Nội luật hóa Công ước La Hay năm 1996 - kinh nghiệm của Liên bang Nga và gợi mở cho Việt Nam

10/12/2021

TS. PHAN HOÀI NAM

Phó Trưởng Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh

THS. NGUYỄN THỊ KIM DUYÊN

GV. Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.

Tóm tắt: Việc gia nhập Công ước La Hay năm 1996 là cần thiết đối với việc giải quyết xung đột về thẩm quyền, pháp luật áp dụng cũng như công nhận và cho thi hành các biện pháp bảo vệ trẻ em. Hiện nay, Việt Nam chưa là thành viên của Công ước La Hay năm 1996. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả trình bày kinh nghiệm nội luật hóa Công ước La Hay năm 1996 của Liên bang Nga và đưa ra những gợi mở cho Việt Nam khi gia nhập Công ước này.
Từ khóa: Công ước La Hay năm 1996, Liên bang Nga, nội luật hóa.
Abstract: Accession to The Hague Convention of 1996 is essential for the resolution of conflicts in jurisdiction and applicable law, as well as the recognition and enforcement of child protection measures. Currently, Vietnam is not a party to The Hague Convention of 1996. Studying the process of implementing The Hague Convention of 1996 of member states, including the Russian Federation, helps us to draw the necessary experience to have the best preparation for the accession to this Convention.
Keywords: The Hague Convention of 1996; Russian Federation, jurisdiction
 
Tuyên ngôn của Liên hợp quốc (LHQ) về quyền trẻ em năm 1982 khẳng định “Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”[1]. Trách nhiệm của cha mẹ trong việc bảo vệ trẻ em để bảo đảm trẻ em được nuôi dưỡng và lớn lên “trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông”[2] là vô cùng cần thiết. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân các quốc gia khác nhau ngày càng phát triển và đa dạng. 
 
BẢO-VỆ-TRẺ-EM1.jpg
Tuy nhiên, pháp luật ở các quốc gia quy định khác nhau về những vấn đề liên quan đến trách nhiệm của cha mẹ trong việc bảo vệ trẻ em, quyền giám hộ trẻ em, quyền tài sản của trẻ em… Do vậy, Hội nghị La Hay năm 1996 về tư pháp quốc tế đã thông qua Công ước về thẩm quyền, pháp luật áp dụng, công nhận, thi hành và hợp tác về trách nhiệm của cha mẹ và các biện pháp bảo vệ trẻ em (“Công ước La Hay năm 1996”)[3] nhằm giải quyết xung đột giữa các hệ thống pháp luật về vấn đề thẩm quyền, pháp luật áp dụng, công nhận và thi hành các biện pháp bảo vệ trẻ em.
1. Kinh nghiệm nội luật hóa Công ước La Hay năm 1996 của Liên bang Nga
Liên bang Nga là thành viên của Công ước La Hay năm 1996 (Công ước) từ ngày 01/06/2013 theo Luật Liên bang số 62-FZ được thông qua ngày 05/06/2012. Việc gia nhập Công ước không những tạo hành lang pháp lý vững chắc đảm bảo quyền trẻ em, mà còn nâng cao vị thế của Liên bang Nga trên trường quốc tế.  Theo quy định của Nghị định số 1169 ngày 15/11/2012, ở Liên bang Nga, Cơ quan Trung ương thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Công ước là Bộ Giáo dục và Khoa học Liên bang Nga; Cục chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em là cơ quan đại diện thực hiện chức năng của Bộ Giáo dục và Khoa học đối với Công ước này. Theo Công ước, Cơ quan Trung ương phải cùng hợp tác và thúc đẩy hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền khác vì mục đích của Công ước.
Kể từ khi gia nhập Công ước, trong giai đoạn từ 2013 đến 2016, các cơ quan có thẩm quyền của Nga đã nhận được hơn 300 yêu cầu từ công dân và các cơ quan có thẩm quyền về tranh chấp hôn nhân và gia đình đình xuyên biên giới có liên quan đến Công ước; nếu trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến năm 2014, có dưới 50 đơn đăng ký yêu cầu bảo vệ trẻ em thì trong năm 2017, hàng tháng, các cơ quan trung ương nhận được từ 10 đến 15 đơn ban đầu yêu cầu bảo vệ trẻ em trên cơ sở Công ước[4]. Trong tiến trình nội luật hóa Công ước của Liên bang Nga nổi lên một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em
Điều 5 của Công ước quy định thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em thuộc về cơ quan tư pháp hoặc hành chính của quốc gia ký kết nơi trẻ em thường trú. Công ước chỉ xác định quốc gia nào có thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ trẻ em mà không quy định cơ quan nào có thẩm quyền của quốc gia đó. Pháp luật quốc gia thành viên sẽ quyết định cơ quan nào có thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em. Công ước đã quy định thống nhất về việc xác định cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ trẻ em và việc phối hợp thẩm quyền giữa các cơ quan hữu quan để có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp cấp thiết.
Đối với vấn đề này, theo Luật Liên bang số 186-FZ được thông qua ngày 6/10/1999, thẩm quyền đưa ra quyết định về việc thi hành các biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em thuộc về Tòa án Liên bang Nga. Trong toàn bộ thời gian thi hành Công ước, nhiều quyết định của Tòa án đã được ban hành để xác lập quyền giám hộ đối với trẻ em mang hai quốc tịch, bao gồm các biện pháp tạm thời, khẩn cấp và các biện pháp khác về quyền giám hộ trẻ em theo quy định của Công ước[5].
Thứ hai, công nhận và thi hành quyết định về biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em
 Theo khoản 1 Điều 23 Công ước, các biện pháp do các cơ quan của một quốc gia ký kết ban hành được công nhận theo quy định của pháp luật tại tất cả các quốc gia ký kết Công ước này. Theo đó, Công ước không có bất kỳ yêu cầu chính thức nào về hình thức của biện pháp bảo vệ để tránh đặt ra những rào cản không đáng có trong việc bảo vệ trẻ em. Điều 26 của Công ước quy định, trong trường hợp biện pháp được ban hành và có hiệu lực thi hành bởi một quốc gia ký kết nhưng phải thi hành tại một quốc gia ký kết khác, theo yêu cầu của một bên liên quan, các biện pháp đó sẽ được tuyên bố có hiệu lực thi hành hoặc đăng ký để thi hành tại quốc gia ký kết khác theo thủ tục do pháp luật của quốc gia đó quy định. Mỗi quốc gia ký kết phải áp dụng thủ tục đơn giản và nhanh chóng đối với việc tuyên bố có hiệu lực thi hành hoặc đăng ký để thi hành.
Việc công nhận và thi hành quyết định về biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em của Tòa án nước ngoài trên cơ sở Công ước thuộc thẩm quyền của Tòa án Liên bang Nga được quy định từ Điều 409 đến Điều 417 của Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) Liên bang Nga[6]. Đây là những quy định nhằm nội luật hóa quy định của Công ước về vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, bao gồm cả các quyết định có liên quan đến biện pháp bảo vệ trẻ em do chính Tòa án nước ngoài ban hành. Các điều này quy định về những trường hợp công nhận và cho thi hành các quyết định của Toà án nước ngoài; yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của Tòa án nước ngoài và nội dung đơn yêu cầu; những trường hợp từ chối yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của Tòa án nước ngoài. Bên cạnh quy định về công nhận và cho thi hành quyết định của Tòa án nước ngoài, khoản 2 Điều 23 Công ước còn quy định về các trường hợp từ chối công nhận và cho thi hành.
Thứ ba, thẩm quyền dựa trên dấu hiệu nơi cư trú để thực hiện các biện pháp bảo vệ trẻ em
Theo Sổ tay hoạt động thực tiễn của Công ước[7], để gia nhập Công ước này, các quốc gia phải xem xét liệu những thay đổi đối với luật có cần thiết để các cơ quan tư pháp hoặc hành chính có thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ dựa trên “nơi cư trú thường xuyên” của trẻ hay không (Điều 5 Công ước). Quy định của Công ước đã thống nhất nguyên tắc áp dụng pháp luật để thực hiện các biện pháp bảo vệ trẻ em. Nguyên tắc dựa trên nơi cư trú thường xuyên của trẻ em được áp dụng một cách hiệu quả và phù hợp, là nơi có sự gắn bó mật thiết đối với vấn đề nhân thân của trẻ em và được giả định là cơ quan có thẩm quyền tốt nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Hơn nữa, cơ quan có thẩm quyền cũng phải có khả năng thực hiện các biện pháp bảo vệ nhất định đối với trẻ em đang ở quốc gia ký kết nhưng không thường xuyên cư trú (Điều 6, 11 và 12 Công ước).
Theo quy định của Điều 65 Bộ luật Gia đình Liên bang Nga năm 1996, khi tiến hành xác định nơi cư trú cho trẻ em, Tòa án phải xem xét tình cảm của trẻ em đối với cha mẹ và anh chị em, tuổi của trẻ em, đạo đức và các đặc điểm cá nhân khác của cha mẹ, các mối quan hệ hiện có giữa cha mẹ và trẻ em và khả năng tạo ra những điều kiện tối ưu cho sự nuôi dạy và phát triển của trẻ em (chế độ sinh hoạt và làm việc của cha mẹ, hoàn cảnh vật chất và tình trạng gia đình). Trong trường hợp không thể tìm được nơi cư trú thường xuyên của trẻ em, theo yêu cầu của Cục chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em, cơ quan nuôi dưỡng và giám hộ có trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ để đáp ứng hoàn cảnh sống và nuôi dưỡng của trẻ. Theo các tác giả, pháp luật của Liên bang Nga đã có quy định phù hợp với nội dung của Công ước về xác định thẩm quyền dựa trên dấu hiệu nơi cư trú để thực hiện các biện pháp bảo vệ trẻ em.
Thứ tư, pháp luật áp dụng đối với vấn đề giám hộ
Thuật ngữ “trách nhiệm của cha mẹ” được định nghĩa trong khoản 2 Điều 1 của Công ước là quyền của cha mẹ, hoặc quan hệ tương tự xác lập các quyền, quyền hạn và trách nhiệm của cha mẹ, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật liên quan đến bản thân hoặc tài sản của trẻ em. Theo các tác giả, việc giải thích thuật ngữ này mang tính chất bao quát. “Trách nhiệm cha mẹ” không chỉ bao gồm trách nhiệm đến bản thân hay tài sản của trẻ em của cha mẹ nói chung mà còn có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc người giám hộ. Hơn nữa, trách nhiệm còn được quy định là quyền của cha mẹ trong việc nuôi dưỡng và sự phát triển của trẻ em. Tuy nhiên, Công ước chưa chỉ rõ quyền hạn ở đây bao gồm những quyền nào. Theo Báo cáo giải thích của Công ước[8], thuật ngữ này có thể được định nghĩa dựa theo Điều 18 Công ước về quyền trẻ em[9] và được hiểu một cách đầy đủ và rộng hơn.
Các cơ quan nuôi dưỡng và giám hộ địa phương (dịch vụ xã hội của Nga) có vai trò quan trọng trong việc quyết định sự chỉ định hoặc chuyển giao quyền giám hộ. Các hoạt động của cơ quan nuôi dưỡng và giám hộ Liên bang Nga được hướng dẫn bởi Bộ luật Gia đình của Liên bang Nga (bao gồm Điều 61 quy định về quyền bình đẳng của cha mẹ đối với trẻ em), Luật Liên bang số 48- FZ về quyền giám hộ (xác định mục đích, nguyên tắc, thủ tục của cơ quan nuôi dưỡng và giám hộ), Nghị định số 275 của Chính phủ (thiết lập thủ tục nuôi dưỡng của người giám hộ, cũng như các quy tắc đăng ký lãnh sự và kiểm soát bởi cơ quan nuôi dưỡng và giám hộ trẻ em bị bỏ rơi bên ngoài Liên bang Nga) và Nghị định số 423 của Chính phủ (về một số vấn đề về nuôi dưỡng và giám hộ đối với trẻ vị thành niên). Trong thời gian áp dụng Công ước, các công cụ pháp lý nêu trên đã được sửa đổi để cải thiện đáng kể thủ tục áp dụng các biện pháp bảo vệ trẻ em ở Nga[10].
Bộ luật Dân sự Liên bang Nga dành riêng một điều luật quy định về quyền giám hộ[11] với nội dung sau:
Một là, việc đỡ đầu hoặc giám hộ đối với người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được chỉ định hoặc chấm dứt theo pháp luật của nước nơi người được chỉ định hoặc chấm dứt giám hộ có quốc tịch. Như vậy, việc giám hộ đối với người chưa thành niên được xác định theo pháp luật của nước nơi người được giám hộ có quốc tịch
Hai là, nghĩa vụ chấp nhận giám hộ được xác định theo luật quốc tịch của người được chỉ định giám hộ. Việc quy định luật quốc tịch của người được chỉ định giám hộ được áp dụng đối với nghĩa vụ chấp nhận giám hộ sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền có khả năng đánh giá giám hộ dựa trên pháp luật của quốc gia nơi người được chỉ định giám hộ có quốc tịch.
Ba là, mối quan hệ giữa người giám hộ và người được giám hộ được xác định theo pháp luật của nước có cơ quan thẩm quyền xác lập việc giám hộ. Tuy nhiên, khi người được giám hộ có nơi cư trú tại Nga, pháp luật của Liên bang Nga sẽ được ưu tiên áp dụng nếu việc áp dụng là có lợi cho họ.
Thứ năm, các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định của Điều 11 Công ước, trong trường hợp khẩn cấp, các cơ quan của quốc gia ký kết là nơi hiện đang có trẻ em hoặc tài sản của trẻ em có quyền ban hành các biện pháp bảo vệ cần thiết. Các biện pháp này chỉ hết hiệu lực khi các cơ quan có thẩm quyền ban hành các biện pháp khác thay thế.
Hiện nay, nước Nga tồn tại song song nhiều hệ thống pháp luật[12]. Pháp luật liên bang và pháp luật của các chủ thể Liên bang Nga cũng quy định ​​khả năng thực thi quyền giám hộ đối với trẻ em trên cơ sở áp dụng các biện pháp tạm thời. Cụ thể, có thể chỉ định một người thân làm người giám hộ của trẻ em như một thỏa thuận sơ bộ trước khi xác lập quyền giám hộ chính thức. Nghị định số 432 của Chính phủ Liên bang Nga ngày 19/05/2009 đã được sửa đổi ngày 19/12/2018 quy định về việc tạm thời chuyển trẻ em đang ở trong tổ chức nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em không có cha mẹ nuôi dưỡng sang gia đình công dân đang sống trên lãnh thổ của Liên bang Nga. Đây là biện pháp áp dụng cho trường hợp khẩn cấp tạm thời và thời hạn nuôi dưỡng liên tục trong trường hợp này không được quá 6 tháng. Như vậy, trong khi Công ước quy định chung về việc ban hành “bất kỳ biện pháp bảo vệ nào cần thiết” thì pháp luật Liên bang Nga cụ thể hóa điều luật này bằng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với trường hợp trẻ em mồ côi và không có cha mẹ nuôi dưỡng.
Theo quy định của Điều 56 Bộ luật Gia đình Liên bang Nga, cơ quan nuôi dưỡng và giám hộ phải thực hiện các biện pháp khẩn cấp để bảo vệ trẻ em, nếu biết rằng có nguy cơ đe dọa đến tính mạng và sức khỏe của trẻ em. Các biện pháp tạm thời và khẩn cấp khác nhằm bảo vệ trẻ em có thể được thực hiện bởi các cơ quan hành chính và tư pháp Liên bang Nga và phải phù hợp với Bộ luật Gia đình, Bộ luật Tố tụng Dân sự và các luật khác của Liên bang Nga.
Thứ sáu, việc phối hợp giữa Cục chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em và cơ quan có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em
Theo quy định của Điều 31 Công ước, Cơ quan trung ương của quốc gia ký kết, trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan công quyền hoặc cơ quan khác, thực hiện tất cả các bước thích hợp để tạo thuận lợi, bằng cách hòa giải, tham vấn hoặc các cách tương tự khác đối với các giải pháp đã được đồng ý để bảo vệ bản thân hoặc tài sản của trẻ em trong các trường hợp áp dụng Công ước. Nghĩa là, Cơ quan trung ương phải phối hợp với cơ quan có thẩm quyền trong nước thực hiện tất cả các biện pháp để bảo vệ bản thân hoặc tài sản của trẻ em, bao gồm hòa giải, tham vấn hoặc cách tương tự khác.
Để thực hiện các nghĩa vụ của mình theo Công ước, Cục Chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em phối hợp với tất cả cơ quan có thẩm quyền, bao gồm các cơ quan quản lý giám hộ, Cơ quan Thừa phát lại, các cơ quan tư pháp và các cơ quan có thẩm quyền khác của Liên bang Nga[13]. Cơ quan Thừa phát lại có thể xác định nơi cư trú của trẻ em trên lãnh thổ Liên bang trên cơ sở yêu cầu của Cục Chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em về việc tìm kiếm trẻ em. Trong trường hợp cần thiết, để bảo vệ trẻ em hoặc thiết lập điều kiện sống và nuôi dưỡng trẻ em, Cục Chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chăm sóc và giám hộ tại nơi trẻ em cư trú. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có quyền yêu cầu Cục Chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em cung cấp thêm thông tin về vụ việc. Ngoài ra, Cục Chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước thứ ba cung cấp thông tin bổ sung cho vụ việc liên quan.
Đối với các tranh chấp gia đình liên quan đến trẻ em thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước, Viện Hòa giải Liên bang (được thành lập theo quyết định của Bộ Giáo dục và Khoa học Liên bang Nga) sẽ cung cấp miễn phí dịch vụ hòa giải[14]. Một trong những nhiệm vụ của Viện Hòa giải Liên bang là hỗ trợ công việc của Cục Chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em trong việc tổ chức và đảm bảo tiến hành các thủ tục hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp gia đình của công dân đang nuôi con nếu họ nộp đơn lên Bộ Giáo dục và Khoa học của Liên bang Nga và được sự đồng ý của hai bên.
Liên bang Nga đã có những biện pháp phối hợp và hợp tác với các quốc gia thành viên khác để thực hiện các nghĩa vụ của Công ước một cách hiệu quả. Nếu được yêu cầu hỗ trợ từ các quốc gia khác, Cục Chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em Liên bang Nga sẽ: (i) Cung cấp thông tin của Công ước và thủ tục liên quan ở Liên bang Nga; (ii) Hỗ trợ các thủ tục hành chính hoặc tư pháp nhằm sắp xếp việc tổ chức hoặc đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ Công ước một cách hiệu quả; (iii) Hỗ trợ tư vấn pháp lý hoặc dịch vụ hòa giải tại Liên bang Nga; (iv) Giới thiệu đến các tổ chức chính phủ và / hoặc phi chính phủ khác để được hỗ trợ; (v) Cung cấp thông tin về các luật sư chuyên về lĩnh vực liên quan.
2. Một số gợi mở cho Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề bảo vệ trẻ em luôn được quan tâm và đề cao. Ngày 20/2/1990, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Tuy nhiên, hiện nay, một số vấn đề về trẻ em vẫn tồn tại, đặc biệt là đối với việc xác định: (i) Thẩm quyền, (ii) Pháp luật áp dụng, (iii) Công nhận và cho thi hành quyết định và biện pháp bảo vệ trẻ em chưa được quy định cụ thể. Việc nghiên cứu và gia nhập Công ước cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em. Từ kinh nghiệm nội luật hóa Công ước của Liên bang Nga, các tác giả rút ra một số gợi mở cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em
Luật Trẻ em năm 2016 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2018 (Luật Trẻ em) quy định về các biện pháp bảo vệ trẻ em[15] theo ba cấp độ: (i) phòng ngừa; (ii) hỗ trợ; (iii) can thiệp. Tuy nhiên, Luật Trẻ em không quy định cụ thể là cơ quan nào có thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ trẻ em cụ thể thông qua các cấp độ bảo vệ này. Mặt khác, Điều 52 Luật Trẻ em quy định, đối với trường hợp trẻ em bị xâm hại, có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi bởi cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em nhưng cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em từ chối thực hiện kế hoạch hỗ trợ, can thiệp thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan lao động - thương binh và xã hội cấp huyện đề nghị Tòa án ra quyết định hạn chế quyền của cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em hoặc tạm thời cách ly trẻ em khỏi cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và áp dụng biện pháp chăm sóc thay thế.
Như vậy, về cơ bản, pháp luật Việt Nam đã quy định về cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em. Tuy nhiên, các biện pháp này chỉ được thực hiện thông qua đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan lao động - thương binh và xã hội cấp huyện. Theo các tác giả, quy định này đã phần nào hạn chế quyền thực hiện biện pháp bảo vệ trẻ em. Ở Liên bang Nga, thẩm quyền này thuộc Tòa án. Thẩm quyền này không những tạo sự linh hoạt, mà còn không đặt ra rào cản nào để Tòa án thực hiện biện pháp bảo vệ trẻ em. Thứ hai, công nhận và thi hành quyết định về biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em.
Chương XXXV, Bộ luật TTDS năm 2015 quy định về công nhận và cho thi hành bản án của Tòa án nước ngoài. Tuy nhiên, đối chiếu với Bộ luật TTDS Liên bang Nga về chủ thể nộp đơn yêu cầu, pháp luật Việt Nam và pháp luật Liên bang Nga có sự khác biệt sau: nếu như Điều 413 Bộ luật TTDS Liên bang Nga quy định, người có quyền nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành là “người có liên quan”[16], thì Điều 425 Bộ luật TTDS Việt Nam năm 2015 quy định chủ thể yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án của Tòa án nước ngoài là “người được thi hành” hoặc “người đại diện hợp pháp của họ” và kèm điều kiện là “cá nhân phải thi hành cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc cơ quan, tổ chức phải thi hành có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài có tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu”. Điều kiện trên phục vụ cho việc “thi hành” và không thực sự cần thiết đối với trường hợp chủ thể liên quan chỉ có nhu cầu công nhận quyết định nước ngoài tại Việt Nam[17]. Từ kinh nghiệm của Liên bang Nga, các tác giả cho rằng, để bảo đảm được quyền lợi của trẻ em khi thực hiện công nhận quyết định hoặc biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em, cần bổ sung quy định người phải thi hành có quyền nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành và lược bỏ đi điều kiện “cá nhân phải thi hành cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc cơ quan, tổ chức phải thi hành có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài có tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu”.
Thứ ba, thẩm quyền dựa trên dấu hiệu nơi cư trú để thực hiện các biện pháp bảo vệ trẻ em
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định nơi cư trú của người chưa thành niên[18] là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định. Tuy nhiên, pháp luật của nước ta chưa có những quy định về căn cứ xác định nơi cư trú thường xuyên cho trẻ em. Trong trường hợp cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau hoặc không có cha, mẹ thì việc xác định nơi cư trú cụ thể như thế nào chưa có quy định cụ thể. Vì vậy, khi gia nhập Công ước, Việt Nam cần bổ sung có quy định về căn cứ xác định nơi cư trú của trẻ em trong những trường hợp này. Khi xác định nơi cư trú của trẻ em, cần xem xét tình cảm của trẻ em đối với cha mẹ, anh chị em và người thân. Theo kinh nghiệm của Liên bang Nga, có thể căn cứ vào độ tuổi, các đặc điểm tính cách khác và những điều kiện tốt nhất cho sự nuôi dạy và phát triển của trẻ em. Ngoài ra, cần xem xét ưu tiên quyền quyết định của trẻ em để đảm bảo quyền lợi cho chính đứa trẻ đó.
Thứ tư, về việc phối hợp giữa Cơ quan Trung ương và cơ quan có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em
Như đã phân tích, Liên bang Nga đã quy định rất cụ thể và hiệu quả về việc phối hợp giữa Cục Chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em (Cơ quan Trung ương) và cơ quan có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ bản thân và tài sản của trẻ em. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ phối hợp với nhau để thực hiện các biện pháp bảo vệ. Ví dụ, theo pháp luật Liên bang Nga, Cơ quan Thừa phát lại có thể xác định nơi cư trú của trẻ em, trong trường hợp cần thiết, Cục Chính sách nhà nước bảo vệ quyền trẻ em có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khác chăm sóc và giám hộ trẻ em tại nơi cư trú. Theo đó, Việt Nam có thể quy định về việc Tòa án hoặc các chủ thể có thẩm quyền khác (Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan lao động - thương binh và xã hội cấp huyện) sẽ phối hợp cùng nhau thực hiện các biện pháp bảo vệ trẻ em. Ngoài ra, Việt Nam có thể tham khảo mô hình Viện Hòa giải Liên bang Nga để cung cấp dịch vụ hòa giải đối với các tranh chấp gia đình liên quan đến trẻ em thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước./.
 

 


[1] Lời nói đầu của Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Xem nội dung Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ em tại: https://archive.crin.org/en/library/legal-database/un-declaration-rights-child-1959.html, truy cập ngày 19/03/2021.
[2] Lời nói đầu Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Xem nội dung Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em tại: https://www.ohchr.org/EN/professionalinterest/pages/crc.aspx, truy cập ngày 20/03/2021.
[3] Công ước La Hay năm 1996 được thông qua tại Kỳ họp thứ 18 của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế. Kể từ khi được thông qua năm 1996, Công ước La Hay năm 1996 đã được 53 quốc gia phê chuẩn (tính đến ngày 24/2/2021). Việt Nam đã chính thức được công nhận là thành viên đầy đủ thứ 73 của Hội nghị này từ ngày 10/4/2013 nhưng hiện nay vẫn chưa gia nhập Công ước. Nguồn: https://www.hcch.net/en/instruments/conventions/status-table/?cid=70, truy cập ngày 10/02/2021.
[4] The Hague Conference on Private International Law (2016), Responses to the Questionnaire Concerning the practical operation of the 1996 Convention of Russian Federation, Permanent Bureau, p.1.
[5] The Hague Conference on Private International Law (2016), Responses to the Questionnaire Concerning the practical operation of the 1996 Convention of Russian Federation, Permanent Bureau, p.2.
[6] Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga thông qua ngày 23/10/2002 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/02/2003.
[7] The Hague Conference on Private International Law (2014), Practical Handbook on the operation of the 1996 Hague Child Protection Convention, Permanent Bureau, p.200.
[8] The Hague Conference on Private International Law (1996), Explanatory Report on the 1996 HCCH Child Protection Convention, Offprint from the Proceedings of the Eighteenth Session (1996), tome II, Protection of children, Permanent Bureau, p.543.
[9] Điều 18 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em quy định: “Cha mẹ, và tùy trường hợp có thể là người giám hộ hợp pháp, có trách nhiệm đầu tiên trong việc nuôi dưỡng và sự phát triển của trẻ em”.
[10] The Hague Conference on Private International Law (2016), Responses to the Questionnaire Concerning the practical operation of the 1996 Convention of Russian Federation, Permanent Bureau, p.2.
[11]Điều 1199 Bộ luật Dân sự Liên bang Nga.
[12] Mai Văn Thắng (2018), Tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ ở Liên bang Nga hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5 (357), tr. 59.
[13] The Hague Conference on Private International Law (2016), Responses to the Questionnaire Concerning the practical operation of the 1996 Convention of Russian Federation, Permanent Bureau, p.5.
[16] Nguyễn Huỳnh Anh và Bùi Thị Mỹ Hương (2019), Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam, http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/cong-nhan-va-cho-thi-hanh-ban-an-quyet-dinh-dan-su-cua-toa-an-nuoc-ngoai-tai-viet-nam-64156.htm, 10/02/2021.
[17] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 344.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 17 (441), tháng 9/2021.)