và sức khỏe nghề nghiệp Hàn Quốc (KOSHA) và các hiệp hội ngành nghề.
Mục đích của Luật là duy trì và thúc đẩy an toàn và sức khoẻ của NLĐ thông qua việc phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp bằng cách xây dựng các tiêu chuẩn về an toàn và sức khoẻ lao động và làm rõ trách nhiệm cá nhân, tạo ra môi trường làm việc thoải mái.
Luật được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp hoặc nơi làm việc với điều kiện là Luật có thể không áp dụng toàn bộ hoặc một phần cho các doanh nghiệp theo quy định trong Sắc lệnh của Tổng thống có tính đến mức độ của các yếu tố có hại và mối nguy hiểm, loại hình và quy mô doanh nghiệp, vị trí của doanh nghiệp…
6. Nhật Bản
Luật An toàn và sức khỏe của Nhật Bản gồm 12 chương, với 123 điều và 22 phụ lục, thông qua lần đầu năm 1972, gồm: quy định chung; kế hoạch phòng ngừa tai nạn công nghiệp; quy định về các tổ chức quản lý ATVSLĐ; quy định về các biện pháp phòng ngừa các yếu tố nguy hiểm, có hại đến sức khỏe NLĐ; quy định liên quan đến máy, chất độc hại; quy định về biện pháp tuyển dụng, bố trí lao động; quy định về duy trì và cải thiện sức khỏe lao động; quy định về biện pháp tạo ra điều kiện lao động tiện nghi; quy định về các giấy phép; quy định về các kế hoạch cải thiện an toàn - sức khỏe; thanh tra, xử phạt.
II. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật an toàn, vệ sinh lao động  
Thông tin tham khảo về pháp luật ATVSLĐ của một số quốc gia và tổ chức trên cho  thấy, ở hầu hết các nước tiên tiến, việc đảm bảo ATVSLĐ được đặt lên hàng đầu với mục đích là để đảm bảo tính mạng, an toàn cho NLĐ, nâng cao sức khỏe cho NLĐ, giảm thiểu chi phí xã hội cho những rủi ro không cần thiết. Trách nhiệm về đảm bảo vệ sinh an toàn lao động được pháp luật các nước trao cho cả ba bên. Qua nghiên cứu các quy định về ATVSLĐ của một số quốc gia và tổ chức quốc tế, chúng tôi nhận thấy, cần hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về an toàn và vệ sinh lao động theo hướng như sau:
Thứ nhất, ngay từ những ngày đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần thiết phải có Luật ATVSLĐ và có một hệ thống quản lý thống nhất ATVSLĐ, do một Bộ, thường là Bộ Lao động chủ trì. Tại các quốc gia này, các tổ chức nghiên cứu, đào tạo, huấn luyện và triển khai hoạt động ATVSLĐ được cấp kinh phí hoạt động chủ yếu từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động (đóng góp từ NSDLĐ). Chính phủ chỉ cấp kinh phí cho các hoạt động quản lý như thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước. Đây là một kinh nghiệm mà Việt Nam có thể áp dụng để giảm đầu tư từ ngân sách nhà nước, tăng tính xã hội hóa các hoạt động ATVSLĐ.
Thứ hai, mô hình quản lý, triển khai hoạt động huấn luyện ATVSLĐ của các tổ chức ATVSLĐ (như KOSHA - Hàn Quốc, JISHA - Nhật Bản, các nghiệp đoàn ở Đức...) nói chung là  mô hình rất hiệu quả và thống nhất, nhưng vẫn được xã hội hóa rất cao, giúp cho các doanh nghiệp, đối tượng huấn luyện tiếp cận các dịch vụ huấn luyện một cách dễ dàng. Đồng thời, hệ thống chương trình, tài liệu được quản lý thống nhất trên cơ sở nghiên cứu, đóng góp của các tổ chức khoa học, giáo dục và các chuyên gia huấn luyện hàng đầu; lực lượng giảng viên chuyên nghiệp. Kinh phí phòng ngừa tai nạn lao động được đầu tư qua hoạt động giáo dục, huấn luyện an toàn, sức khỏe trích từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động là một kinh nghiệm mà nhiều quốc gia đã triển khai. Đây là mô hình mà Việt Nam chúng ta có thể áp dụng ngay một phần, nếu có chính sách đầu tư từ Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Thứ ba, kiểm tra chất lượng, kiểm định an toàn các máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ và phương tiện bảo vệ cá nhân là hoạt động bắt buộc để đánh giá chất lượng và độ an toàn của phương tiện, thiết bị trước khi đưa ra thị trường và trong quá trình sử dụng. Hoạt động kiểm tra, kiểm định, chứng nhận là dịch vụ kỹ thuật do một tổ chức có uy tín cung cấp sẽ đảm bảo giúp cơ quan quản lý nhà nước về an toàn lao động quản lý hoạt động kiểm tra, chứng nhận và quản lý đội ngũ kỹ thuật viên kiểm tra, kiểm định, nội dung, các yêu cầu an toàn của từng máy, thiết bị.
Thứ tư, cách tiếp cận để phòng ngừa tai nạn, theo đó tiếp cận dựa vào rủi ro để tăng cường cấp độ ATVSLĐ trên tổng thể; tăng cường cách tiếp cận thông thường trong những lĩnh vực nguy cơ cao; các mục tiêu và biện pháp cụ thể được mô tả rõ ràng trong các lĩnh vực ưu tiên; cải thiện liên tục cấp độ ATVSLĐ thông qua việc giới thiệu cách tiếp cận hệ thống quản lý ở cấp quốc gia./.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23(279), tháng 12/2014)