Một số vấn đề về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của hộ gia đình

01/04/2014

Luật sư ĐÀO HOÀNG THẮNG

Đoàn luật sư TP Hà Nội.

LÊ THỊ HƯƠNG THỦY; NGUYỄN THỊ THU

Ban Pháp chế, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Mặc dù có tiềm năng và điều kiện phát triển, nhưng tốc độ phát triển của kinh tế hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn so với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế cũng như thu nhập của hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn chưa tương xứng với sự đóng góp của hộ gia đình cho xã hội. Bài viết tập trung làm rõ những quy định chưa thực sự phù hợp về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của hộ gia đình, kiến nghị những giải pháp góp phần thúc đẩy các giao dịch của hộ gia đình, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Untitled_390.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Địa vị pháp lý của hộ gia đình
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì: hộ là nhà, đơn vị để quản lý dân số[1]. Theo Từ điển Luật học, hộ gia đình là “tập hợp nhóm người có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng”[2].
Điều 106 Bộ luật Dân sự (BLDS) quy định: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”.
Như vậy, hộ gia đình bao gồm những người có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng và hôn nhân, sinh sống bằng nghề nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, là đơn vị sản xuất cơ bản, sản xuất ổn định, là điều kiện quan trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế nông nghiệp. Do đó, hộ gia đình có đặc trưng riêng biệt, không giống như những đơn vị kinh tế khác, cũng vì thế mà hộ gia đình là đơn vị kinh tế - xã hội khá đặc biệt.
Về khía cạnh pháp lý, hộ gia đình thỏa mãn các điều kiện sau sẽ có thể là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự: Các thành viên có tài sản chung; Cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định.
Theo quy định này, hộ gia đình có thể được hình thành bằng một nhóm người nếu thỏa mãn hai tiêu chí: có tài sản chung và cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định, còn mọi hộ gia đình nói chung không đương nhiên là chủ thể trong quan hệ dân sự. Đồng thời, chỉ trong các quan hệ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác như: vay vốn, mua vật tư nguyên liệu sản xuất... của gia đình, thì hộ gia đình mới là chủ thể của giao dịch dân sự. Nếu như tham gia vào các hoạt động khác, chẳng hạn như mua bán xe ô tô hoặc mua bán nhà ở... không vì mục đích kinh doanh, thì không xuất hiện chủ thể hộ gia đình trong quan hệ dân sự. Đây là điều bất hợp lý, vì ô tô, nhà ở... cũng là tài sản chung và là giao dịch liên quan đến tài sản chung của hộ gia đình nhưng lại không phải là giao dịch của hộ gia đình. Tất nhiên, các điều khoản liên quan khác vẫn quy định việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình thì phải được sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình.
Như vậy, theo quy định của BLDS thì chủ thể hộ gia đình trong quan hệ dân sự chỉ là chủ thể của quan hệ pháp luật trong một số giao dịch sản xuất, kinh doanh theo quy định tại Điều 106: trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định. Điều đó không những làm kém đi tính hấp dẫn của loại hình chủ thể này đối với các thành phần kinh tế khác trong xã hội, mà còn không phản ánh được đầy đủ hoạt động kinh tế của các hộ gia đình. Trên thực tế, một hộ gia đình không chỉ tham gia vào các quan hệ trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp…, mà còn tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh, thương mại, dịch vụ, thủ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, kể cả các quan hệ pháp luật phái sinh từ các hoạt động đó. Ví dụ: mua nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, thuê mướn mặt bằng, sử dụng các dịch vụ kinh tế - xã hội, vay vốn ngân hàng để sản xuất, ký hợp đồng ủy thác xuất khẩu hàng hóa làm ra, thuê nhân công… Quy định này làm cho tư cách pháp lý của hộ gia đình so với các chủ thể độc lập khác trở nên bất bình đẳng, vì họ không được quyền lựa chọn các quan hệ pháp luật dân sự để tham gia. Do đó, không khuyến khích được các cá nhân lập ra nhiều hộ gia đình hoặc tự thừa nhận mình là hộ gia đình, bởi như vậy cũng có nghĩa là họ tự “trói chân” mình, tự đặt mình vào một quy chế chủ thể bất lợi. Việc hạn chế sự tham gia giao dịch dân sự của hộ gia đình đã đồng thời làm hạn chế hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh là hộ gia đình.
2. Tài sản chung và hoạt động kinh tế chung của hộ gia đình
Khái niệm tài sản chung của hộ gia đình được hiểu theo quy định tại Điều 108 BLDS: “Tài sản chung của hộ gia đình gồm: quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung của hộ”. Như vậy, các thành viên hộ gia đình “có tài sản chung”, nhưng không phải là bất cứ tài sản nào cũng được coi là tài sản chung của hộ gia đình, mà chỉ trong trường hợp có tài sản chung theo quy định tại Điều 108 về “Tài sản chung của hộ gia đình” mới được coi là tài sản chung của hộ gia đình.
Tài sản chung là tài sản do các thành viên của cả hộ tạo lập nên trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh tế chung và các tài sản mặc dù thuộc sở hữu cá nhân nhưng có thỏa thuận góp vào khối tài sản chung hoặc các tài sản được sử dụng vào mục đích hoạt động kinh tế chung[3]. Tài sản chung này bao gồm: quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất (gồm cả đất ở và đất canh tác), rừng, rừng trồng của hộ khi được nhà nước giao đất canh tác, trồng rừng cho hộ và các tài sản chung được tạo thành theo các căn cứ được quy định tại Điều 170 BLDS bao gồm: Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp; Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Thu hoa lợi, lợi tức; Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến; Được thừa kế tài sản; Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên; Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật này; Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Hoạt động kinh tế chung có thể hiểu là việc cùng sản xuất trên một diện tích mặt đất, mặt nước, cùng làm một nghề thủ công như: làm giấy, in tranh, đồ mộc, đồ sành sứ, làm đồ thủ công mỹ nghệ, cùng sản xuất một loại sản phẩm… mà mỗi thành viên phụ trách một công đoạn trong quá trình sản xuất hoặc cùng tạo ra một nhóm sản phẩm và tiến hành phân phối, bán, cho thuê trong một tổng thể… và cùng được hưởng lợi từ các hoạt động kinh tế chung nêu trên. Việc hưởng lợi có thể là trực tiếp (nhận tiền, tài sản chia cho từng người) hoặc thông qua việc thụ hưởng chung các lợi ích như nhà ở, ăn uống, đi lại bằng tài sản chung. Như vậy, các hoạt động đơn lẻ của thành viên hộ gia đình như mua bán phục vụ tiêu dùng cá nhân không được coi là quan hệ của hộ gia đình và hộ gia đình không phải chịu trách nhiệm với hành vi của cá nhân đó (trong trường hợp cá nhân đã thành niên và có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự).
Việc xác định tài sản chung, các hoạt động kinh tế chung của hộ gia đình có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trách nhiệm của hộ gia đình khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự.
Việc phân chia lợi nhuận, lợi ích từ hoạt động kinh tế chung của hộ gia đình không được pháp luật về hộ gia đình quy định cụ thể, nhưng có thể hiểu rằng, các thành viên hộ gia đình được hưởng lợi từ hoạt động kinh doanh của hộ gia đình một cách bình đẳng và ngang bằng nhau. Tuy nhiên, trên thực tế khó có thể tách bạch giữa tài sản của hộ gia đình sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh với tài sản để sinh hoạt cá nhân. Do đó, rất khó có thể phân biệt được rạch ròi hoạt động của các thành viên hộ gia đình với hoạt động kinh tế chung của hộ gia đình. 
3. Thời điểm định đoạt tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của hộ gia đình
Pháp luật chưa có hệ thống văn bản quy định cụ thể cách thức, trình tự, trách nhiệm của từng thành viên hộ gia đình khi hộ gia đình tham gia thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính hộ gia đình hoặc cho người thứ ba. Do vậy, khi hộ gia đình tham gia thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự sẽ rất khó cho các chủ thể (bên bảo đảm - hộ gia đình; bên nhận bảo đảm) thực hiện.
Điều 109 BLDS quy định về Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình: 1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thỏa thuận; 2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”.
Như vậy, khi hộ gia đình tham gia thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: thế chấp, cầm cố, bảo lãnh,... thì phải được các thành viên của hộ gia đình định đoạt theo phương thức thỏa thuận. Trong trường hợp hộ gia đình định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại sản tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.
Khi hộ gia đình tham gia giao dịch dân sự thì thời điểm định đoạt tài sản rất quan trọng, nó sẽ làm phát sinh trách nhiệm của các thành viên hộ gia đình. Theo đó, thời điểm định đoạt tài sản có thể là thời điểm giao kết giao dịch dân sự hoặc là thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo đảm (xử lý tài sản bảo đảm).
Quy định này cần được pháp luật làm rõ, bởi xung quanh quy định này, có rất nhiều vấn đề phức tạp và tranh chấp phát sinh mà nguyên nhân là các bên tham gia giao dịch và thậm chí các cơ quan tư pháp cũng còn hiểu khác nhau. Có một số ý kiến cho rằng, thời điểm định đoạt là thời điểm giao kết giao dịch, nhưng ý kiến khác lại cho rằng, thời điểm định đoạt là thời điểm thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài sản. Nội dung này đối với cá nhân và pháp nhân thì không cần có sự phân biệt nhưng đối với hộ gia đình thì có sự khác biệt rất lớn, do quy định định đoạt tài sản với các thành viên đủ 15 tuổi như đã nêu. Rất nhiều tranh chấp đã xảy ra do khi giao kết hợp đồng, nhiều thành viên gia đình chưa đủ 15 tuổi nên không cần có ý kiến nhưng qua thời gian thực hiện giao dịch đến khi phải thực hiện nghĩa vụ (ví dụ giao tài sản hoặc chuyển nhượng tài sản để thực hiện nghĩa vụ) thì thành phần hộ gia đình đã có sự thay đổi số thành viên đủ 15 tuổi.
Bên cạnh đó, khái niệm “lớn” trong quy định “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn” cũng cần có quy định cụ thể, vì ở mỗi địa phương - theo mức độ phát triển khác nhau - khái niệm “lớn” cũng có những giá trị rất khác nhau.
Theo chúng tôi, pháp luật nên quy định thời điểm định đoạt tài sản là thời điểm giao kết giao dịch dân sự vì theo quy định tại Điều 281 BLDS thì nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các căn cứ sau: “1. Hợp đồng dân sự; 2. Hành vi pháp lý đơn phương; 3. Thực hiện công việc không có ủy quyền; 4. Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; 5. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật; 6. Những căn cứ khác do pháp luật quy định”.   
Như vậy, khi hộ gia đình giao kết giao dịch dân sự thì cũng chính là thời điểm công khai việc định đoạt tài sản của các thành viên hộ gia đình và là thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự của các thành viên hộ gia đình.
Việc xác định thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự của hộ gia đình không chỉ căn cứ vào thời điểm định đoạt tài sản, mà còn căn cứ vào phương thức định đoạt tài sản của các thành viên hộ gia đình. Theo quy định thì đối với tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.
Đối với trường hợp đại diện hộ gia đình xác lập giao dịch dân sự không có ý kiến của các thành viên hộ gia đình, nhưng sau đó, các thành viên hộ gia đình đồng ý hoặc biết nhưng không phản đối hoặc không có ý kiến, thì theo quan điểm của chúng tôi, giao dịch dân sự đó vẫn phát sinh nghĩa vụ đối với hộ gia đình, đối với các thành viên hộ gia đình.
Tương tự, pháp luật cũng cần có quy định đối với trường hợp hoặc giao dịch dân sự do người đại diện hộ gia đình xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, hoặc người không có thẩm quyền đại diện hộ gia đình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhưng đại diện hộ gia đình và các thành viên khác của hộ gia đình đồng ý hoặc biết nhưng không phản đối hoặc không có ý kiến về việc đại diện của người đó, thì vẫn phát sinh nghĩa vụ dân sự đối với hộ gia đình, đối với các thành viên hộ gia đình tương tự như quy định tại Điều 145, Điều 146 BLDS.    Việc định đoạt tài sản của hộ gia đình có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định nghĩa vụ dân sự của các thành viên hộ gia đình, xác định tư cách chủ thể của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự. Nhưng các nội dung này lại chưa được pháp luật quy định cụ thể. Do đó, sẽ rất khó khăn cho các chủ thể tham gia, thực hiện trong giao dịch, đặc biệt là bên nhận bảo đảm sẽ gặp nhiều rủi ro khi nhận tài sản bảo đảm của hộ gia đình. Do vậy, pháp luật cần phải có quy định cụ thể, rõ ràng về việc định đoạt tài sản của hộ gia đình để các bên tham gia giao dịch có căn cứ, cơ sở để thực hiện, bảo vệ quyền, lợi ích của bên nhận bảo đảm khi tham gia giao dịch.
4. Chế độ chịu trách nhiệm của hộ gia đình
Để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, hộ gia đình phải có năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể của hộ gia đình có những nét tương đồng với năng lực chủ thể của pháp nhân ở chỗ: năng lực pháp luật và năng lực hành vi của hộ gia đình phát sinh đồng thời với việc hình thành hộ gia đình với tư cách chủ thể. Tuy nhiên, hộ gia đình không có tư cách chủ thể đầy đủ, trọn vẹn như pháp nhân vì thời điểm phát sinh, chấm dứt tư cách chủ thể của hộ gia đình là khó xác định và không rõ ràng như pháp nhân (ở pháp nhân, thời điểm phát sinh và chấm dứt tư cách chủ thể là thời điểm thành lập, đăng ký hoạt động và thời điểm chấm dứt pháp nhân),pháp luật không quy định cách thức phát sinh, trình tự phát sinh hay chấm dứt một hộ gia đình mà phải căn cứ vào điều kiện thực tế tồn tại trong hộ gia đình đó để xác nhận. Có thể tồn tại trong một ngôi nhà có nhiều hộ gia đình với tư cách chủ thể, nhưng cũng có thể có hộ gia đình mà các thành viên sống ở nhiều ngôi nhà khác nhau, thậm chí thành viên của hộ gia đình có nơi cư trú khác nhau, nhưng thỏa mãn điều kiện: “có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung”.
Thời điểm ra đời, chấm dứt hộ gia đình còn phụ thuộc vào việc tham gia hoặc không tham gia vào một quan hệ dân sự. Khi đó, hộ gia đình là một tổ chức tự phát, tự sinh rồi tự diệt; pháp luật không có căn cứ quy định sự khai sinh hoặc chấm dứt tư cách chủ thể của hộ gia đình. Bất cập này khiến cho các bên liên quan không thể trù tính được thời điểm chấm dứt tư cách chủ thể của hộ gia đình, bản thân các thành viên của hộ cũng không thể biết rõ thời điểm tồn tại và chấm dứt hộ gia đình. Ví dụ, khi những người trong hộ hùn vốn để đóng một chiếc thuyền đánh cá chung, họ là hộ gia đình. Đến khi họ dùng chiếc thuyền đó thế chấp để vay vốn ngân hàng, họ lại thành một hộ gia đình khác trong quan hệ vay vốn, lúc trả hết vốn thì chấm dứt tư cách hộ gia đình. Như vậy, tư cách chủ thể của hộ sẽ luôn thay đổi và không ổn định.
Hộ gia đình chấm dứt trong các trường hợp như tài sản chung không còn hoặc các thành viên trong hộ đều đã chết, hoặc ly hôn, tách hộ để ra sống riêng, hoặc các thành viên thỏa thuận chấm dứt hoạt động của hộ gia đình… Do vậy, việc quy định căn cứ phát sinh năng lực chủ thể và chấm dứt tư cách chủ thể của hộ gia đình là hết sức cần thiết và ảnh hưởng lớn tới việc xác định tư cách thành viên, trách nhiệm của các thành viên hộ kinh doanh.
 BLDS cũng đã không quy định về các căn cứ làm phát sinh, chấm dứt tư cách của các thành viên trong hộ gia đình dẫn đến nhiều trường hợp, các thành viên không thể biết được mình có phải là thành viên của hộ gia đình hay không. Khi có sự tranh chấp trong hộ gia đình, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp cũng khó có cơ sở pháp lý để buộc một người phải chịu trách nhiệm pháp lý với tư cách là thành viên của hộ về các nghĩa vụ tài sản của hộ gia đình. Việc quy định căn cứ làm phát sinh, chấm dứt tư cách thành viên hộ gia đình rất có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm của các thành viên hộ gia đình đối với trách nhiệm chung của hộ gia đình.
Hộ gia đình tham gia các giao dịch dân sự thông qua đại diện là chủ hộ. Tại Điều 107 BLDS quy định:  "1. Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ. Chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện chủ hộ trong quan hệ dân sự. 2. Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình”.
Theo quy định trên thì chủ hộ gia đình đương nhiên là người đại diện của hộ gia đình để xác lập các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 109 về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình, thì chủ hộ gia đình không đương nhiên có quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, mà còn phải đáp ứng được một số điều kiện như: “1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận; 2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”.
Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình. Do vậy, việc chỉ định chủ hộ phải được pháp luật xác định một cách rõ ràng và minh bạch. BLDS mới chỉ quy định chủ hộ gia đình là người đã thành niên, nhng chưa chỉ rõ đích danh ai là chủ hộ và cũng không có quy định nào liên quan đến việc thay đổi, chấm dứt tư cách của chủ hộ gia đình. Điều này dễ làm cho đối tác của hộ gia đình cũng như những người trong hộ khó nhận biết được cụ thể thời gian một người có còn hay không còn tư cách chủ hộ. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm của các thành viên hộ gia đình đối với các giao dịch dân sự do chủ hộ gia đình xác lập.
Chủ hộ của hộ gia đình trong BLDS khác với chủ hộ trong sổ hộ khẩu được quy định tại Luật Cư trú. Chủ hộ của hộ gia đình có thể đồng thời hoặc không đồng thời là chủ hộ trong Sổ hộ khẩu và vì thế chủ hộ trong Sổ hộ khẩu không thể đương nhiên dùng tư cách chủ hộ của hộ gia đình để thực hiện các giao dịch dân sự đại diện cho cả hộ (trừ trường hợp được cả hộ gia đình ủy quyền). Tuy nhiên, trong thực tế, nếu có bất kỳ giao dịch dân sự nào liên quan đến hộ gia đình thì cơ quan quản lý nhà nước cũng như người dân luôn yêu cầu người đại diện phải là chủ hộ trong Sổ hộ khẩu. Thực tế trên đã và đang làm các giao dịch dân sự liên quan đến hộ gia đình bị hiểu và thực hiện lệch lạc so với quy định pháp luật về hộ gia đình.
Việc phân biệt giao dịch dân sự do chủ hộ với tư cách là đại diện của hộ gia đình xác lập với giao dịch dịch dân sự do chủ hộ tham gia với tư cách là cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để xác định là trách nhiệm của hộ gia đình hay trách nhiệm cá nhân.
BLDS quy định về trách nhiệm dân sự của hộ gia đình tại Điều 110 như sau: “1. Hộ gia đình phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện nhân danh hộ gia đình. 2. Hộ gia đình chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ, nếu tài sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình”.
Theo đó, khi chủ hộ với tư cách là người đại diện hộ gia đình xác lập, thực hiện quan hệ dân sự nhân danh hộ gia đình sẽ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự cho cả hộ gia đình. Hộ gia đình phải chịu trách nhiệm thực hiện những quyền và nghĩa vụ dân sự đó bằng tài sản chung của hộ, nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, nếu không đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 109, thì có thể dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu và hộ gia đình không phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định tại Điều 110 này.
Nếu chủ hộ tham gia quan hệ dân sự với tư cách cá nhân thì sẽ chỉ cá nhân đó phải chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình.
Tuy nhiên, vấn đề này pháp luật đã có quy định nhưng chưa rõ ràng, rất khó để phân định rõ ràng được trách nhiệm của chủ hộ với tư cách là cá nhân với trách nhiệm của hộ gia đình do chủ hộ xác lập nhân danh hộ gia đình. Để quy trách nhiệm cho các thành viên hộ gia đình thì cần phải xác định được các thành viên của hộ gia đình, tuy nhiên không có căn cứ pháp lý để khẳng định những người nào là thành viên của hộ gia đình.
Trên thực tế, thường xác định các thành viên của hộ gia đình dựa vào sổ hộ khẩu gia đình, mặc dù, sổ hộ khẩu không phải là căn cứ pháp lý để xác định quyền và nghĩa vụ chung của các thành viên, mà để phục vụ cho mục đích quản lý nhân khẩu thường trú. Thành viên đăng ký trong sổ hộ khẩu thường xuyên có biến động do việc tách, nhập hộ; nhập cắt, chuyển khẩu do sinh, tử, di chuyển, thậm chí đăng ký cư trú nhờ... Theo quy định tại Điều 19 về “Điều kiện đăng ký thường trú tại tỉnh”, Luật Cư trú năm 2006, thì ai cũng có thể được đăng ký vào sổ hộ khẩu của gia đình khác, chỉ cần người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ nhà đồng ý bằng văn bản. Riêng việc nhập vào sổ hộ khẩu tại thành phố trực thuộc trung ương thì đòi hỏi có thêm điều kiện về quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng hoặc họ hàng ruột thịt. Do vậy, để xác định thành viên hộ gia đình làm cơ sở cho giao dịch dân sự theo đúng quy định của pháp luật, thì thường phải phát huy hết khả năng suy đoán để tìm ra mọi tình huống có thể.
5. Chế độ chịu trách nhiệm liên đới của các thành viên trong hộ gia đình
Khoản 2 Điều 107 BLDS quy định: “Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình” .
Trên thực tế, một hay nhiều thành viên của hộ gia đình sinh sống, làm việc tại một nơi khác nhưng vẫn có tên trong sổ hộ khẩu gia đình, khi người đại diện của hộ gia đình/hộ kinh doanh xác lập quan hệ dân sự thì liệu thành viên đang làm việc ở nơi khác đó có phải chịu trách nhiệm trả nợ liên đới với các thành viên khác của hộ gia đình hay không? Bên có quyền liệu có quyền yêu cầu những thành viên đó thực hiện nghĩa vụ trả nợ không?
Vấn đề này pháp luật không quy định rõ nên rất khó xác định trách nhiệm của từng thành viên hộ gia đình, rất khó cho người có quyền thực hiện các quyền trong việc yêu cầu hộ kinh doanh do một hộ gia đình làm chủ thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Theo chúng tôi, trách nhiệm chung của hộ gia đình và trách nhiệm liên đới của các thành viên hộ gia đình đối với việc thực hiện nghĩa vụ do người đại diện hộ gia đình xác lập vì lợi ích chung của hộ gia đình được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 107 BLDS “Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình”. Theo đó, tất cả các thành viên của hộ gia đình đã thành niên hay chưa thành niên đều phải chịu trách nhiệm trả nợ bằng tài sản chung và tài sản riêng của mình.
Trường hợp, một hay nhiều thành viên khác của hộ gia đình sinh sống, làm việc ở địa phương khác nhưng vẫn đứng tên trong sổ hộ khẩu gia đình thì sẽ không phải chịu trách nhiệm liên đới trả nợ với các thành viên khác của hộ gia đình. Bởi, tại Điều 106 BLDS quy định tư cách chủ thể pháp luật của hộ gia đình như sau: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”.
Như vậy, chỉ những thành viên của hộ gia đình có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định mới tạo thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là hộ gia đình. Do đó, với những thành viên sinh sống, làm việc ở địa phương khác thì không thể có điều kiện tham gia, cùng đóng góp công sức vào hoạt động kinh tế chung. Mặt khác, thành viên đó lại làm việc trong lĩnh vực khác so với hoạt động kinh tế chung của hộ gia đình. Vì vậy, không thể quy trách nhiệm trả nợ liên đới của thành viên hộ gia đình sinh sống, làm việc ở một địa phương khác với trách nhiệm liên đới của các thành viên khác của hộ gia đình.
Theo quy định tại Điều 298 về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ liên đới, bên có quyền có quyền yêu cầu một thành viên của hộ gia đình thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trả nợ của hộ gia đình. Trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trả nợ cho cả hộ gia đình thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của hộ với mình.
Trong các quy định của BLDS không có quy định về phần nghĩa vụ liên đới của các thành viên hộ gia đình. Do đó, khi một thành viên đã đứng ra thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho hộ gia đình bằng tài sản riêng thì được thực hiện quyền yêu cầu các thành viên khác phải trả tiền lại cho mình theo“phần nghĩa vụ liên đới” mà không xác định được phần nghĩa vụ liên đới của các thành viên còn lại như thế nào, nên sẽ xảy ra các tranh chấp về trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ dân sự của từng thành viên trong hộ gia đình.
Như vậy, việc xác định tư cách đại diện, tài sản của hộ gia đình không đơn giản, ảnh hưởng đến quyền lợi của các tổ chức, cá nhân khác khi tham gia giao dịch với hộ gia đình. Nếu các chủ thể khác tham gia giao dịch dân sự với hộ gia đình không xác định đúng tư cách đại diện, tài sản chung của hộ thì sẽ xảy ra nhiều rủi ro trong việc thực hiện quyền của mình.
Tóm lại, để đảm bảo nguyên tắc các bên đều bình đẳng trước pháp luật, tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình nói riêng và kinh tế nông nghiệp nông thôn nói chung phát triển thì pháp luật cần quy định cụ thể về hộ gia đình: tư cách hộ gia đình, trách nhiệm của hộ gia đình, của các thành viên hộ gia đình.

 


[1]Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2010, tr 733.
[2]Nxb Tư pháp và Nxb Từ điển Bách khoa. Hà Nội 2006, tr. 373.
[3]Bình luận khoa học BLDS năm 2005, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2013. 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 7(263), tháng 4/2014)


Thống kê truy cập

33944900

Tổng truy cập