Đề án 30 và gần 30.000 tỷ đồng tiết kiệm mỗi năm

01/12/2010

TS. NGUYỄN VĂN CƯỜNG

Phó Vụ trưởng Vụ Địa phương, Văn phòng Chính phủ

TS. NGUYỄN THIỆU NHIÊN

Vụ Địa phương, Văn phòng Chính phủ.

Ngày nay, các cụm từ như “cải cách Chính phủ”, “cải cách hành chính”, “cải cách thể chế”… đang trở nên quen thuộc tại nhiều quốc gia trên thế giới. Mục đích của các cuộc cải cách này là nâng cao chất lượng dịch vụ công và hiệu suất hoạt động bộ máy hành chính quốc gia, nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Tại Việt Nam, theo nhận định của nhiều chuyên gia, Đề án 30 đã trở thành bước đột phá đầy ấn tượng của Chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, tiết kiệm được cho người dân và doanh nghiệp khoảng 30.000 tỷ đồng mỗi năm.
 Untitled_782.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Cải cách hành chính ở một số quốc gia
Từ cuối thế kỷ XX đến nay, tại nhiều quốc gia phát triển, quá trình toàn cầu hoá, cuộc cách mạng công nghệ thông tin và internet... đã tác động không nhỏ đến tư duy lãnh đạo của những người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ, qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và công tác điều hành, chỉ đạo bộ máy chính quyền tại các cấp.
Cùng với toàn cầu hóa, việc năng suất sản xuất hàng hóa ngày càng tăng và công tác điều hành quản trị khối doanh nghiệp tư nhân ngày một hiệu quả và linh hoạt đã tạo áp lực mạnh mẽ buộc hệ thống hành chính công phải tự đổi mới mình. Toàn cầu hóa và kinh tế thị trường đòi hỏi nền hành chính phải có những cải cách phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường, đó là: cạnh tranh, cung - cầu, dựa trên các tiêu chí về năng suất - chất lượng - hiệu quả.
Nhiều quốc gia đã xem cải cách hành chính là nhu cầu tất yếu của nền kinh tế, một mũi đột phá nhằm thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy mạnh dân chủ và góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người dân. Một số nước phát triển tại Tây Âu, Bắc Mỹ và ngay tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã có những cải cách quan trọng hệ thống hành chính theo hướng tinh gọn hệ thống cả về bộ máy, nhân sự lẫn ngân sách, đẩy mạnh thuê khoán, hợp đồng bên ngoài... nhằm nâng cao tính hiệu quả, minh bạch và chất lượng dịch vụ. Chúng ta cùng điểm qua các kinh nghiệm cải cách hành chính tại một số nước trong khu vực như Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản.  
Tại Hàn Quốc, cải cách được thực hiện trên nguyên tắc giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước và giảm chi phí cho người dân, tập trung vào các lĩnh vực: quản lý hành chính, nhân sự, quản lý tài chính; quản lý doanh nghiệp công và quản lý lao động. Phân cấp là vấn đề mấu chốt nhất trong cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đưa yếu tố cạnh tranh vào chế độ tuyển dụng theo nguyên tắc minh bạch, công khai; ban hành cơ chế đánh giá công chức đi đôi với điều chỉnh chế độ tiền lương; đã xây dựng được mạng lưới hạ tầng thông tin thuộc loại tốt nhất trên thế giới, cung cấp dịch vụ công thông qua Internet và điện thoại di động.
Singapore tiến hành cải cách trên nguyên tắc coi người dân và tổ chức như khách hàng sử dụng dịch vụ công; đưa vào áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 cho bộ máy công vụ, vừa nhằm cải tiến lề lối làm việc, vừa là công cụ đánh giá, phân loại công chức; đưa tinh thần "doanh nghiệp" vào hoạt động của bộ máy hành chính, lấy hiệu quả làm thước đo; cải cách triệt để các thủ tục hành chính… rất chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức. Singapore là một trong những nước dẫn đầu về tốc độ phát triển “chính phủ điện tử” và đang bước sang giai đoạn phát triển “công dân điện tử".
Từ năm 1978 đến nay, Trung Quốc đã tiến hành sáu cuộc cải cách hành chính với quy mô lớn, góp phần quan trọng đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Trung Quốc ngày càng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) cả về hành pháp, lập pháp và tư pháp. Bộ máy tinh giản theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả. Năm 1981, Chính phủ có 100 cơ quan trực thuộc, đến năm 2008 giảm còn 27 cơ quan, số lượng cán bộ công chức giảm 1,15 triệu người; Đã thành lập lập cơ quan quản lý công sản, triệt để tách chức năng quản lý hành chính của cơ quan công quyền với quản lý của các doanh nghiệp nhà nước... Chương trình tin học hóa và xây dựng chính phủ điện tử được quan tâm triển khai và thu được nhiều kết quả tích cực. Chính quyền trung ương chỉ tập trung quản lý bảy lĩnh vực là: quốc phòng, ngoại giao, chính sách tài chính, ngân hàng, điện lực, thông tin, đường sắt. Các lĩnh vực còn lại thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương…
Tại Nhật Bản, cải cách hành chính được tiến hành một cách tích cực. Bộ máy Chính phủ được thu gọn đáng kể, tách cơ quan soạn thảo chính sách và lập kế hoạch khỏi cơ quan thực hiện chính sách, hình thành hệ thống các tổ chức đánh giá việc hoạch định và thực thi các chính sách. Giảm đáng kể số lượng các đơn vị bên trong các bộ. Chuyển một số cơ quan của Chính phủ thành cơ quan hành chính độc lập hoặc tư nhân hóa. Số công chức làm việc tại các cơ quan hành chính giảm hơn 300.000 người và tiếp tục giảm.
Như vậy, tùy thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội và trình độ phát triển… mà mỗi nước có lộ trình cải cách khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các Chính phủ đều coi cải cách hành chính là một công việc thường xuyên và cấp thiết, vì đây là nhu cầu thực tiễn, khách quan của một xã hội phát triển. Có thể khẳng định rằng, cơ chế quản lý hành chính tập trung, quan liêu, bao cấp ngày càng bộc lộ nhiều yếu điểm, hạn chế, kém hiệu quả và lỗi thời, duy trì cơ chế này trong xu thế hội nhập và phát triển của thế giới là kìm hãm phát triển, gây tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng xấu đến việc huy động nội lực và thu hút đầu tư nước ngoài, tự đánh mất lợi thế khi tham gia quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
2. Đề án 30 - bước đột phá trong cải cách hành chính tại Việt Nam
Từ năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ, đời sống người dân trên mọi miền đất nước từng bước được nâng cao, an sinh xã hội từng bước được bảo đảm. Cải cách được tiến hành đồng bộ trên các lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và thu được kết quả tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn tồn tại rất nhiều thách thức cần phải đối phó trong giai đoạn tiếp theo của công cuộc đổi mới, trong đó nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đã tồn tại từ rất lâu, cũng như hàng loạt vấn đề mới phát sinh từ quá trình mở cửa nền kinh tế và chuyển dần từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường cần phải được giải quyết một cách tích cực và có hiệu quả. Mặt khác, vì môi trường đầu tư tại một số nước láng giềng trong khu vực đang thay đổi dẫn đến việc số nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam ngày một nhiều, nhất là sau khi nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) khiến cho nhu cầu xây dựng một nền hành chính công năng động, hiệu quả ngày càng trở nên cấp thiết.
Lối tư duy tập trung quan liêu, bao cấp trong toàn bộ hệ thống suốt một thời gian dài đã để lại hệ quả tất yếu, đó là một nền hành chính nặng nề, bảo thủ, kém năng động, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, trong đó điển hình ở những điểm sau:
- Chưa có được hệ thống thể chế đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và dân chủ hóa đời sống xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và khoa học công nghệ ngày càng phát triển.
- Cơ cấu bộ máy hành chính cồng kềnh, đồ sộ, nhiều tầng cấp trung gian dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp về chức năng, thẩm quyền và sự trì trệ, quan liêu là hậu quả tất yếu không thể tránh khỏi.
- Bộ máy hành chính nhà nước ôm đồm quá nhiều việc thuộc lĩnh vực quản lý sản xuất, kinh doanh và hoạt động sự nghiệp dịch vụ, chưa tập trung vào thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước và hoạch định chính sách vĩ mô.
- Phương thức lề lối làm việc của cơ quan hành chính và phong cách thực thi công vụ của cán bộ, công chức mang nặng dấu ấn của cơ chế “xin - cho”, phức tạp, rườm rà, gây phiền toái cho doanh nghiệp và người dân... năng suất lao động, hiệu quả công tác thấp, trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Quản lý tài chính công còn kém hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí không nhỏ.
Từ các nhận định trên, ta thấy, nếu không cải cách thì nền hành chính quan liêu, bao cấp sẽ trở thành lực cản lớn trong tiến trình phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam.
Cải cách nền hành chính tại Việt Nam cần được tiến hành một cách đồng bộ và quyết liệt, bao gồm: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công. Trong đó, Cải cách thủ tục hành chính được Chính phủ xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm, là khâu đột phá của Chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, vì thủ tục hành chính là điểm giao thoa cụ thể nhất giữa hoạt động của bộ máy nhà nước với mọi mặt đời sống xã hội và là khu vực gây nhiều bức xúc, mệt mỏi, khó giải tỏa cho người dân và doanh nghiệp.
Ngày 10/1/2007, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 (sau đây gọi tắt là Đề án 30) tại Quyết định số 30/QĐ-TTg, tiếp đó, phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án 30 tại Quyết định số 07/QĐ-TTg ngày 04/1/2008.
Mục tiêu chính của Đề án 30 là bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai, minh bạch của thủ tục hành chính; tạo sự thuận lợi cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp trong tiếp cận và thực hiện thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy hành chính và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội...
Đề án được triển khai sâu rộng trên phạm vi toàn quốc, tại bốn cấp chính quyền với tất cả các thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân và được chia làm ba giai đoạn: giai đoạn 1 thống kê thủ tục hành chính (từ tháng 8/2008 đến tháng 9/2009); giai đoạn 2 rà soát thủ tục hành chính (từ tháng 9/2009 đến hết tháng 5/2010); giai đoạn 3 thực thi các phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính (trong năm 2010). 88 Tổ công tác đã được thành lập bao gồm Tổ công tác chuyên trách của Thủ tướng Chính phủ do Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ là Tổ trưởng và 87 Tổ công tác tại 24 Bộ, ngành và 63 địa phương trong cả nước. Tháng 10/2009 Thủ tướng Chính phủ công bố Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính tại bốn cấp chính quyền và công khai trên mạng internet toàn cầu, với trên 5.700 thủ tục hành chính, trên 9.000 văn bản quy định và trên 100.000 biểu mẫu thống kê thủ tục hành chính được thực hiện tại bốn cấp chính quyền. Kết thúc giai đoạn 2 của Đề án, các Bộ, ngành và địa phương đã hoàn thành việc tự rà soát. Theo báo cáo của các Bộ, ngành, đã có hơn 5.500 thủ tục hành chính được rà soát, trong đó, có 453 thủ tục được kiến nghị bãi bỏ, hủy bỏ, có 3.749 thủ tục được đề nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng tạo thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp, có 288 thủ tục được đề nghị thay thế. Theo tính toán của các Bộ, ngành, sau khi cắt giảm 30% chi phí tuân thủ thủ tục hành chính đã tiết kiệm cho người dân và doanh nghiệp chi phí tương đương 30.000 tỷ đồng/năm... Hiện Tổ công tác chuyên trách cùng với hơn 100 cán bộ biệt phái của các Bộ, ngành, 50 luật sư và 50 chuyên gia đã hoàn thành việc đánh giá độc lập các thủ tục đã được các Bộ, ngành và địa phương rà soát, hoàn chỉnh phương án đơn giản hóa đối với trên 5.000 thủ tục hành chính để các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục hoàn thiện. Tổ đã đăng tải công khai các phương án này lên Trang tin điện tử để đông đảo người dân và doanh nghiệp góp ý kiến trước khi trình Chính phủ xem xét, quyết định trong quý III năm 2010.
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Đề án 30 đã nâng cao khả năng tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính của mỗi cá nhân, tổ chức; tạo điều kiện cho nhân dân giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính... Thành công của Đề án trong việc hợp tác công - tư đã khẳng định tính đúng đắn trong việc huy động người dân và doanh nghiệp tham gia cải cách thủ tục hành chính. Phó trưởng Đoàn giám sát, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội Nguyễn Văn Thuận nhận định “Công tác cải cách thủ tục hành chính qua 10 năm thực hiện, đặc biệt là từ khi triển khai Đề án 30, đã tạo được sự chuyển biến tích cực, đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước, được nhân dân ghi nhận”; nhiều thủ tục hành chính đã được đơn giản hóa, việc thực hiện công khai, minh bạch các yêu cầu về hồ sơ, quy trình giải quyết, lệ phí, lịch làm việc; rút ngắn thời gian giải quyết; những thủ tục rườm rà, chồng chéo, sơ hở, dễ bị lợi dụng, những giấy tờ không cần thiết, không còn phù hợp, gây khó khăn cho doanh nghiệp và công dân đã được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ.
Các kết quả đáng khích lệ qua từng giai đoạn của Đề án 30 được đông đảo các tầng lớp nhân dân và doanh nghiệp trong nước và dư luận quốc tế đánh giá cao, góp phần quan trọng vào việc cải thiện môi trường kinh doanh, mở rộng hội nhập, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thành công bước đầu của Đề án có được là từ sự quan tâm chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tinh thần nghiêm túc, trách nhiệm của lãnh đạo các Bộ, ngành và địa phương; sự tận tâm, tận lực và tinh thần trách nhiệm của cán bộ các Tổ công tác; huy động được sự tham gia rộng rãi của người dân và cộng đồng doanh nghiệp; việc triển khai Đề án được cụ thể hóa thành kế hoạch chi tiết, có lộ trình rõ ràng, gắn với phân công trách nhiệm rõ ràng trên nguyên tắc làm từ trên xuống, đồng bộ ở tất cả các cấp, các ngành dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn chung của Tổ công tác chuyên trách của Thủ tướng Chính phủ.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Đề án, theo báo cáo của Tổ công tác chuyên trách, chất lượng rà soát thủ tục hành chính tại một số Bộ, ngành còn chưa cao, nhiều kiến nghị bãi bỏ, thay thế thủ tục hành chính của các Bộ, ngành về bản chất chỉ là việc ghép cơ học các thủ tục, hoặc bãi bỏ các thủ tục được thống kê sai trước đây; nhiều phương án đơn giản hóa đưa ra thiếu cụ thể, lý do của phương án đơn giản hóa nêu ra còn thiếu sức thuyết phục, chưa cụ thể..., nhiều trường hợp áp dụng định mức chi phí rất cao đối với các thủ tục có phương án đơn giản hóa nhằm tăng tỷ lệ cắt giảm chi phí cho Bộ, ngành mình… Điều này có nguyên nhân từ việc một số đơn vị chịu trách nhiệm rà soát thủ tục hành chính chưa vào cuộc một cách nghiêm túc, còn tư tưởng làm đối phó cho xong; nhiều tổ không có ý kiến độc lập mà chỉ tổng hợp kết quả rà soát; chưa tham mưu cho lãnh đạo của mình phương án rà soát tốt…
Tổng kết lại các giai đoạn thì Đề án 30 được đánh giá là một trong các đề án có thiết kế tốt nhất từ trước đến nay, có phương pháp luận hiện đại với cách tổ chức thực hiện hoàn toàn mới, thiết thực, cụ thể, nghiêm túc, đồng bộ và được thực hiện với quyết tâm chính trị rất cao, đánh dấu bước tiến mới rất đáng kể trong tư duy điều hành, chỉ đạo của Chính phủ.
3. Phát triển Đề án 30 trong thời gian tới
Đề án đã thực hiện được một bước đột phá rất quan trọng đó là rà soát, đánh giá các thủ tục hiện hành, tuy nhiên, đơn giản hóa thủ tục hành chính cũng chỉ là một phần của Cải cách hành chính và phần còn lại, cũng không kém quan trọng, là chọn lộ trình tiếp tục cho chương trình Cải cách hành chính trong tương lai. Trong giai đoạn tiếp theo, cải cách hành chính cần được tiếp tục với các định hướng như:
- Xem cải cách hành chính là nhiệm vụ quan trọng của toàn bộ hệ thống chính trị. Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp cùng các tổ chức chính trị cần quyết liệt hơn trong công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện cải cách hành chính. 
- Xác lập mô hình tổ chức nền hành chính phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn tới, đảm bảo năng lực quản lý của Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng; tạo điều kiện để kinh tế nhiều thành phần phát triển bình đẳng; giải quyết có hiệu quả các vấn đề liên quan đến an sinh xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh... Cải cách hành pháp phải đi đôi với cải cách tư pháp.   
- Không ngừng hoàn thiện bộ máy hành chính, hoàn thiện thể chế hành chính dân chủ - pháp quyền, tạo cơ chế để người dân tham gia ngày càng tích cực vào quá trình quản lý, giám sát hoạt động của bộ máy hành chính.
- Có chế độ công vụ chuyên nghiệp với cơ chế chịu trách nhiệm cá nhân rõ ràng, công khai, minh bạch. Đẩy nhanh tiến độ cải cách tiền lương theo hướng phấn đấu đến năm 2013 (theo lộ trình cải cách dự kiến là năm 2017) “cán bộ, công chức có thể sống được bằng lương”, để bảo đảm ổn định đời sống và nâng cao sức đề kháng của bộ máy với tệ quan liêu, tham nhũng.
- Mạnh dạn áp dụng các phương pháp điều hành, quản trị hiện đại, nâng tầm trình độ quản lý ngang với một số nước phát triển trong khu vực, chú trọng đào tạo nâng cao trình độ của cán bộ, công chức cùng với hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công việc, đưa Chính phủ điện tử vào vận hành một cách hiệu quả...  
- Tiếp tục nghiên cứu, rút kinh nghiệm về tiến trình cải cách hành chính tại các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore… trong đó tập trung nghiên cứu về kinh nghiệm của Trung Quốc, nước có nhiều điểm tương đồng với nước ta như về thể chế chính trị, mô hình phát triển kinh tế - xã hội…
- Xem xét việc thành lập cơ quan phụ trách việc thực hiện cải cách hành chính với thẩm quyền đặc biệt để chỉ đạo, triển khai cải cách. Đứng đầu cơ quan này là Thủ tướng Chính phủ, ngoài ra có sự tham gia của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ...
   Cái cách hành chính trong giai đoạn từ nay đến 2020 gồm rất nhiều nội dung. Đó là Cải cách thể chế hành chính, Cải cách tổ chức bộ máy hành chính, Cải cách tài chính công và tiếp tục thực hiện Cải cách thủ tục hành chính... Tuy nhiên, theo nhận định của một số chuyên gia thì việc tinh giản bộ máy, nâng cao chất lượng, phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, hoàn thiện cơ chế đánh giá chất lượng công việc, chế độ đãi ngộ, khen thưởng và kỷ luật minh bạch, rõ ràng... có tầm quan trọng đặc biệt trong giai đoạn tiếp theo của cải cách.  
Trên cơ sở phân tích, đánh giá cải cách hành chính tại một số nước và ở Việt Nam, cụ thể là qua Đề án 30, bước đầu chúng tôi đưa ra một số nhận định sau:
- Cải cách hành chính đã trở thành một vấn đề mang tính thời sự tại hầu hết các quốc gia. Không chỉ tại các nước phát triển mà ngay tại rất nhiều nước đang phát triển đã xem cải cách hành chính như một nguồn lực góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển dân chủ và mọi mặt đời sống xã hội, góp phần đối phó hiệu quả với những thách thức mới đang xuất hiện.
- Sau gần 20 năm thực hiện, cải cách hành chính ở Việt Nam đã thu được những kết quả đáng khích lệ, đó là: thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính nhà nước đã từng bước hình thành, hoàn thiện theo hướng đồng bộ hơn, phù hợp với nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước đã được thay đổi căn bản từ chỗ chủ yếu sử dụng mệnh lệnh hành chính trong quản lý kinh tế sang tạo khung pháp lý hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Việc phân cấp trong quản lý từng bước được cải thiện, tạo điều kiện cho mỗi cấp, mỗi tổ chức trong hệ thống đề cao quyền hạn, trách nhiệm, phát huy sáng tạo. Hệ thống thủ tục hành chính từng bước được cải cách theo hướng đơn giản hoá, công khai hoá, hiệu quả giải quyết công việc của các cơ quan công quyền nhà nước được nâng cao...
Trong tương lai, cải cách hành chính vẫn là nhiệm vụ cấp bách của toàn bộ hệ thống chính trị và là vấn đề thời sự được cả xã hội quan tâm, vì vậy tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm và nhân rộng mô hình tiên tiến... đối với những kết quả đã đạt được của Đề án 30 là việc làm hết sức cần thiết đối với tất cả các cấp, các Bộ, các ngành và đối với toàn bộ hệ thống chính trị nước ta.
- Để cải cách hành chính trong thời gian tới thu được kết quả tốt đẹp, cần được sự chỉ đạo quyết liệt, sâu sát, toàn diện của Đảng và Nhà nước, phải được đặt trong khuôn khổ các quan điểm và chủ trương, chính sách của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị và cải cách bộ máy nhà nước; phải gắn liền với xây dựng và chỉnh đốn Đảng; gắn liền với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và nền hành chính nói riêng, nhằm giữ vững, phát huy bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam, xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền XHCN. Cải cách hành chính cần được tiếp tục tiến hành một cách đồng bộ, liên tục, toàn diện và sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội./.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 23(184), tháng 12/2010)