Phản biện xã hội: ý nghĩa, cơ chế và điều kiện thực thi

01/02/2010

PGS,TS. BÙI XUÂN ĐỨC

Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam

Phản biện xã hội - mà lâu nay được thể hiện dưới hình thức nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội đóng góp, phê bình, kiến nghị với Đảng và Nhà nước về các vấn đề quốc kế dân sinh - là một trong những biện pháp để mở rộng dân chủ và tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội. Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay đã luôn luôn coi trọng ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân đối với đường lối, chính sách của mình. Trong giai đoạn hiện nay, như là một yêu cầu lôi cuốn nhân dân tham gia mạnh mẽ hơn vào công việc Nhà nước, vấn đề này càng được Đảng và Nhà nước chú trọng và quan tâm lớn. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: “Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”, “Phát huy vai trò và tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”, "Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội", "Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ" 1.
Việc nhận thức đầy đủ để từ đó đưa ra các giải pháp phát huy hơn nữa hoạt động phản biện xã hội trong bối cảnh hiện nay là rất có ý nghĩa. Bài viết này bàn về vấn đề đó.
Untitled_916.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Phản biện xã hội: khái niệm, ý nghĩa
Trong đời sống chính trị của một đất nước, các thiết chế cầm quyền luôn đứng trước nhu cầu là phải lựa chọn, đắn đo cân nhắc trong số rất nhiều các dữ kiện chủ quan và khách quan cũng như các lợi ích của các giai cấp, các nhóm xã hội, dân tộc, quốc tế v.v.. khác nhau để đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời, hợp lý nhất để giải quyết những vấn đề cuộc sống đặt ra. Do vậy, họ cố tranh thủ ý kiến, nhận xét của các tổ chức, cá nhân, xã hội. Các lực lượng xã hội khác, vì lợi ích của mình và lợi ích chung của cộng đồng cũng dưới hình thức này hoặc hình thức khác đưa ra những quan điểm, chính kiến của mình về vấn đề đó. Kết quả là, nhờ thông qua sự sự tranh luận, tìm tòi mà đã đưa ra được những quyết sách đúng đắn, áp dụng vào cuộc sống đem lại lợi ích cho đất nước. Đó là hoạt động phản biện xã hội.
Phản biện xã hội là một lĩnh vực phản biện đặc thù. Nếu như phản biện khoa học là hình thức được áp dụng khi tiến hành nghiên cứu, xét duyệt, nghiệm thu các công trình nghiên cứu khoa học để đưa ra các quyết định về tính đúng sai; chủ thể tiến hành các cuộc phản biện khoa học là hội đồng nghiệm thu, đánh giá các công trình nghiên cứu khoa học, đề án, dự án có những thẩm quyền xác định (nghiệm thu - không nghiệm thu, tán thành - không tán thành) đối với công trình nghiên cứu, phát minh, sáng chế được đưa ra xét duyệt, thì phản biện xã hội là hình thức được áp dụng để tìm được sự đồng thuận xã hội về lợi ích trong thẩm định, xét duyệt các chủ trương, đường lối, trong ban hành các đạo luật, trong hoạch định các đề án, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chủ thể phản biện xã hội rất rộng, bao gồm toàn bộ xã hội nói chung, song không nằm trong quan hệ “đối lập hai bên” với bên đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, kế hoạch (Đảng, cơ quan nhà nước, cơ quan sáng kiến pháp luật, chủ đầu tư…) mà giữa chủ thể phản biên và chủ thể được phản biện gắn với nhau trong mối quan hệ thống nhất, ràng buộc lẫn nhau cùng hướng tới mục đích chung. Phản biện xã hội gắn với hoạt động công quyền, có tính chính trị - pháp lý. Nói cách khác, đặc trưng cơ bản của phản biện xã hội (phân biệt với phản biện trong các lĩnh vực khác như tranh tụng tư pháp, nghiên cứu khoa học, thẩm định chất lượng các báo cáo, đề án) là: phản biện xã hội là phản biện đối với hoạt động tổ chức và thực thi quyền lực chính trị, ở đó, quan hệ giữa các chủ thể - phản biện và được phản biện nằm trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau: một bên là những thiết chế đại diện có trách nhiệm đưa ra các quyết định lãnh đạo, quản lý chung đối với xã hội, bên kia là các cá nhân công dân và các tổ chức của dân có mối liên hệ về quyền dân chủ, về quyền công dân và sự quan tâm đến lợi ích chung đã đứng ra nêu lên nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến về những vấn đề do các thiết chế thực thi quyền lực công đưa ra với mong muốn quyết định đó trở nên phù hợp hơn, khả thi hơn và đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Phản biện xã hội là phản biện mang tính nhân dân, tính xã hội rộng rãi.
Phản biện xã hội là phản biện đối với hoạt động tổ chức và thực thi quyền lực chính trị, ở đó, quan hệ giữa các chủ thể - phản biện và được phản biện nằm trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau: một bên là những thiết chế đại diện có trách nhiệm đưa ra các quyết định lãnh đạo, quản lý chung đối với xã hội, bên kia là các cá nhân công dân và các tổ chức của dân có mối liên hệ về quyền dân chủ, về quyền công dân và sự quan tâm đến lợi ích chung đã đứng ra nêu lên nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến về những vấn đề do các thiết chế thực thi quyền lực công đưa ra với mong muốn quyết định đó trở nên phù hợp hơn, khả thi hơn và đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội.
Hoạt động phản biện xã hội với nội dung này đã luôn hiện hữu trong các chế độ Nhà nước từ trước đến nay. Từ ngàn xưa, đó là chế độ “chiêu hiền, đãi sĩ” để tranh thủ ý kiến người hiền tài, là chế độ can gián vua chúa. Trong chế độ tư bản đó là hoạt động đảng phái đối lập, lobby, mít tinh, biểu tình. Còn trong chế độ ta, biểu hiện rõ rệt nhất là nguyên tắc đấu tranh phê và tự phê bình trong Đảng, sự xem xét, đánh giá hoạt động trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Sự phê bình không phải đơn giản chỉ là nhận xét cá nhân, phê phán cá nhân với nhau mà phải hiểu sâu xa là cả sự phản biện chủ trương, đường lối, chính sách.
Ý nghĩa của phản biện xã hội trước hết là ở sự nhận xét, đánh giá, phê phán, góp ý với bộ máy công quyền về một dự kiến, một quan điểm chưa phù hợp để đặt vấn đề xem xét lại. Sau nữa, là đưa ra các giải pháp thích ứng hơn. Dưới góc độ này, phản biện còn là một sự hiến kế, là dịp để bộc lộ nhân tài. Đây là kênh quan trọng để phát hiện và sử dụng người tài cho đất nước.
 Phản biện xã hội nói lên sự phản hồi của xã hội đối với các hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Phản biện xã hội về thực chất là người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp của dân góp sức với Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng các chủ trương, chính sách, chuẩn bị các quyết định của về chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Mục đích chính trị của phản biện xã hội là góp phần tạo ra và bảo đảm sự đồng thuận xã hội, sự đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phản biện xã hội là một hình thức, một biện pháp cụ thể thể hiện quyền của dân và ý thức trách nhiệm của dân đối với công việc chung của đất nước, thể hiện lòng tin của cơ quan lãnh đạo đối với mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và Nhà nước với dân, tin ở trình độ chính trị của dân, mức độ hiểu biết của dân về lãnh đạo và quản lý.
“Phản biện xã hội là một hình thức, một biện pháp cụ thể thể hiện quyền của dân và ý thức trách nhiệm của dân đối với công việc chung của đất nước, thể hiện lòng tin của cơ quan lãnh đạo đối với mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và Nhà nước với dân, tin ở trình độ chính trị của dân, mức độ hiểu biết của dân về lãnh đạo và quản lý”.
 Khác với đả kích, nói xấu, bôi nhọ mang tính chống đối, lật đổ, xuyên tạc sự thật, phản biện xã hội mang tính xây dựng, hỗ trợ, vì mục tiêu chung. Phản biện xã hội là hình thức tranh biện giữa những chủ thể có cùng mục đích, động cơ nhằm đạt được kết quả cao hơn, nhiều hơn, tốt hơn. Trong phản biện xã hội, bên phản biện không phải lúc nào cũng nêu ý kiến phản bác mà có cả những ý kiến tán đồng, những ý kiến sửa đổi, bổ sung nhằm làm cho dự án, kế hoạch đưa ra được đầy đủ, hoàn thiện hơn.
So với góp ý kiến, kiến nghị vốn lâu nay vẫn được tiến hành trong đời sống xã hội, phản biện xã hội tuy có những nét tương đồng, nhưng không phải đồng nhất. Góp ý kiến, kiến nghị, phê bình, phản ánh ý kiến nhân dân chủ yếu thể hiện sự tham gia thụ động của đối tượng chịu sự lãnh đạo, quản lý với chủ thể lãnh đạo, quản lý, theo yêu cầu của họ mà không có sự chủ động, đặc biệt là không có sự tranh biện. Nội dung góp ý kiến, kiến nghị không đòi hỏi phải nêu ra đầy đủ các luận cứ khoa học để chứng minh, trong nhiều trường hợp chỉ để thể hiện nguyện vọng của bên kiến nghị, góp ý kiến, việc chấp thuận ý kiến, kiến nghị tuỳ thuộc vào sự xem xét của phía nhận được kiến nghị. Còn trong phản biện xã hội không phải chỉ nêu lên các khẳng định hay phủ định mà đòi hỏi phải có luận cứ chứng minh kèm theo. Kiến thức và trách nhiệm của bên phản biện đòi hỏi phải có sự đáp ứng cao hơn. Khi tiến hành phản biện, nhất thiết phải có sự đối thoại trực tiếp hoặc thông qua văn bản của cả hai bên biện luận và phản biện luận. Khi phản biện, bên biện luận và bên phản biện luận đều phải nêu rõ quan điểm, lập luận, căn cứ khoa học, căn cứ thực tiễn để phủ định hoặc khẳng định. Việc chấp nhận hay không chấp nhận các lập luận biện luận và phản biện luận phải nêu rõ căn cứ và lý do và thông báo công khai, rộng rãi cho mọi người biết.
Chủ trương khuyến khích và tạo điều kiện cho dân thực hiện phản biện xã hội có căn cứ lý luận và thực tiễn là: phát hiện ra các mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn là động lực của phát triển nói chung. Dân chủ hóa lãnh đạo và quản lý là con đường tất yếu phải đi qua để đi tới công bằng, dân chủ, văn minh. Dân chủ theo tư tưởng “dân là gốc”, “dựa vào dân” là nguồn gốc của đoàn kết toàn dân tộc, của đồng thuận xã hội, của sức mạnh Việt Nam. Phản biện xã hội (và giám sát xã hội) được thực hiện đúng đắn, có chất lượng và hiệu quả là giải pháp có tính khoa học để nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo và quản lý.
Tất cả những điều nêu trên toát lên bản chất, ý nghĩa của phản biện xã hội. Nói phản biện xã hội là nói đến thái độ, chính kiến của xã hội đối với hoạt động công quyền – nếu nhìn theo chức năng thì có vẻ như đối lập với xã hội, nhưng nhìn trong mối quan hệ biện chứng thì chúng thống nhất: hoạt động công quyền luôn luôn gắn với đời sống xã hội, phục vụ xã hội, do vậy cần phù hợp với lợi ích của xã hội. Sự giám sát, nhận xét, phê phán, đánh giá của xã hội chính là nhằm mục đích đó. Nếu cần đưa ra một định nghĩa về phản biện xã hội thì định nghĩa đó có thể như sau: Phản biện xã hội được hiểu là sự nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến khẳng định những nội dung đúng đắn của chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án, đề án, đồng thời phát hiện những điểm chưa chính xác, chưa phù hợp với đời sống xã hội và lợi ích chính đáng của nhân dân để kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung cho chính xác và phù hợp.
2. Các yếu tố cấu thành và cơ chế phản biện xã hội
2.1. Chủ thể phản biện xã hội
Nói phản biện xã hội thì điều trước tiên phải chỉ ra là: ai là người (chủ thể) đi phản biện. Khác với phản biện khoa học ở đó đã xác định rõ ràng người có quyền đưa ra ý kiến nhận xét, chủ thể phản biện xã hội rất đa dạng. Nếu nói tổng quát thì đó là toàn bộ xã hội nói chung từ tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nhân dân với tính cách là một cộng đồng, hoặc một cá nhân, là chuyên gia, nhà chuyên môn, nhà khoa học đến báo chí v.v.. Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện cơ chế tiến hành phản biện thì chủ thể phản biện phải được xác định dưới hình thức nhất định để tham gia vào cơ chế đó. Hiện tại, theo đặc thù của hệ thống chính trị nước ta cũng như xét về mặt khả năng, điều kiện và cơ chế thực hiện hiệu quả nhất thì các chủ thể: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và nhân dân sẽ là những chủ thể được đề cập trước hết. Chủ thể là Mặt trận vừa có tính riêng là một chủ thể (tổ chức Mặt trận các cấp) vừa có tính chung là bao hàm các tổ chức thành viên của Mặt trận. Mỗi một thành viên - chủ thể - có vai trò, trách nhiệm phù hợp với tính chất và lĩnh vực hoạt động của chủ thể đó. Chủ thể phản biện xã hội là nhân dân thực hiện phản biện xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận mà mình là hội viên, thành viên, đoàn viên của tổ chức đó.
2.2. Đối tượng phản biện xã hội
Đối tượng phản biện xã hội, như đã nói ở trên, là tất cả những hoạt động có liên quan đến tổ chức và thực hiện quyền lực nhân dân, liên quan đến công quyền. Và như vậy, tất cả các hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị từ bộ máy đảng đến bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội (đối với những hoạt động có tính chính trị) đều thuộc đối tượng phản biện xã hội song, trước hết và trực tiếp nhất là hoạt động của bộ máy đảng và nhà nước.
Vấn đề đặt ra là phản biện xã hội chỉ thực hiện đối với những hoạt động trước khi ra quyết định (hoạt động hoạch định) như dự thảo chủ trương, đường lối, chính sách, dự án, chương trình, đề án về tổ chức cán bộ, dự án, dự thảo văn bản pháp luật hay là cả những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, các chương trình dự án, đề án... đã được thông qua và đang triển khai, tổ chức thực hiện?
Về vấn đề này, đứng trên phương diện đánh giá, nhận xét thì phản biện xã hội có thể thực hiện đối với những vấn đề đang bàn và cả những quyết định, dự án đã được thông qua và đang triển khai thực hiện. Song nếu xét dưới giác độ đóng góp, xây dựng góp phần đảm bảo tính đúng đắn, sát hợp của các quyết định với đời sống xã hội và lợi ích của nhân dân thì phản biện trước hết tập trung vào giai đoạn trước khi đưa ra các quyết định. Đảng đã xác định đối tượng phản biện xã hội là các dự thảo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước2. Tuy nhiên, điều này không loại trừ việc nêu nhận xét, đánh giá, kiến nghị về các chủ trương đường lối, chính sách đang thực thi, nhưng dưới góc độ cơ chế phải xem xét thì không bắt buộc.
2.3. Nội dung phản biện xã hội
Nói nội dung phản biện là nói tới các vấn đề được đề cập trong các văn bản, dự án thuộc đối tượng phản biện nêu trên có liên quan đến lợi ích chung của xã hội và tính hiệu quả, khả thi, đồng thuận của đề án, dự án đó. Không phải mọi nội dung của đối tượng phản biện cần phải phản biện xã hội.
Dưới góc độ lợi ích xã hội, nội dung phản biện xã hội là các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến các vấn đề quốc kế, dân sinh phát triển kinh tế, xã hội, đến quyền và lợi ích của công dân, đến tổ chức bộ máy và cán bộ v.v..
 Dưới góc độ đánh giá tính hiệu quả, tính khả thi, tính đồng thuận của đường lối, chính sách, đề án, dự án thì nội dung phản biện sẽ được chỉ ra cụ thể chi tiết trong từng bối cảnh.
Thông qua các hoạt động thực tiễn của trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó phát hiện những đường lối, chính sách, pháp luật có được thực thi không, pháp luật có phù hợp với thực tiễn không. Trên cơ sở đó mà đề nghị với Đảng và Nhà nước xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội.
2.4. Hình thức phản biện xã hội
Hình thức phản biện xã hội rất phong phú phụ thuộc vào chủ thể và đối tượng cũng như nội dung phản biện xã hội. Đối với chủ thể là các tổ chức (Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội) thì có thể thông qua các hình thưc hội nghị, tư vấn, đối thoại… chẳng hạn, đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thì có thể có những hình thức sau:
1. Tổ chức cuộc họp Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Chủ tịch, Ban Thường trực; Ban Chấp hành, Ban thường vụ các tổ chức chính trị - xã hội;
2. Tổ chức các hội nghị chuyên đề của các Hội đồng tư vấn, Ban tư vấn, các chuyên gia, nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn; các hoạt động chuyên môn có liên quan của các tổ chức thành viên;
3. Tổ chức để cơ quan, tổ chức được phản biện xã hội đối thoại trực tiếp với cơ quan, tổ chức phản biện xã hội khi cần thiết;
4. Tổ chức lấy ý kiến phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cấp dưới.
5. Tổ chức để nhân dân góp ý kiến phản biện xã hội vào các dự thảo của cơ quan, tổ chức đảng, nhà nước.
Đối với nhân dân (một cộng đồng, một cá nhân) thì thực hiện phản biện xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận mà mình là hội viên, thành viên, đoàn viên của tổ chức đó. Đây là hình thức mang tính cơ chế pháp lý ràng buộc trách nhiệm giữa chủ thể phản biện xã hội với cơ quan tổ chức được phản biện xã hội. Tuy nhiên, ngoài hình thức đó ra, nhân dân vẫn có thể  tự mình bằng con đường gửi thư, gửi ý kiến đến các cấp có thẩm quyền, thông qua báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải ý kiến của mình. Đảng, Nhà nước vẫn khuyến khích và tôn trọng, lắng nghe ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân bằng hình thức trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện thông tin, đại chúng. Có thể thấy, với sự thừa nhận da dạng các hình thức tham gia hoạt động phản biện xã hội của chủ thể là nhân dân thì cần phải có sự phân biệt những loại ý kiến nào có tính bắt buộc phải xem xét và những loại nào chỉ có tính tham khảo.
2.5. Trình tự tiến hành phản biện xã hội
Như mọi quy trình giải quyết, xử lý các vấn đề đặt ra, mỗi một hoạt động phản biện xã hội cũng có thể được tiến hành theo 3 giai đoạn là: a) Chuẩn bị phản biện,  b)Tiến hành phản biện và c) Hồi âm, ghi nhận kết quả phản biện.
Sự chuẩn bị phản biện được thực hiện bằng việc công khai hoá càng rộng càng tốt chủ trương, kế hoạch, dự án trước với một khoảng thời gian thích hợp để chủ thể phản biện có đủ thời gian tiếp cận, nghiên cứu tài liệu và tích lũy tư liệu cho sự phản biện của họ. Quá trình chuẩn bị phản biện là quá trình cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác cho bên phản biện. Tiến hành phản biện có thể diễn ra dưới hình thức tranh luận miệng trực tiếp với sự hiện diện của các bên. Tranh luận có thể diễn ra tại cuộc họp hay thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Các cuộc phản biện đều phải được ghi lại thành biên bản và trình lên cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định.
2.6. Xử lý kết quả phản biện xã hội
Các cơ quan, tổ chức được phản biện phải thể hiện về việc tiếp thu kết quả phản biện và trả lời bằng văn bản để chủ thể phản biện được biết. Trường hợp không tán thành với ý kiến tiếp thu giải trình có thể đặt vấn đề với cấp cao hơn. Chẳng hạn, trường hợp chủ thể phản biện là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thì các cơ quan, tổ chức được phản biện phải thể hiện về việc tiếp thu kết quả phản biện và trả lời bằng văn bản để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể đã có kiến nghị phản biện xã hội được biết;giải trình hoặc đối thoại với tổ chức phản biện xã hội đã có kiến nghị phản biện khi thấy cần thiết.
3. Triển khai thực hiện hoạt động phản biện xã hội
3.1. Cần thống nhất về nhận thức, loại bỏ những trở ngại cản trở việc đưa vào thực hiện
Vấn đề tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân trong việc phản biện xã hội về việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã được Nghị quyết Đại hội Đảng lần X đề ra từ năm 2006. Đây là một chủ trương có liên quan mật thiết đến việc nâng cao sự lãnh đạo của Đảng, đến hiệu lực quản lý của Nhà nước và rất hợp với lòng dân. Nhưng chủ trương này chậm đi vào cuộc sống. Đã hơn ba năm trôi qua, đã quá nửa nhiệm kỳ của Đại hội Đảng mà chưa ban hành được cơ chế, chưa có sự quy định về phạm vi, nội dung, trình tự phản biện xã hội.
Do vậy, điều cần thiết hiện nay là phải có nhận thức thống nhất về ý nghĩa, tầm quan trọng của phản biện xã hội trong Đảng, Nhà nước, trước hết là nhận thức đúng đắn và sự thông suốt về tư tưởng của những cơ quan và cán bộ trong bộ máy lãnh đạo và quản lý đối với mục đích, nội dung, phạm vi và phương thức thực hiện phản biện xã hội. Cùng với điều đó là nhận thức, ý thức trách nhiệm và trình độ, năng lực của các cá nhân, các tổ chức, đoàn thể nhân dân là chủ thể phản biện xã hội. Đây là nội dung công tác tư tưởng và sự chỉ đạo cụ thể của Trung ương Đảng và các cấp ủy đảng. Nếu hiểu hai chữ “lãnh đạo” theo tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là “phục vụ” thì Đảng lãnh đạo cần coi phản biện xã hội là một nhu cầu cần thiết như một đòi hỏi bắt buộc của sự lãnh đạo, là một điều kiện để bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và của Nhà nước, bảo đảm đoàn kết, dân chủ và đồng thuận xã hội.
Khắc phục tư tưởng chủ quan của người chủ trì các dự án, đề án, dự thảo, tự thấy là đúng đắn, đầy đủ, đã nắm sát tình hình thực tế, đã đủ căn cứ khoa học, không muốn nghe những ý kiến trái chiều; tâm lý coi thường và bệnh dân chủ hình thức. Đồng thời cũng phải khắc phục trạng thái thiếu tự tin, thiếu bản lĩnh của chủ thể phản biện không có được ý kiến xác đáng hoặc có khi do chưa muốn nói thật, nói thẳng hoặc còn ngại nói thật, nói thẳng.
3.2. Bảo đảm công khai và minh bạch hoá trong tổ chức và hoạt động của các thiết chế chính trị, trước hết là hoạt động của Nhà nước
Muốn phản biện, điều trước hết phải biết thông tin đầy đủ, chính xác. Điều này không thể chờ các chủ thể được phản biện cung cấp (mặc dù quy chế có thể quy định trách nhiệm như vậy) mà phải theo một chế độ, nguyên tắc công khai và minh bạch được xác định của hoạt động của các cơ quan tổ chức công quyền, nhờ đó các chủ thể phản biện mới có đủ thông tin để nhận xét, đánh gía.   
a) Công khai, minh bạch trong các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp của Nhà nước
Công khai, minh bạch trong hoạt động lập pháp đòi hỏi phải bảo đảm sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào hoạt động lập pháp. Việc lấy ý kiến và tham gia góp ý kiến vào dự thảo văn bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức kinh tế đơn vị vũ trang và nhân dân đã được quy định thành chế độ bắt buộc. Đặc biệt là việc lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của văn bản. Cần bảo đảm việc lấy ý kiến thực chất hơn và trách nhiệm tiếp thu cũng như giải trình rõ những gì không tiếp thu. Tiếp đến là phải bảo đảm việc tuân thủ tính nhất, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thứ bậc của các văn bản pháp luật được ban hành. Bảo đảm sự công bố rộng rãi các văn bản. Ở đây, cần chú ý cả việc phải dịch ra tiếng các dân tộc thiểu số.
Công khai, minh bạch trong các hoạt động hành chính nhà nước trước hết cần đề cao tính phục vụ của những cơ quan này. Trước hết cần xây dựng và thực hiện tốt nguyên tắc quy trình làm việc công khai, minh bạch ngay chính trong các cơ quan Nhà nước với những thủ tục rõ ràng, rành mạch về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của các bộ phận, các chức danh. Quan trong nhất là tăng cường sự minh bạch trong mối quan hệ với công dân, tổ chức, doanh nghiệp và các đối tượng khác. Có thể thực hiện nhiều biện pháp để bảo đảm việc đó như tạo cơ hội để nhân dân tham dự các hoạt động (như tham dự kỳ họp, phiên họp), tham khảo ý kiến, góp ý kiến và các chương trình, dự án, qua truyền hình trực tiếp để nhân dân theo dõi, giám sát, qua phổ biến tin tức và thực hiện một số dịch vụ căn bản trên mạng điện tử; qua thực hiện dân chủ cơ sở và hoạt động của các Ban Thanh tra nhân dân. Cần có hình thức lắng nghe, tiếp thu và vận dụng ý kiến của nhân dân, doanh nghiệp, mà điều này phải thành quy chế pháp luật chứ không chỉ nói chung chung.
 Công khai minh bạch trong hoạt động tư pháp cần được tiếp tục hoàn thiện hơn bằng những cải tiến trong công tác điều ra, xét xử. Bảo đảm sự giám sát đối với tất cả các khâu của quá trình tố tụng như: cho phép luật sư được tham gia ngay từ khi khởi tố bị can và tham dự vào việc hỏi cung, được tiếp cận hồ sơ vụ án dễ dàng, giảm bớt những vụ án xét xử bí mật không cần thiết, công khai bản án nhất là án kinh tế và tham nhũng v.v..
b) Trách nhiệm giải trình của Nhà nước trước nhân dân, cung cấp cho nhân dân biết những thông tin cần thiết
Để đảm bảo công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan công quyền, phải nâng cao trách nhiệm giải trình (trước nhân dân, trước cơ quan, tổ chức) của các cơ quan đó. Pháp luật cần có đòi hỏi và chế tài rõ ràng, cụ thể và nghiêm minh đối với những hành vi che giấu hoặc từ chối cung cấp thông tin của các cơ quan và công chức Nhà nước. Nhà nước cần có các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan công quyền trong việc cung cấp thông tin cho người dân và tổ chức. Ở đây, trách nhiệm giải trình giống như một thể chế, và để đạt được những kết quả mong muốn thì thể chế đó phải được thực thi một cách có hiệu quả và hiệu lực tương tự như các thể chế khác. Trong điều kiện ngày nay, bảo đảm minh bạch không chỉ là việc đáp ứng yêu cầu về cung cấp thông tin mà điều quan trọng còn là bảo đảm sự tham gia và giám sát của người dân vào các quá trình phát triển, tức là bảo đảm đạt được sự đồng thuận của xã hội về các thể chế, chính sách, chương trình hoạt động v.v.., tóm lại là về tất cả các mặt phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Phải nâng cao nhận thức của các cơ quan công quyền và công chức nhà nước về trách nhiệm phải cung cấp thông tin cho công chúng; chính quyền bảo đảm cho dân biết đầy đủ, chính xác những thông tin cần thiết để nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện các chương trình phát triển; thực hiện nhân dân công khai dân chủ bàn bạc, tham gia quyết định trực tiếp những vấn đề liên quan trực tiếp ở địa phương; khuyến khích sự tham gia của nhân dân vào việc xây dựng và thực thi các thể chế, chính sách và cung cấp các dịch vụ cơ bản; xây dựng các mối quan hệ mang tính tham gia và hợp tác với khu vực tư nhân, thu hút sự tham gia của tư nhân vào quá trình quản lý; khuyến khích người dân tham gia giám sát các chương trình, dự án của Nhà nước trên cơ sở đó bảo đảm và tăng cường sự giải trình của cơ quan quản lý nhà nước trước nhân dân.
3.3. Ban hành Luật về công khai và minh bạch trong hoạt động nhà nước
Nhà nước cần ban hành pháp luật quy định ràng buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân kể cả trong Nhà nước và ngoài xã hội về điều đó, tốt nhất là bằng một luật, Luật Công khai và minh bạch hoạt động nhà nước.
Trên thế giới, sự thiết lập chế định minh bạch trong quản lý đã trở thành một trào lưukhông thể cưỡng lại của nhiều nước và được coi là một tiêu chí của chế độ nhà nước dân chủ. Được coi là đi đầu trong các nước này là Thuỵ Điển, nước mà ngay từ năm 1766 đã ban hành “Luật về Tự do xuất bản”. Luật này được tiếp tục hoàn thiện và hiện đại hoá vào các năm 1937, 1949, 1974, 1983. Tiếp sau đó là Phần Lan với “Luật về Công khai các tài liệu công” ban hành năm 1951 có hiệu lực năm 1952, Hoa Kỳ có “Luật về Tự do thông tin” năm 1966/1967/1974, 1976, 1978, 1986, 1996, Đan Mạch có “Luật Tiếp cận tài liệu hành chính” năm 1970/1971, 1985, Na Uy có “Luật về Công khai trong quản lý hành chính” 1970/1971, Hàn Quốc có “Luật về Mở thông tin của các cơ quan công quyền” năm 1996/1997 v.v.. Gần đây nhất là Nhật Bản với “Luật về Công bố thông tin của các cơ quan hành chính” ban hành tháng 5/19993.
Luật Tự do thông tin và Luật Công khai hoạt động hành chính có mục tiêu xây dựng một xã hội thông tin, cởi mở nhưng trước hết là:
- Ràng buộc các cơ quan Nhà nước phải công khai thông tin, trừ các thông tin thuộc danh mục “tuyệt mật”, “mật” được quy định bởi cơ quan có thẩm quyền, hạn chế việc ghi dấu “mật” một cách tuỳ tiện, thiếu căn cứ pháp luật.
- Khuyến khích xã hội, cơ quan, doanh nghiệp công khai thông tin cần thiết;
- Có các biện pháp cần thiết để nâng cao khả năng tiếp cận thông tin;
- Mở cửa thị trường cung cấp thông tin, đa dạng hoá nguồn cung cấp;
- Quy định trách nhiệm cung cấp thông tin phải chính xác, trung thực (còn gọi là thông tin sạch);
- Bảo đảm độ chính xác của các báo cáo thống kê;
- Quy định các biện pháp trách nhiệm (chế tài) khi cung cấp thông tin sai cho xã hội; trường hợp gây thiệt hại phải bồi thường;
- Có cơ chế kiểm tra, giám sát các loại thông tin bắt buộc như đăng ký kinh doanh, báo cáo tài chính doanh nghiệp, cáo bạch, nợ đọng tài chính.
3.4. Sử dụng công nghệ thông tin lôi cuốn nhân dân đóng góp ý kiến (hiến kế, phản biện)
Kinh nghiệm thế giới về vấn đề này cho thấy, đây là kênh rất hữu hiệu để thực hiện sự công khai minh bạch trong hoạt động các thiết chế chính trị nói chung và đặc biệt đối với bộ máy hành chính nhà nước nói riêng, nhờ đó lôi cuốn tính tích cực của nhân dân tham gia vào công việc chung và tăng cường khả năng giám sát trực tiếp của họ. Bắt đầu từ năm 1948 khi Alex Osborn (Mỹ) lần đầu tiên trình bày trong cuốn  Sức sáng tạo của bạn kỹ thuật thu thập các ý tưởng cho một chủ đề nào đó bằng cách động não (brainstorming) dựa trên nguyên lý: giữa các ý tưởng khác nhau, quan trọng hay ít quan trọng, phổ biến hay không phổ biến đều có mối liên kết với nhau. Một ý tưởng này được đưa ra thì có một hay nhiều ý tưởng khác gắn liền nó, cùng chiều hay nghịch chiều. Toàn bộ những ý tưởng đó sẽ cung cấp cho nhà lãnh đạo – quản lý một cái nhìn tổng thể, lắng nghe các ý kiến phản biện trên cơ sở đó chọn lựa những ý tưởng hay nhất, thích hợp nhất cho một giải pháp tối ưu. Đến những năm 70 khi công nghệ vi xử lý phát triển thì công cụ thông tin phản hồi (feedback)ra đời, nâng kỹ năng động não lên một trình độ cao hơn: thu thập ý kiến trên một địa bàn rộng cả trong và ngoài nước, ý kiến được diễn giải chi tiết hơn, sâu sắc hơn, thời gian thu thập cũng không bị hạn chế. Bắt đầu là các nước phát triển như Mỹ, Canađa, Anh sau đó đến nhiều nước khác đã triển khai rộng rãi công cụ này. Ở Đông Nam Á, Singapore là nước áp dụng công cụ này sớm nhất. Tháng 4/1985 họ chính thức lập ra cơ quan trưng cầu ý kiến (feedback unit). Bất cứ ai muốn góp ý về bất cứ vấn đề gì thì vào trang web và viết ý kiến của mình. Bất cứ câu hỏi nào gửi tới đều được trả lời và công bố trên trang web; ai ai cũng có thể xem được chứ không để rơi vào im lặng, không mang dấu mật, và nếu ai đó chưa đồng ý thì có quyền yêu cầu, chất vấn lại. Một cơ quan có trách nhiệm giám sát việc này (feedback unit supervisory panel)với thành phầnngang bằng các đại biểu quốc hội và không phải là đại biểu được thành lập. Ngoài ra Chính phủ Singapore còn thành lập bên cạnh mình 8 nhóm tư vấn tham mưu cho Chính phủ về kinh tế, xã hội, chủng tộc, giáo dục, y tế, nhà đất, môi trường, giao thông vận tải, các xí nghiệp vừa và nhỏ. Chủ tịch và thành viên của nhóm đều là người thuộc khu vực tư. Tất cả các kiến nghị cũng như việc làm của tám nhóm đều công khai cho toàn dân biết để giám sát4.
3.5. Xây dựng cơ chế pháp lý về hoạt động phản biện xã hội
Phải có cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc thực hiện phản biện xã hội một cách đúng đắn và có hiệu quả. Cơ chế là sức mạnh của hành động, nhưng ngày nay đang thiếu nhiều cơ chế tiến bộ nhưng lại có nhiều cơ chế còn bảo thủ, lạc hậu, so với yêu cầu của nhân dân. Cần phải có điều kiện pháp lý bảo đảm cho hoạt động phản biện xã hội.
Cần sớm ban hành cơ chế và xác định phạm vi, trình tự, thủ tục phản biện thống nhất. Phản biện xã hội là điều bắt buộc phải thực hiện một cách nghiêm túc, công khai đối với các dự án pháp luật, các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng của Đảng và Nhà nước. Các dự án không qua phản biện xã hội đúng theo trình tự thủ tục quy định thì không được trình ra cơ qua


 
1 Đảng Cộng sản Việt nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, H., 2006, tr.124, 125, 135,305
2Ban Chấp hành trung ương. Thông báo kết luận của Bộ Chính trị số 147-TB/TW ngày 4/4/2008 về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cấc tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân.
3 Theo N.V. Anisimsep. Nhật Bản: bảo đảm minh bạch của quản lý hành chính Nhà nước. Tạp chí Nhà nước và pháp luật (Nga) số 6/2003, tr. 58.
4 Theo Hữu Khánh. Động não, Báo Tuổi trẻ, 22/10/2005

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 3+4(164+165), tháng 2/2010)