Thực hiện pháp luật đối với người nghèo

01/10/2011

ThS. ĐỖ XUÂN LÂN

Phó Giám đốc Sở Tư pháp Điện Biên

1. Khái niệm và đặc trưng của người nghèo  

1.1. Khái niệm người nghèo

 

 Hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm người nghèo và tiêu chí xác định chuẩn nghèo như: chỉ số chất lượng cuộc sống (PQLI - tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và tỷ lệ mù chữ); chỉ số phát triển con người (HDI - tuổi thọ, tình trạng biết chữ của người lớn, thu nhập bình quân đầu người trong năm); nhu cầu dinh dưỡng (tính mức tiêu dùng quy ra kilocalo cho một người trong một ngày); thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người[1]. Tuy nhiên, tiêu chí chuẩn nghèo dựa trên sự kết hợp chỉ số thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người, chỉ số chất lượng cuộc sống và chỉ số phát triển con người cho phép nhìn nhận các nước giàu, nghèo chính xác và khách quan hơn.
Có thể nói, mặc dù còn nhiều ý kiến và tiêu chí xác định khác nhau, nhưng chung quy lại, người nghèo là những người có các thuộc tính như: thu nhập thấp hơn so với mức thu nhập trung bình của xã hội; mức sống dưới mức trung bình của xã hội (không được thỏa mãn nhu cầu tối thiểu, cơ bản được xã hội, cộng đồng thừa nhận); hạn chế về khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ công cộng thiết yếu và tham gia vào các công việc chung của cộng đồng, xã hội; ít có khả năng tự bảo vệ mình trước sự tác động của các chủ thể khác và các hiện tượng tự nhiên, xã hội; thường là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của những mặt trái của xã hội, sự phát triển kinh tế và sự bất ổn về chính trị.

1.2. Đặc trưng của người nghèo

 

 Như các chủ thể khác, người nghèo là lực lượng lao động trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và cũng là lực lượng tiêu thụ sản phẩm, của cải xã hội làm ra. Họ còn là chủ thể giữ gìn, phát huy, sáng tạo và thụ hưởng các giá trị văn hóa của nhân loại, của dân tộc và cộng đồng nơi họ sinh sống.
Tuy nhiên, khác với các chủ thể khác, người nghèo còn có những đặc trưng riêng. Họ là bộ phận dân cư chiếm số đông trong xã hội và thường đối lập với người giàu; xuất hiện, tồn tại, phát triển và tiêu vong cùng với xã hội có giai cấp và nhà nước; tồn tại khách quan và mang tính lịch sử cụ thể. Nhận thức và năng lực của người nghèo thường hạn chế, đa số mù chữ hoặc thiếu sự hiểu biết xã hội; khả năng phát hiện, xử lý vấn đề và tiếp cận thông tin, tri thức mới rất hạn chế, thiếu tự tin. Đa số họ chưa biết các quyền, lợi ích hợp pháp của mình được hưởng; chưa biết cách tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ khi quyền lợi bị xâm hại. Họ hay tin người, dễ bị lợi dụng, dễ gặp rủi ro và ít có điều kiện để kiểm soát, xử lý rủi ro. Vị thế xã hội của họ thường thấp kém, tiếng nói ít được lắng nghe, dễ bị bỏ qua lợi ích; khả năng tiếp cận nguồn lực thấp, thiếu hoặc không có đầy đủ thông tin. Cuộc sống của họ gắn với sản xuất nông nghiệp và nông thôn, trình độ canh tác lạc hậu hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm, khả năng sinh lời và giá trị sản phẩm làm ra thấp, thiếu nguồn lực bảo đảm phát triển ổn định, bền vững. Do mải lo lao động để duy trì cuộc sống nên người nghèo ít quan tâm đến công việc chung của cộng đồng, ngại đưa ra chính kiến, quan điểm khi nhà nước tổ chức lấy ý kiến. Điều kiện sinh sống của họ thường khó khăn, không bảo đảm an toàn; chất lượng cuộc sống thấp (đông con, thiếu ăn, ăn uống không đủ chất; không có điều kiện chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật; sử dụng hàng hóa, sản phẩm kém chất lượng), dễ mắc tệ nạn xã hội hoặc bị lợi dụng vào các hành vi vi phạm pháp luật.  

1.3. Đặc trưng của người nghèo trong thực hiện pháp luật

 

 Người nghèo gặp rất nhiều khó khăn trong thực hiện pháp luật do hệ thống pháp luật phức tạp, đồ sộ, lại thường xuyên thay đổi và điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Người nghèo nhận thức và sử dụng pháp luật thường hạn chế. Khả năng tiếp cận thông tin pháp luật và thực hiện pháp luật của người nghèo, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật thường lúng túng, bị động. Người nghèo thường nhận thức chưa đầy đủ, tản mạn, thậm chí mơ hồ về các quy định của pháp luật. Họ chưa có ý thức và thói quen đối chiếu giữa hành vi với quy phạm pháp luật; chưa ý thức đầy đủ về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và các hậu quả phát sinh
Ngoài ra, đa số người nghèo chưa hiểu biết đầy đủ về quyền, nghĩa vụ của mình và biện pháp để thực hiện chúng. Khi quyền, lợi ích bị xâm hại hoặc là đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật, họ thường bị động, lo lắng, không biết cách thức để tự bảo vệ hoặc nhờ chủ thể khác hỗ trợ, giúp đỡ, thậm chí họ có tâm lý e ngại khi phải tiếp xúc với các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Khi có vướng mắc pháp luật, họ chưa có thói quen tìm đến các cơ quan tư pháp.
Vì vậy, giải quyết vấn đề người nghèo không chỉ để bảo đảm thực hiện chức năng xã hội, nâng cao năng lực quản trị quốc gia và khẳng định uy tín của Nhà nước, mà còn góp phần bảo đảm công bằng xã hội, tạo lập niềm tin của họ vào chế độ, duy trì trật tự, an toàn xã hội. Nó còn khơi dậy mọi tiềm năng, huy động và phát huy sức dân, thu hút người nghèo vào quá trình sản xuất tạo ra của cải cho xã hội; chuyển đổi nghề nghiệp, ổn định cuộc sống; bảo vệ môi trường sống (không chặt phá rừng, đốt nương rẫy, giữ gìn vệ sinh môi trường, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên hợp lý, không lãng phí, phòng chống dịch bệnh và các tai nạn, tệ nạn xã hội); bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là văn hóa dân gian.
2. Khái niệm và đặc trưng thực hiện pháp luật đối với người nghèo

2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật đối với người nghèo

 

Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích của các chủ thể pháp luật, gắn với sự kiện, tình huống pháp lý cụ thể nhằm hiện thực hóa các quy phạm pháp luật thành các hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể. Nó còn là bộ phận, giai đoạn quan trọng của cơ chế điều chỉnh pháp luật và là hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể; là nghĩa vụ của tất cả cơ quan, tổ chức, cá nhân, là hoạt động sáng tạo của chủ thể thông qua các hoạt động cụ thể và được tiến hành bằng nhiều hình thức với quy trình khác nhau. Qua thực hiện pháp luật sẽ giúp Nhà nước và các chủ thể đánh giá về tính đúng đắn và hiệu quả của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội.
Thực hiện pháp luật đối với người nghèo là quá trình hoạt động có mục đích của các chủ thể nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật đối với người nghèo làm cho hệ thống pháp luật và pháp luật về người nghèo đi vào cuộc sống, trở thành hành vi thực tế, hợp pháp của chủ thể. Đó là những việc làm, hoạt động, phương thức hoạt động của chủ thể nhằm thực hiện yêu cầu đặt ra trong quy phạm pháp luật đối với việc điều chỉnh các quan hệ xã hội gắn với người nghèo hoặc có liên quan đến xóa đói, giảm nghèo.
Thực hiện pháp luật đối với người nghèo được thể hiện trên hai phương diện: thứ nhất, là quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về người nghèo để đưa các quy phạm pháp luật về người nghèo vào cuộc sống, trở thành hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể nhằm đạt được mục tiêu của điều chỉnh pháp luật về người nghèo. Thứ hai, là quá trình thực hiện pháp luật nói chung đối với người nghèo. Do điều kiện khách quan và chủ quan nên Nhà nước và xã hội cần có những giải pháp đặc thù để đưa pháp luật đến với người nghèo, giúp họ sử dụng pháp luật để thực hiện quyền, nghĩa vụ hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi bị xâm hại hoặc đe dọa xâm hại; từ đó tích cực tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
Như vậy, thực hiện pháp luật đối với người nghèo là tổng thể các hoạt động có mục đích của các chủ thể nhằm hiện thực hóa hệ thống pháp luật đối với người nghèo thành các hành vi thực tế, hợp pháp qua các hoạt động cụ thể, nhằm phát huy vai trò của pháp luật trong điều chỉnh quan hệ xã hội hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo; phát huy nhân tố con người bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội.

2.2. Đặc trưng của thực hiện pháp luật đối với người nghèo

 

Đặc trưng của thực hiện pháp luật đối với người nghèo là nét riêng biệt để phân biệt nó với việc thực hiện pháp luật đối với chủ thể khác, lĩnh vực khác. Các đặc trưng đó thể hiện cụ thể như sau:
Có đầy đủ các đặc trưng của thực hiện pháp luật. Các đặc trưng chung của thực hiện pháp luật bao gồm: là hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể; là nghĩa vụ của tất cả các chủ thể; là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định pháp luật; được tiến hành bằng nhiều hình thức, quy trình nhằm hiện thực hóa, thực hiện trên thực tế quyền, nghĩa vụ của chủ thể theo đúng quy định đã được mô tả trong các quy định của pháp luật; là giai đoạn không thể thiếu của cơ chế điều chỉnh pháp luật, có vị trí, vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) và mang tính chính trị - pháp lý rất cao.
Thể hiện bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN, là thước đo mức độ dân chủ, tiến bộ, văn minh.  Thực hiện pháp luật chính là một trong những biện pháp để đưa pháp luật đến với người nghèo, giúp họ hiểu biết pháp luật, biết sử dụng pháp luật để thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp; không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, không xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Một xã hội không thể được coi là tiến bộ, công bằng, dân chủ và văn minh khi vẫn còn một nhóm công dân không được tham gia vào “đời sống” nhà nước và pháp luật, không được pháp luật bảo vệ khi quyền lợi hợp pháp của họ bị xâm hại. Thực hiện pháp luật đối với người nghèo là chức năng xã hội của Nhà nước; thể hiện tính nhân văn, vì con người của chế độ ta, qua đó cũng đánh giá năng lực của Nhà nước trong giải quyết các vấn đề xã hội.
Bảo đảm thực thi trên thực tế các quyền con người, quyền công dân và là phương thức thực thi dân chủ XHCN. Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Dân chủ ở nước ta là dân chủ cho số đông nhân dân lao động, đặc biệt là người nghèo. Khi xã hội vẫn còn tồn tại một bộ phận dân cư không nằm dưới sự điều chỉnh, tác động của pháp luật hoặc bản thân họ không được tham gia đầy đủ vào việc giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng hoặc quyền lợi hợp pháp của họ bị xâm hại thì không thể gọi là có dân chủ. Bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân chính là thực thi dân chủ và ngược lại. Thực hiện pháp luật đối với người nghèo là quá trình thực thi dân chủ, phát huy quyền làm chủ của người nghèo, đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, không phân biệt giàu nghèo; bảo đảm thực hiện trên thực tế các quyền con người, quyền công dân của người nghèo được pháp luật ghi nhận; giúp họ có đủ năng lực, tự tin bày tỏ ý chí, nguyện vọng; tham gia quản lý nhà nước. Thực hiện pháp luật giúp người nghèo tham gia vào công việc chung của cộng đồng; giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước; phát hiện, đấu tranh chống hành vi vi phạm pháp luật. Đây còn là bảo đảm quan trọng để quyền, lợi ích hợp pháp của người nghèo không bị xâm hại hoặc đe dọa xâm hại, bảo đảm cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất, hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật.
 Cơ sở để kiểm nghiệm tính đúng đắn, hiệu quả của pháp luật về người nghèo. Nếu như pháp luật về người nghèo phản ánh ý chí của Nhà nước và nhu cầu xã hội đối với vấn đề người nghèo và xóa đói, giảm nghèo thì thực hiện pháp luật đối với người nghèo là quá trình thực hiện trên thực tế các quy định đó. Thực hiện pháp luật đối với người nghèo sẽ giúp Nhà nước kiểm nghiệm tính đúng đắn, hiệu quả của các chính sách, pháp luật về người nghèo trong thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về người nghèo.
Là nghĩa vụ của các chủ thể, trong đó Nhà nước chịu trách nhiệm chính trong bảo đảm thực hiện pháp luật đối với người nghèo. Thực hiện pháp luật đối với người nghèo là nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó trách nhiệm trước hết và chủ yếu thuộc về Nhà nước mà đại diện là các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Bất kỳ chủ thể nào, từ cơ quan nhà nước đến các tổ chức đoàn thể xã hội và cá nhân đều có nghĩa vụ thực hiện pháp luật về người nghèo. Khi giải quyết hoặc tham gia vào các quan hệ xã hội mà một bên chủ thể là người nghèo hoặc có liên quan đến người nghèo thì phải tính đến đặc trưng của người nghèo để thực hiện pháp luật một cách đúng đắn, phù hợp. Nhà nước là một chủ thể đặc biệt, vừa có thẩm quyền ban hành pháp luật vừa trực tiếp tổ chức thực hiện pháp luật. Vì thế, Nhà nước phải là chủ thể trực tiếp và chủ yếu, gương mẫu trong thực hiện pháp luật đối với người nghèo. Trách nhiệm của Nhà nước thể hiện qua hành vi thực hiện pháp luật của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước khi thực thi công vụ, trong tổ chức thực hiện pháp luật để pháp luật đi vào cuộc sống. Cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước phải là tấm gương sáng trong tuân thủ, chấp hành và áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, Nhà nước cần thiết lập các thiết chế hỗ trợ người nghèo thực hiện pháp luật.
3. Vai trò của thực hiện pháp luật đối với người nghèo
Là cách thức, biện pháp cơ bản, có hiệu quả nhất để chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống. Nội dung pháp luật về người nghèo phản ánh chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về người nghèo, về xóa đói, giảm nghèo. Thực hiện pháp luật đối với người nghèo là cách thức cơ bản nhất để các chủ trương, chính sách đi vào cuộc sống và phát huy hiệu lực, hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Qua hoạt động này sẽ giúp Đảng, Nhà nước kiểm nghiệm tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách, pháp luật đã được ban hành để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; kịp thời phát hiện, sửa chữa sai sót trong quá trình tổ chức thực hiện để bảo đảm thực hiện tốt hơn các chính sách xóa đói, giảm nghèo.
Là phương thức đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm công bằng xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Thực hiện pháp luật đối với người nghèo là phương thức đề cao hơn nữa trách nhiệm của cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền trong tổ chức thực hiện pháp luật; bảo đảm pháp luật về người nghèo được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất, giúp người nghèo tiếp cận và sử dụng pháp luật khi tham gia vào các quan hệ xã hội được đối xử công bằng, bình đẳng. Thông qua đó, người nghèo có điều kiện nâng cao nhận thức pháp luật, tích cực và chủ động tham gia vào các quan hệ xã hội, tiếp cận các nguồn lực để phát triển. Thực hiện pháp luật đối với người nghèo chính là biện pháp hữu hiệu góp phần giải quyết vấn đề phân hóa giàu nghèo trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Là phương thức giúp người nghèo nâng cao ý thức pháp luật, tham gia tích cực vào quản lý nhà nước, xã hội. Thực hiện pháp luật đối với người nghèo giúp họ nắm vững pháp luật, biết được giới hạn của các hành vi hợp pháp và bất hợp pháp; hành vi được và không được phép làm. Nhờ đó, người nghèo nhận thức được bản chất pháp lý của các tình huống, sự kiện; biết lựa chọn hành vi xử sự phù hợp và tốt nhất cho mình; hạn chế, kiểm soát rủi ro có thể nảy sinh. Người nghèo cũng sẽ nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của pháp luật, giúp họ tích cực, chủ động sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ. Hơn nữa, hiểu biết pháp luật giúp người nghèo tôn trọng và không xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác; tham gia bảo vệ lợi ích chung của Nhà nước, xã hội.
Góp phần ngăn ngừa, hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN. Thực hiện pháp luật đối với người nghèo giúp chủ thể nhận thức được giới hạn hành vi mà pháp luật không cho phép hoặc bắt buộc phải thực hiện. Nhờ đó, mỗi chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội sẽ tự giác và chủ động thực thi quyền, nghĩa vụ; tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cộng đồng và chủ thể khác. Khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật, mỗi người có thể tự mình yêu cầu chủ thể đó chấm dứt hành vi vi phạm, khắc phục hậu quả hoặc báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen, ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Thực hiện pháp luật đối với người nghèo giúp các chủ thể có sự hiểu biết, tạo lập tình cảm và lòng tin đối với các chuẩn mực pháp luật, từ đó hình thành hành vi ứng xử hợp pháp. Khi các chủ thể có kiến thức pháp luật đầy đủ, tâm lý pháp luật đúng đắn sẽ hình thành động cơ và hành vi pháp luật hợp pháp, thái độ tuân thủ pháp luật nghiêm minh. Thực hiện pháp luật đối với người nghèo sẽ giúp các chủ thể nhận thức đầy đủ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình, đồng thời biến chúng thành hành vi thực tế, hợp pháp; góp phần quan trọng vào phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng và hình thành thói quen, ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật; từng bước hình thành nếp sống, làm việc theo Hiến pháp, pháp luật.
Góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của người nghèo và các chủ thể khác.Thực hiện pháp luật đối với người nghèo giúp người nghèo hiểu biết sâu sắc và toàn diện hơn về quá trình vận động, phát triển của các quan hệ xã hội; cung cấp thông tin về sự vật, hiện tượng; giúp các chủ thể nhận thức được những giá trị chuẩn mực chung được nhân loại tiến bộ thừa nhận. Qua đó, các chủ thể có điều kiện tiếp cận và kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và văn minh nhân loại; loại trừ những phong tục, tập quán lạc hậu; từ đó xây dựng và bồi dưỡng năng lực làm chủ, góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần.
4. Nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật đối với người nghèo
Để nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật đối với người nghèo, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung vào một số biện pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật đối với người nghèo như: khái niệm, đặc trưng, vai trò, nội dung, hình thức, nguyên tắc, các biện pháp bảo đảm thực hiện. Có như vậy, chúng ta mới có thể nhìn nhận khách quan và toàn diện về thực hiện pháp luật đối với người nghèo để phân biệt nó với thực hiện pháp luật đối với các đối tượng khác cũng như thực hiện pháp luật trong từng lĩnh vực, địa bàn cụ thể.
Thứ hai, cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ hơn thực trạng thực hiện pháp luật đối với người nghèo ở Việt Nam và các nước khác để có thể so sánh, xác định những điểm tương đồng và khác biệt; đồng thời phân tích, làm rõ hơn xu hướng phát triển của thực hiện pháp luật đối với người nghèo trong những năm tới đây; qua đó tìm kiếm mô hình lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật đối với người nghèo ở Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật nói chung và đối với người nghèo nói riêng, từ đó tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về vấn đề này. Cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ hơn những luận cứ khoa học và thực tiễn của việc ban hành Chiến lược tổ chức thực hiện pháp luật ở Việt Nam từ nay đến năm 2020 và ban hành Luật về Thi hành pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật đối với người nghèo nói riêng. Sớm hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật; củng cố, kiện toàn mạng lưới làm công tác thực hiện pháp luật đối với người nghèo và mạng lưới tổ chức hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo thực hiện pháp luật; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, quản lý nhà nước đối với công tác này để đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN./.
 

 


[1] Sở Khoa học và Công nghệ Đồng Nai, Phạm Văn Sáng, Ngô Quang Minh, Bùi Văn Huyền, Nguyễn Anh Dũng, (2008), Lý thuyết và mô hình an sinh xã hội (phân tích thực tiễn ở Đồng Nai). Nxb Chính trị quốc gia,H., tr.308-309.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 19(204), tháng 10/2011)


Thống kê truy cập

33019022

Tổng truy cập