Những vấn đề cần khắc phục trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội

01/09/2011

TS. BÙI NGỌC THANH

Nguyên Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội

 
1. Về khái niệm
Có lẽ, khái niệm “tăng trưởng kinh tế” thì không cần phải nhắc lại, nhưng về “công bằng xã hội” thì phải thống nhất tương đối về cách hiểu, trước khi bàn đến những vấn đề cần khắc phục về việc giải quyết mối quan hệ giữa chúng. Vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về công bằng xã hội qua các thời đại khác nhau, nhưng chúng ta chỉ nên bàn đến công bằng xã hội trong thời đại chúng ta, mà chủ yếu là hiện nay.  
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư, “Công bằng xã hội là phương thức đúng đắn nhất để thỏa mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân, xuất phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Về nguyên tắc chưa thể có sự công bằng nào được coi là tuyệt đối trong chừng mực mà mâu thuẫn giữa nhu cầu của con người và khả năng hiện thực của xã hội còn chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi thời đại lại có những đòi hỏi riêng về sự công bằng xã hội”[1].Tiếp đó, các tác giả Từ điển cũng chỉ ra rằng: hiện nay, công bằng xã hội đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhân dân. Những mục tiêu để đảm bảo công bằng xã hội là vô cùng lớn, trong đó tập trung vào những điểm chính yếu như phải xử lý tốt mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân, xóa bỏ mọi hình thức đặc quyền, đặc lợi, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Phải có các chính sách và cơ chế điều tiết nguồn thu nhập, bảo đảm sự công bằng trong phân phối sản phẩm xã hội. Xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong xã hội, mỗi người lao động đều có quyền giám sát, kiểm tra mọi hoạt động kinh tế, xã hội, phân phối sản phẩm và phúc lợi.
     Còn theo các tác giả của đề tài khoa học KHXH.03.06 về Quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng thì “Công bằng xã hội là một giá trị định hướng để con người thỏa mãn những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần trong mối quan hệ phân phối sản phẩm xã hội tương đối hợp lý giữa các cá nhân và nhóm xã hội, phù hợp với sự cống hiến của mỗi người và với khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định”[2].
     Hai khái niệm nói trên, về nội dung là tương đồng với nhau. Tuy nhiên, để làm rõ thêm khái niệm công bằng, các tác giả đề tài khoa học KHXH.03.06 còn đề cập đến một khái niệm đối nghịch với công bằng là bất công. Có thể chia bất công làm ba loại: bất công tự nhiên, bất công tạm thời và bất công phi lý.
     Bất công tự nhiên có thể ví dụ như cùng sống trong một đất nước nhưng có người phải sinh sống ở miền núi, vùng sâu, vùng cao nên gặp nhiều khó khăn; còn người sống ở đồng bằng, nhất là ở thành thị thì thuận lợi hơn. Hoặc cũng là con người nhưng có người sinh ra bị tật nguyền, khả năng lao động, trí tuệ kém hơn người bình thường… Đối với loại bất công tự nhiên, hướng lâu dài là dựa trên sự phát triển kinh tế ngày càng cao của xã hội mà giảm bớt, thu hẹp sự bất công; trước mắt phải có chính sách hợp lý để bù đắp những thiệt thòi do những bất công này gây ra.
     Bất công tạm thời (nhưng thời gian tồn tại cũng không ngắn) phải chấp nhận để đi lên. Ví dụ, chúng ta phấn đấu cho một xã hội Dân giàu, Nước mạnh nhưng không thể cùng một lúc mọi người, mọi nhà đều giàu lên cả, mà như Đảng ta đã chỉ rõ trong Đại hội giữa nhiệm kỳ khóa VII, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Hay như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Làm cho người nghèo thì đủ ăn/Người đủ ăn thì khá giàu/Người khá giàu thì giàu thêm. Hiện nay, sự phân hóa giàu nghèo chưa thể xóa ngay được, nhưng phải hạn chế với khả năng cao nhất có thể làm được, hết sức tránh tình trạng “kẻ ăn không hết, người lần không ra”. Chỉ có thể chấp nhận sự giàu có do sức lao động, do trí tuệ và theo quy định của pháp luật, đó cũng là sự làm giàu có lợi cho đất nước cần được khuyến khích, động viên.
     Loại bất công phi lý và cũng là bất công phi pháp, đó là tất cả những bất công hoàn toàn đi ngược lại lợi ích của sự phát triển lành mạnh của xã hội, làm cho xã hội biến dạng và suy đồi đạo đức. Làm giàu phi pháp đang là một bất công phi lý nổi lên với hai loại đối tượng. Đối tượng thứ nhất là bọn buôn gian, bán lận, đầu cơ, lừa đảo. Đối tượng thứ hai là một số kẻ dựa vào quyền lực để tổ chức trao đổi, mua bán chức tước, quyền lực (phát sinh những thói hư, tật xấu: chạy chức, chạy quyền, chạy tiền, chạy tội, chạy bằng cấp; nay lại thêm chạy tuổi). Những bất công phi lý, phi pháp này phải bị xóa bỏ càng sớm càng tốt, càng triệt để càng hay.
2. Quan điểm của Đảng về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
     Quan điểm của Đảng ta, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đến Đại hội XI mới đây đã được bổ sung và phát triển ngày càng hoàn chỉnh, có thể tóm tắt như sau:
- Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay từ đầu và trong suốt quá trình thực hiện các kế hoạch phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, cả ở khâu phân phối kết quả sản xuất; tạo điều kiện để mọi người có cơ hội phát triển và phát huy tốt năng lực của mình.
- Sử dụng nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; kết hợp phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực, phân phối thông qua phúc lợi xã hội; thực hiện điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi hợp pháp của người lao động.
- Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi đôi với việc tích cực xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển và mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư.
- Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; uống nước, nhớ nguồn, đền ơn, đáp nghĩa, nhân hậu, thủy chung.
- Các chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hóa; trong đó Nhà nước đóng vai trò nòng cốt; động viên toàn dân, các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân, cộng đồng quốc tế tham gia giải quyết các vấn đề xã hội.
 - Mới đây nhất, Văn kiện Đại hội XI đã khẳng định lại một lần nữa rằng: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hộitrong từng bước và từng chính sách phát triển là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập; khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, tiền công, trợ cấp xã hội phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo đảm an sinh xã hội; tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương. Tập trung triển khai có hiệu quả chương trình xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; huy động mọi nguồn lực xã hội cùng Nhà nước chăm lo tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần cho những người và gia đình có công với cách mạng. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em…”[3]. Khi tổng kết 20 năm công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nói rõ mối quan hệ gắn bó giữa kinh tế và công bằng xã hội như sau,“…thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”[4].
3. Công bằng xã hội qua kết quả thực hiện một số chính sách xã hội chủ yếu
    - Chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình: Theo tính toán của các nhà khoa học về dân số, thì nếu Đảng và Nhà nước ta không sớm có chính sách dân số đúng đắn ngay từ đầu những năm 60 của thế kỷ trước, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII tháng 01/1993 (nếu cứ để mỗi cặp vợ chồng có 4 đến 6 con như trước chiến tranh), thì dân số Việt Nam hiện nay đã vào khoảng 112 triệu người (chứ không phải 87,3 triệu như con số thống kê phục vụ cuộc bầu cử đại biểu dân cử bốn cấp vừa qua). Chúng ta thử hình dung xem các khó khăn lúc này khi phải lo toan cuộc sống công bằng mọi mặt cho thêm gần 25 triệu dân nữa (trong hoàn cảnh suy thoái kinh tế vừa mới tạm qua đi nhưng các “di chứng” thì còn nặng nề, đặc biệt là các cơn “bão giá” vẫn quần đi, đảo lại và nhiều khó khăn, bức xúc khác). Thành tựu to lớn về dân số là từ sau chiến tranh, Nhà nước đã điều hành kiên quyết trên cơ sở đường lối của Đảng để giữ cho được quy mô dân số tương đối phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của một đất nước vừa ra khỏi chiến tranh. “Sau 20 năm (1990-2010), tổng sản phẩm trong nước (GDP) đã gấp 4,12 lần nhưng quy mô dân số tăng gấp 1,32 lần, nên GDP bình quân đầu người tăng gấp 3,13 lần. Nếu so sánh với phương án dự báo dân số là 104,4 triệu người thì GDP bình quân đầu người năm 2010 chỉ tăng gấp 2,57 lần so với năm 1990. Như vậy, kết quả Chương trình mục tiêu quốc gia trong 20 năm qua đã trực tiếp làm tăng GDP đầu người, bình quân tăng mỗi năm 2%”[5]. Vì vậy có thể nói, thành tựu về dân số đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc đổi mới.
- Chính sách tạo việc làm: Trong 5 năm (2006-2010), bằng nhiều biện pháp tích cực, Nhà nước đã tạo được việc làm cho 8,055 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5%. Riêng quỹ việc làm trung ương và địa phương hàng năm đã tạo việc làm cho 250.000 - 300.000 lao động và trong 5 năm là 1,5 triệu lao động. Đã có 406.000 lao động được ra nước ngoài làm việc (ở 40 nước hoặc vùng lãnh thổ); hàng năm đã chuyển về nước khoảng 1,8 tỷ đô la Mỹ.
- Chính sách xóa đói, giảm nghèo cũng đem lại kết quả khả quan, dự tính đến hết 2010 tỷ lệ hộ nghèo cả nước chỉ còn 9,45%. Trong 5 năm (2006-2010) có khoảng 6,2 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi với mức bình quân 7-8 triệu đồng/lượt/hộ. Đến 2010, khoảng 15 vạn lao động thuộc hộ nghèo được đào tạo nghề miễn phí, trong đó hơn 60% đã tìm hoặc tạo được việc làm. Mô hình hộ giảm nghèo đã thu hút được 27.566 hộ ở 35 tỉnh tham gia. Sau mỗi năm thực hiện mô hình, số hộ nghèo đã tăng thêm được việc làm khoảng 15% ngày công, tăng thu nhập từ 20 đến 25% và 15% số hộ tham gia thoát nghèo.
 - Thu nhập của dân cư - tính chung cả nước từ năm 2002 đến năm 2008, là những năm Tổng cục Thống kê có điều tra - tuy chưa tính yếu tố trượt giá, nhưng nhìn chung, thu nhập danh nghĩa có tăng khá, tới 2,79 lần (từ 356,1 nghìn đồng lên 995,2 nghìn đồng/khẩu/tháng), trong đó thành thị tăng 2,58 lần (từ 622,1 nghìn đồng lên 1.605,2 nghìn đồng), nông thôn tăng 2,77 lần (từ 275,1 nghìn đồng lên 762,2 nghìn đồng). Về tiền lương của người lao động, nếu tính từ năm 1993 là năm đầu tiên áp dụng mức lương tối thiểu theo tiến trình cải cách tiền lương, thì Nhà nước đã điều chỉnh 10 lần. Mức lương tối thiểu chung năm 2011 so với năm 2005 đã tăng 2,37 lần (từ 350 nghìn đồng lên 830 nghìn đồng/người/tháng). So với mười năm trước, mức sống của người dân đã tăng lên rõ rệt. Những năm gần đây, khi nhiều vùng gặp thiên tai lớn, kinh tế cả nước bị suy thoái, tăng trưởng thấp, Nhà nước đã cố gắng giải quyết từng bước tiền lương và thu nhập, giảm bớt phần nào khó khăn về đời sống của nhân dân.
- Các chính sách ưu đãi người có công (liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh, bà mẹ Việt Nam anh hùng, người tham gia kháng chiến, người bị tù đầy…), chính sách an sinh xã hội nói chung đều có những bước cải thiện đáng trân trọng. Tất cả những nỗ lực đó đều nhằm mục tiêu bảo đảm cho công bằng xã hội có bước tiến triển...
4. Những vấn đề cần khắc phục trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
     Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, nhưng trên thực tế còn không ít các vấn đề khó khăn, phức tạp, cả khách quan và chủ quan.

a. Những vấn đề chung:

 

- Trước hết là quy mô nền kinh tế của nước ta vẫn rất nhỏ bé so với dân số. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đến cuối năm 2010 tuy đã đạt 101,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 2,5 lần so với các năm 1992-1997 (nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX), GDP bình quân đầu người đã đạt 1.168 USD, nhưng kinh tế nước ta vẫn là một nền kinh tế eo hẹp. Nước ta vừa ra khỏi nhóm các nước kém phát triển, thu nhập thấp, gia nhập nhóm các nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, nhưng vẫn là một nước “cận nghèo”, mà cận nghèo thì khi gặp một vài sự kiện bất thường sẽ rất dễ rơi xuống hạng nghèo. Do quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé nên “lực bất tòng tâm”. Chúng ta muốn đầu tư thỏa đáng cho vùng núi, vùng sâu, vùng xa để đồng bào cả nước có cuộc sống ấm no, hạnh phúc như nhau, bảo đảm công bằng xã hội, nhưng chưa thể một sớm một chiều mà thực hiện được. Và nhiều việc khác của cả nước cũng còn phải cân lên, nhắc xuống… Không có cách nào khác là phải nhanh chóng phát triển, mở rộng quy mô nền kinh tế nhanh hơn, lớn hơn và bền vững. Đây là bài toán tổng thể, cả nước, từng địa phương, từng ngành phải cùng Nhà nước chung lo giải quyết.
- Năng lực quản lý ở tất cả các cấp, các ngành đều không theo kịp yêu cầu phát triển, thể hiện ở các mặt: dự báo chiến lược yếu kém; quy hoạch, kế hoạch (nhất là về đất đai) không chính xác, làm đi làm lại nhiều lần mà vẫn chưa ổn; làm thủy điện và xử lý rừng ở miền Trung-Tây Nguyên để cải thiện đời sống cho đồng bào, ý đồ thì tốt, nhưng thực thi thì có nơi trước mắt hậu quả xấu; tiền của, sản phẩm làm ra với khối lượng và giá trị lớn, nhưng do quản lý kém nên thất thoát, mất mát rất lớn (tài sản, tiền của của Nhà nước “như có trò ảo thuật” biến thành của riêng cá nhân hoặc nhóm người, nhiều kẻ có tài sản kếch xù phi lý, phi pháp, không giải thích được nguồn gốc); trong hoạt động quản lý, do không nắm chắc tình hình thực tế nên việc điều hành luôn mắc mớ, trục trặc (chỉ nói một việc cụ thể như chia tiền, chia gạo cho người nghèo ăn tết, chống đói mà đã để xảy ra không biết bao nhiêu sự cố).
- Chưa làm sáng tỏ tính độc lập tương đối của mỗi nhánh quyền lực và sự chế ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực, thậm chí chưa có và chưa coi trọng cơ chế kiểm soát quyền lực, nên quyền lực bị lợi dụng, thậm chí bị sử dụng không đúng. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp trong quá trình thực thi quyền lực, nhưng cơ chế nào để bảo đảm cho quyền lực luôn luôn được thực hiện đúng thì chưa rõ. Vì thế, nhiều vụ việc bắt bớ oan, xét xử sai, dẫn đến khiếu kiện kéo dài không giải quyết dứt điểm được. Đây là vấn đề mà trong lần sửa đổi Hiến pháp sắp tới phải xử lý để bảo đảm quyền lực luôn được sử dụng đúng đắn và bảo đảm công bằng xã hội.
     Nói một vài vấn đề chung như trên để thấy rằng, trong điều kiện kinh tế chưa mạnh, quản lý chưa tốt, quyền lực nhà nước có lúc, có nơi bị sử dụng không đúng thì rất khó bảo đảm được sự tiến bộ trong công bằng xã hội.  

b. Một vài vấn đề cụ thể

 

- Kinh tế là điều kiện vật chất để thực thi các chính sách xã hội, bảo đảm công bằng xã hội. Tài sản, của cải của Nhà nước, của tập thể làm ra phải được bảo toàn nguyên vẹn (không bị mất mát, tổn thất, nhất là khi đất nước còn nghèo). Bởi vậy, phải triệt để chống tham ô, lãng phí, tham nhũng. Để công cuộc này có hiệu quả thì có hàng loạt công việc cụ thể phải được tiến hành. Một là, nếu chưa có cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực toàn diện thì những người nắm quyền lực ở tất cả các cấp, các ngành, các vị trí công việc, hãy vì nước, vì dân, “vì sự liêm sỉ” cố gắng sử dụng cho đúng quyền lực (không lợi dụng quyền lực). Chúng ta đều biết, suốt   25 năm nắm giữ quyền lực trọng trách, nhưng tuyệt đối không khi nào Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng quyền lực để mưu cầu một lợi ích gì - dù là nhỏ nhoi - cho cá nhân, cho dòng họ, cho địa phương. Bây giờ, chúng ta chỉ cần học được bài học này ở Bác thôi thì tham nhũng, lãng phí, tổn thất của cải của Nhà nước và nhân dân sẽ giảm đi rất lớn, điều kiện cho công bằng xã hội sẽ khá lên nhiều, lòng dân sẽ rất yên ổn và coi như xóa được một trong bốn nguy cơ. Hai là, phải nâng cao trình độ quản lý cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Đây là một chuyên đề lớn, phải bàn nhiều, nhưng ở đây chỉ xin nói một vài điểm. Nếu mỗi khóa công tác, ban lãnh đạo của mỗi tổ chức đều muốn có một cái gọi là “dấu ấn” thì quy hoạch, kế hoạch, chiến lược, thậm chí phương pháp công tác… sẽ luôn luôn bị đảo lộn. Chúng ta đã nhận thức được, lãng phí lớn nhất là chủ trương đầu tư không đúng, “sai một li đi ngàn dặm”. Người quản lý ở tầm vĩ mô, muốn nâng cao trình độ quản lý chí ít phải có bốn loại kiến thức tốt. Đó là kiến thức chuyên môn, kiến thức pháp luật, phương pháp quản lý và trình độ ngoại ngữ đạt mức “tự túc” được. Quản lý cơ sở xã, phường đang là vấn đề rất lớn và cấp bách. Mọi công việc từ các ngành trung ương đều dồn xuống cấp cơ sở, nhưng trình độ cán bộ cơ sở rất đáng ngại (vừa qua có tình trạng tìm ứng cử viên đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã khó hơn là tìm ứng cử viên đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trên). Vì vậy chương trình đào tạo nên ưu tiên tối đa cho cấp xã với trình độ hiểu biết tổng hợp (kinh tế - tài chính, pháp luật, dân vận, phương pháp quản lý điều hành…). Trả lương cho cán bộ cấp xã nên kết hợp giữa trình độ đào tạo với chức danh và cấp quản lý (không nên chỉ theo cấp quản lý). Cần lưu ý, cấp cơ sở là cấp gắn bó sâu sát với lợi ích và sự công bằng giữa các công dân.
- Thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa các tầng lớp dân cư là trực tiếp tác động đến công bằng xã hội. Theo các cuộc điều tra của Tổng cục Thống kê, năm 2008, mức sống của người dân thành thị cao gấp 2,1 lần so với người dân nông thôn; mức sống của những người ở nhóm 5 cao gần gấp 9 lần so với những người ở nhóm 1 (nhóm chủ yếu là nông dân), trong khi ở bất kỳ giai đoạn cách mạng nào nông dân vẫn là thành phần đóng góp lớn nhất, hy sinh nhiều nhất. Bởi vậy, bằng mọi biện pháp phải đầu tư đầy đủ để thực hiện cho được chương trình xây dựng nông thôn mới. Nông dân phải được hưởng xứng đáng các thành quả của tăng trưởng kinh tế (đang có ý kiến cho rằng, hầu như nông dân không được hưởng thành quả tăng trưởng kinh tế mà còn phải hy sinh cho tăng trưởng).  
     Đối với người lao động làm công ăn lương, Nhà nước phải cải cách cơ bản tiền lương trong khu vực quản lý nhà nước. Không thể để người làm quản lý nhà nước hưởng mức lương tối thiểu thấp nhất trong các mức lương tối thiểu hiện hành. Điều 56 Bộ luật Lao động đã quy định “Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng, mức lương tối thiểu ngành cho từng thời kỳ…”. Theo chúng tôi, quản lý nhà nước là một lĩnh vực có độ phức tạp cao, tương đối độc lập nên phải có mức lương tối thiểu riêng, cao hơn mức lương tối thiểu của bất cứ lĩnh vực nào. Hiện nay có 8 mức lương tối thiểu, cao nhất là 1.550.000 đồng, thấp nhất là 830.000 đồng. Các cán bộ của các cơ quan Đảng, Nhà nước đang hưởng mức lương tối thiểu 830.000 đồng. Một nguyên thủ quốc gia, một tháng chỉ có mức lương 10.790.000 đồng (và hầu như không có thưởng gì), nhưng một giám đốc một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại có lương 20.150.000 đồng/tháng (chưa kể các loại tiền thưởng). Một người lo đủ thứ việc của một quốc gia, còn một người chỉ phải lo công việc của một đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mà lương danh nghĩa cách biệt như vậy, thử hỏi có công bằng không?
    - Tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ ở cơ sở. Việc đã quyết và quyết đúng thì phải chỉ đạo thực hiện cho được. Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: phát huy dân chủ, bảo đảm thật sự quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà  nước. Bộ Chính trị đã có chỉ thị số 30-CT/TƯ về xây dựng quy chế dân chủ cơ sở; Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc thực hiện quy chế dân chủ; Chính phủ đã ban hành các Nghị định về thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp nhà nước. Quy chế đã quy định rất rõ ràng và đúng đắn ba loại việc: một là, những việc cần thông báo để dân biết; hai là, những việc nhân dân phải bàn và quyết định trực tiếp; ba là, những việc nhân dân tham gia ý kiến để Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định. Ngoài ra, quy chế còn quy định những việc nhân dân giám sát, kiểm tra và nhân dân xây dựng cộng đồng dân cư thôn, làng, ấp, bản. Quy định thì rất hợp tình, hợp lý, nhưng việc chỉ đạo thực hiện thì ít hiệu quả. Ba việc nói trên, nhất là những việc dân phải bàn và trực tiếp quyết định thì rất ít nơi thực hiện, nhất là việc lấy đất sản xuất của dân chuyển sang mục đích khác. Nếu Nhà nước, chính quyền cấp trên chỉ đạo quyết liệt, thực hiện tốt các quy định này thì thực sự người dân đã có quyền làm chủ, công bằng xã hội được phát huy. Bởi vậy Nhà nước, chính quyền các cấp nên đầu tư thời gian, công sức chỉ đạo thực hiện cho được quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là vấn đề hết sức quan trọng để bảo đảm công bằng xã hội./.
 
                                                                       
 

 


[1] Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 1, H., 1995, tr 580 -581.
 
[2] Quản lý sự phát triển trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng, NXB Chính trị Quốc gia, H., 2001, tr 31-35.
 
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, H., 2011, tr 43-44.
 
[4] Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), NXB Chính trị Quốc gia, H., 2005, tr 76.
 
[5] Viện Nghiên cứu Lập pháp, Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số - Kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2006-2010: Một số kết quả đạt được và những vấn đề cấp bách đặt ra cần giải quyết, Tài liệu cung cấp cho đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, tháng 10/2010.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 17(202), tháng 09/2011)


Thống kê truy cập

33019162

Tổng truy cập