Các quy định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp và giải pháp hoàn thiện

30/07/2021

NGUYỄN THỊ TUYỂN

Phòng Pháp chế và Chính sách, Cục Sở hữu trí tuệ

 
Tóm tắt: Hiện nay, việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) nói riêng và sở hữu trí tuệ (SHTT) nói chung là một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam vấp phải trong giao thương trên thị trường quốc tế. Việc thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệm đã trở thành rào cản lớn đối với các doanh nghiệp trong việc bảo vệ thành quả đầu tư do chính họ sáng tạo. Từ đó, các dịch vụ hỗ trợ hệ thống bảo hộ SHCN cũng lần lượt ra đời và ngày càng được chú trọng hơn, trong đó phải kể tới dịch vụ đại diện SHCN và dịch vụ giám định SHCN. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ đại diện SHCN và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Từ khóa: Đại diện sở hữu công nghiệp, quy định về dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp.
Abstract:Currently, one of the problems that Vietnamese enterprises facing is the protection and enforcement of industrial property rights in particular and intellectual property rights in general in the international trading market. Lack of legal knowledge, of information and of experience have become major barriers for businesses in protecting their investment results. From which, the protection system support services for industrial property rights have also come out in turn and have been paid more and more attention, including the representative services of industrial property rights and verification services of industrial property rights. This article provides a analysis of the provisions of Vietnamese law on representative services on industrial property rights and also recommendations for further improvements.
Keywords: Representative services of industrial property, legal regulations on representative services of industrial property.
 Quyen-so-huu-cong-nghiep-5.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Trong xu thế tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế thế giới, hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ, trong đó có sở hữu công nghiệp, ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy năng lực đổi mới và đầu tư cho sáng tạo, tạo động lực phát triển khoa học và công nghệ, bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh và công bằng, khai thác mọi nguồn lực tiềm năng trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phát triển của hệ thống bảo hộ SHTT tạo cho các doanh nghiệp ngày càng nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đặt ra không ít thách thức.
Dịch vụ đại diện SHCN ở Việt Nam - một ngành kinh doanh có điều kiện, một dịch vụ pháp lý mang tính chuyên biệt cao đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, đã được hình thành từ những năm 1996. Cho tới nay, hệ thống này đã lớn mạnh lên rất nhiều cả về số lượng cũng như chất lượng[1], chiếm được lòng tin của khách hàng trong và ngoài nước[2] và ngày càng khẳng định được vai trò hết sức quan trọng của mình trong hệ thống bảo hộ SHCN.
   Sự ra đời của Luật SHTT năm 2005 đánh dấu bước phát triển mới, thúc đẩy hoạt động bảo hộ và thực thi quyền SHTT tại Việt Nam. Trải qua hơn 15 năm thi hành, pháp luật dịch vụ đại diện SHCN đã phát huy vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đại diện SHCN trong cả nước, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho hệ thống đại diện SHCN được phát triển, mang lại nhiều giá trị tích cực cho hoạt động xác lập quyền SHCN của cả chủ thể của quyền này, góp phần khuyến khích hoạt động sáng tạo, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hệ thống dịch vụ đại diện SHCN ngày càng khẳng định vai trò hết sức quan trọng trong lĩnh vực SHCN, không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới.
Hiện nay, các vấn đề liên quan đến dịch vụ đại diện SHCN được quy định trong Luật SHTT năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 và năm 2019 (Luật SHTT) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam thông qua việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, làn sóng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng cũng như mục tiêu hướng tới một chính phủ kiến tạo, một số quy định điều chỉnh hoạt động dịch vụ đại diện SHCN của Luật SHTT không còn đáp ứng được yêu cầu, cần được sửa đổi, bổ sung.
1. Về phạm vi hoạt động đại diện SHCN
Điều 151 Luật SHTT quy định:  “1. Dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp bao gồm:
a) Đại diện cho tổ chức, cá nhân trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền về xác lập và bảo đảm thực thi quyền sở hữu công nghiệp;
b) Tư vấn về vấn đề liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền sở hữu công nghiệp;
c) Các dịch vụ khác liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền sở hữu công nghiệp.
2. Đại diện sở hữu công nghiệp gồm tổ chức kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp (sau đây gọi là tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp) và cá nhân hành nghề đại diện sở hữu công nghiệp trong tổ chức đó (sau đây gọi là người đại diện sở hữu công nghiệp)”.
Khoản 1 Điều 28 Luật Luật sư năm 2006 (Luật Luật sư) quy định:“Tư vấn pháp luật là việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. Luật sư thực hiện tư vấn pháp luật trong tất cả các lĩnh vực pháp luật”. Đối chiếu hai điều luật này, có hai cách hiểu sau đây:
Cách hiểu thứ nhất, bất kỳ dịch vụ nào liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền SHCN, điển hình là các dịch vụ đại diện và tư vấn, đều thuộc “dịch vụ đại diện SHCN”; vì vậy, chỉ tổ chức dịch vụ đại diện SHCN mới được thực hiện “tư vấn về vấn đề liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền SHCN”; luật sư (nếu không phải là đại diện SHCN) thì không được tư vấn về vấn đề liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền SHCN, tức là không được tư vấn pháp luật về SHCN. Mục 7 Danh mục các lĩnh vực cá nhân được phép thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, được ban hành theo Quyết định số 97/QĐ-TTg ngày 24/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định phù hợp với quy định nêu trên của Luật SHTT. Theo đó, trong lĩnh vực dịch vụ SHTT có “dịch vụ tư vấn về SHTT (không bao gồm tư vấn liên quan đến thủ tục xác lập và bảo vệ/thực thi quyền SHTT” (Mục 7.3), được xếp độc lập với “dịch vụ đại diện về diện SHTT (bao gồm đại diện, tư vấn và các dịch vụ khác liên quan đến thủ tục xác lập và bảo vệ/thực thi quyền SHTT)” (Mục 7.1).
Cách hiểu thứ hai, nếu không thực hiện tất cả các hoạt động trong quy định nêu trên, chẳng hạn chỉ thực hiện dịch vụ tư vấn mà không thực hiện dịch vụ đại diện thì không bị coi là thực hiện “dịch vụ đại diện SHCN”. Với cách hiểu này, theo Luật Luật sư, luật sư thực hiện tư vấn pháp luật về SHCN không bị coi là vi phạm quy định về đại diện SHCN theo quy định của Điều 151 Luật SHTT.
Như vậy, có thể thấy rằng, giữa quy định về phạm vi dich vụ đại diện SHCN của Luật SHTT với quy định của Luật Luật sư về phạm vi hoạt động của luật sư chưa bảo đảm sự thống nhất. Điều này gây nên những trở ngại nhất định cho hoạt động tư vấn pháp luật về SHCN.
Mặt khác, theo quy định của Điều 134 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS), đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Xét về bản chất, dịch vụ đại diện SHCN là một dạng cụ thể của dịch vụ đại diện theo ủy quyền trong lĩnh vực SHCN. Vì vậy, với tính chất là luật chuyên ngành, Luật SHTT cần quy định theo hướng dịch vụ đại diện SHCN là đại diện cho tổ chức, cá nhân trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền về xác lập và bảo đảm thực thi quyền SHCN, không nên bổ sung thêm hoạt động “tư vấn về vấn đề liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền SHCN”. Điều này đã dẫn đến sự xung đột với các luật chuyên ngành khác, trong đó có Luật Luật sư.
Tác giả cho rằng, để xác định rõ hơn bản chất của dịch vụ đại diện SHCN và tránh mâu thuẫn với quy định trong các văn bản luật khác, khoản 1 Điều 151 Luật SHTT cần được sửa đổi theo một trong hai phương án sau:
Phương án 1: Bỏ các nội dung được quy định tại điểm b và c (dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác); theo đó, khoản 1 Điều 134 BLDS được viết lại như sau: “Dịch vụ đại diện SHCN là việc tổ chức, cá nhân đáp ứng điều kiện hoạt động, thay mặt cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện các giao dịch trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm xác lập và bảo vệ quyền SHCN”.
Phương án 2: Thay cụm từ “tư vấn” bằng cụm từ “chuẩn bị giấy tờ pháp lý” vào điểm b, bỏ điểm c; theo đó, khoản 1 Điều 134 BLDS được viết lại như sau: 1. Dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp bao gồm:
a) Đại diện cho tổ chức, cá nhân trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền về xác lập và bảo đảm thực thi quyền sở hữu công nghiệp;
b) Chuẩn bị các giấy tờ pháp lý liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền sở hữu công nghiệp”.
Quy định này nhăm bảo đảm đưa dịch vụ đại diện SHCN đến gần với dịch vụ giấy tờ pháp lý mà Việt Nam bảo lưu không cam kết mở cửa thị trường trong cam kết gia nhập WTO. Theo hệ thống phân loại CPC của Liên hợp quốc, dịch vụ giấy tờ và chứng thực pháp lý thuộc nhóm 87 phiên bản 1, phiên bản 2 thuộc phân lớp 8213, bao gồm: soạn thảo và chứng thực tài liệu, các dịch vụ pháp lý liên quan đến quyền đối với sáng chế, quyền tác giả và các quyền SHTT khác; soạn thảo và chứng thực tài liệu, giấy tờ và các dịch vụ pháp lý liên quan khác như di chúc, hôn nhân, hợp đồng thương mại, điều lệ doanh nghiệp...” và phù hợp với phân ngành trong hệ thống ngành kinh tế Việt Nam được ban hành theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ngày 06/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ, nhóm 69102 (Hướng dẫn chung và tư vấn, chuẩn bị các tài liệu pháp lý) gồm: dịch vụ hướng dẫn chung và tư vấn, chuẩn bị các tài liệu pháp lý liên quan đến bản quyền, bằng phát minh, sáng chế, quyền tác giả ...
2. Về điều kiện hành nghề dịch vụ đại diện SHCN
Theo quy định của Điều 155 Luật SHTT, cá nhân được phép hành nghề dịch vụ đại diện SHCN nếu có Chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện SHCN và hoạt động cho một tổ chức dịch vụ đại diện SHCN. Để được cấp Chứng chỉ hành nghề thì cá nhân phải đạt yêu cầu tại Kỳ kiểm tra nghiệp vụ đại diện SHCN. Một trong những điều kiện để được dự kiểm tra là cá nhân đó phải có bằng tốt nghiệp đại học (Nghị định số 63/1996/NĐ-CP trước đây yêu cầu phải là tốt nghiệp đại học chuyên ngành pháp lý, kỹ thuật).
Thực tiễn thi hành Luật SHTT cho thấy, kể từ khi có sự thay đổi từ điều kiện “tốt nghiệp đại học chuyên ngành pháp lý, kỹ thuật” sang điều kiện “tốt nghiệp đại học”, tức là chấp nhận tất các các chuyên ngành đào tạo, chất lượng của người đại diện SHCN giảm đã giảm sút, thể hiện ở các điểm sau: (i) số lượng đơn nộp vào Cục SHTT dự kiểm tra nghiệp vụ bị từ chối hoặc phải bổ sung do sai sót về nội dung và hình thức ngày càng nhiều; (ii) khả năng lập luận, trao đổi trực tiếp của người đại diện với cơ quan có thẩm quyền xác lập và thực thi quyền SHCN còn yếu do thiếu hiểu biết về pháp luật cơ bản; (iii) số lượng thí sinh dự thi đầu vào nghiệp vụ đại diện SHCN không đạt yêu cầu tăng lên rõ rệt, trong đó thí sinh không đạt yêu cầu ở hai môn thi pháp luật về SHCN và sáng chế - thiết kế bố trí chủ yếu rơi vào các trường hợp không tốt nghiệp đại học chuyên ngành pháp lý và chuyên ngành kỹ thuật[3]; (iv) kỹ năng viết bản mô tả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp kém.
Mặt khác, theo quy định hiện hành, chỉ có một thuật ngữ chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện SHCN cho những người muốn hành nghề dịch vụ đại diện trong lĩnh vực SHCN. Theo đó, cá nhân được thực hiện dịch vụ với tất cả các đối tượng SHCN bao gồm: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và chống cạnh tranh không lành mạnh. Để được cấp chứng chỉ này, mỗi cá nhân phải trải qua một kỳ thi sát hạch cho tất cả các đối tượng SHCN; trong đó, có những môn không liên quan đến đối tượng mà họ có nhu cầu làm đại diện và thực tế, rất khó để các thí sinh có thể đạt được yêu cầu cho cả 5 môn trong một Kỳ kiểm tra.
Ở các tổ chức dịch vụ đại diện SHCN, để đảm bảo sự chuyên môn hóa, nhiều tổ chức thường phân thành các phòng/ban/nhóm chuyên môn thực hiện việc đại diện đối với từng nhóm đối tượng SHCN (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu,...). Việc phân thành các nhóm chuyên môn như trên phù hợp với nhu cầu đào tạo, tích lũy kinh nghiệm, nâng cao năng lực chuyên môn của người đại diện đối với mỗi lĩnh vực nhất định, nhất là hoạt động đại diện đối với đối tượng có yêu cầu cao về mức độ chuyên sâu như sáng chế. Mặt khác, nhiều tổ chức đại diện, tùy thuộc vào năng lực của người đại diện SHCN hành nghề trong tổ chức đó, chỉ có thể chuyên về một lĩnh vực hoặc sáng chế (gồm sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí là những đối tượng SHCN có tính sáng tạo cao) hoặc chỉ chuyên về nhãn hiệu (gồm nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại…là những đối tượng SHCN có tính xã hội cao). Người đại diện SHCN cũng thường chỉ hành nghề dịch vụ đại diện SHCN đối với một hoặc một số các đối tượng SHCN nhất định, ví dụ như đại diện về sáng chế, đại diện về nhãn hiệu hoặc đại diện về kiểu dáng công nghiệp… Về hiệu quả hoạt động, những cá nhân, tổ chức có uy tín trong lĩnh vực dịch vụ đại diện SHCN cũng chỉ được đánh giá thực sự mạnh về một lĩnh vực hoặc chỉ thiên về sáng chế, kiểu dáng hoặc chỉ thiên về nhãn hiệu.
Điều này cho thấy, quy định về đại diện SHCN chưa phù hợp với thực tế, cản trở người có nhu cầu chỉ hành nghề dịch vụ đại diện SHCN cho một hoặc một số đối tượng sở hữu công nghiệp cụ thể. Thực tế, trong các kỳ kiểm tra nghiệp vụ đại diện SHCN, đa phần những cá nhân chưa qua đào tạo về kỹ thuật khó có thể vượt qua được các môn kiểm tra liên quan đến sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp[4]
Xét về bản chất, đối tượng SHCN có thể chia thành hai nhóm lĩnh vực chuyên ngành: Sáng chế (bao gồm: sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp) và Nhãn hiệu (bao gồm: nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, bí mật kinh doanh, chống cạnh tranh không lành mạnh). Sáng chế, thiết kế bố trí, kiểu dáng công nghiệp là những đối tượng mà trong quá trình thực hiện các nội dung liên quan đến xác lập, thực thi quyền SHCN đòi hỏi người thực hiện không chỉ nắm chắc kiến thức về mặt pháp luật, mà còn phải có những kiến thức chuyên ngành kỹ thuật nhất định. Do đó, những người đại diện cho khách hàng trong xác lập và thực thi quyền SHCN đối với các đối tượng này cần phải đáp ứng cả hai yêu cầu có kiến thức pháp luật và cả kiến thức kỹ thuật chuyên ngành. Những người không trải qua quá trình đào tạo về kỹ thuật chuyên ngành sẽ rất khó để có thể hành nghề dịch vụ đại diện sáng chế. Trong khi đó, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, bí mật kinh doanh và chống cạnh tranh không lành mạnh là những đối tượng không mang tính chất kỹ thuật, cần nhiều tư duy trực quan trong việc đưa ra lập luận và đòi hỏi nhiều về kiến thức pháp luật nên những người đã qua đào tạo về pháp luật, trong đó có pháp luật về SHCN là có thể thực hiện được công việc đại diện SHCN liên quan đến nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại…
Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động đại diện được tách ra theo hai nhánh gồm: đại diện về sáng chế (gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp) và đại diện về nhãn hiệu. Tại một số nước (như Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore), việc kiểm tra nghiệp vụ để cấp chứng chỉ hành nghề chỉ áp dụng đối với đại diện sáng chế, trong khi dịch vụ đại diện về nhãn hiệu được mở cho tất cả các luật sư. Pháp luật một số nước có lịch sử phát triển hệ thống SHTT lâu dài như Anh, Pháp, Đức, Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, hoặc những nước công nghiệp điển hình trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippines, Úc đều quy định tiêu chuẩn về trình độ đối với người muốn được hành nghề dịch vụ đại diện SHTT[5], đó là: có trình độ đại học trở lên hoặc đại học chuyên ngành pháp lý đối với lĩnh vực dịch vụ đại diện nhãn hiệu, chuyên ngành kỹ thuật, pháp lý đối với lĩnh vực dịch vụ đại diện sáng chế. Đây là xu hướng chung mà Việt Nam cần hướng đến khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Từ những phân tích trên đây, tác giả cho rằng, để khắc phục những bất cập trong quy định về điều kiện hành nghề dịch vụ đại diện SHCN, cần sửa đổi khoản 1, 2 Điều 155 Luật SHTT theo hướng không bổ sung thêm vào trong Luật này khái niệm tổ chức đại diện sáng chế, tổ chức đại diện nhãn hiệu, người đại diện sáng chế, người đại diện nhãn hiệu vì sẽ gây rối khi dùng từ trong các quy định mà phân định lĩnh vực kinh doanh, hành nghề của tổ chức, cá nhân theo loại chứng chỉ hành nghề được cấp cho mỗi cá nhân; cá nhân đạt yêu cầu kiểm tra trong nhóm lĩnh vực nào thì được cấp chứng chỉ hành nghề tương ứng với lĩnh vực đó. Cụ thể:
Phương án 1: Quy định cá nhân được cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện SHCN phải có bằng tốt nghiệp đại học đối với trường hợp hành nghề trong lĩnh vực nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh, bí mật kinh doanh; hoặc có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành khoa học kỹ thuật đối với trường hợp hành nghề trong lĩnh vực sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, để phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực và đảm bảo chất lượng đầu ra đối với các cá nhân hành nghề trong lĩnh vực dịch vụ đại diện sáng chế.
Phương án 2: Bổ sung yêu cầu phải có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành pháp lý đối với tất cả các lĩnh vực dịch vụ đại diện SHCN và có thêm bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành khoa học kỹ thuật đối với lĩnh vực dịch vụ đại diện sáng chế để đưa dịch vụ đại diện SHCN gần hơn với dịch vụ giấy tờ pháp lý theo biểu cam kết dịch vụ gia nhập WTO (đòi hỏi người thực hiện dịch vụ này cần có những nền tảng cơ bản về pháp lý để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ đại diện cho khách hàng trước cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong quá trình xác lập và thực thi quyền SHCN, cũng như đảm bảo cho việc chuẩn bị các giấy tờ pháp lý đáp ứng tốt hơn các yêu cầu mà pháp luật đặt ra), phù hợp với nhiều nước tiên tiến trên thế giới như Mỹ, EU (yêu cầu phải tốt nghiệp đại học chuyên ngành pháp lý).
Bên cạnh đó, cần quy định bổ sung ngoại lệ đối với cá nhân có Chứng chỉ hành nghề luật sư, trong trường hợp có lựa chọn môn học về kỹ năng tư vấn pháp luật về SHTT cho doanh nghiệp thì được cấp Chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện SHCN (nếu có yêu cầu) đối với chuyên ngành nhãn hiệu vì những lý do sau:
Thứ nhất, dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp trong lĩnh vực nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, cạnh tranh không lành mạnh không đòi hỏi phải am hiểu về kỹ thuật mà chủ yếu đòi hỏi nắm bắt được các kiến thức pháp lý và vận dụng các quy định của pháp luật vào các tình huống cụ thể nên luật sư (là những người có nền tàng kiến thức pháp lý và có thực tế hoạt động áp dụng luật) có thể đáp ứng được những quy định này. Việc cho phép luật sư được hành nghề đại diện chỉ giới hạn riêng cho nhóm dịch vụ đại diện nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại… là phù hợp với bản chất của các đối tượng SHCN này (việc xác lập quyền chủ yếu dựa trên căn cứ pháp lý mà bản thân luật sư có thể đáp ứng ngay được), không mở rộng cho tất cả các đối tượng khác như sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí, ngoài việc hiểu biết, vận dụng các căn cứ pháp lý, cần phải có kiến thức kỹ thuật thì mới có thể chuẩn bị tốt bộ tài liệu đơn (trong đó, có bản mô tả, yêu cầu bảo hộ, bản vẽ kỹ thuật… là những căn cứ mang tính quyết định để chứng minh và khẳng định đối tượng SHCN đó có đủ điều kiện được bảo hộ hay không).
Thứ hai, hiện nay ở Việt Nam, theo Chương trình chi tiết đào tạo nghề luật sư theo hệ thống tín chỉ được Học viện Tư pháp ban hành trong thời gian gần nhất là Quyết định số 873/QĐ-HVTP ngày 06/7/2017 của Giám đốc Học viện tư pháp thì Môn học « Kỹ năng tư vấn pháp luật về SHTT cho doanh nghiệp » bao gồm phần lý thuyết (Kỹ năng tư vấn pháp luật về SHTT cho doanh nghiệp), tình huống I (Tư vấn xác lập quyền SHTT cho doanh nghiệp) và tình huống II (Tư vấn bảo hộ, thực thi quyền và xử lý xâm phạm quyền SHTT cho doanh nghiệp) được coi là 1 trong 12 môn học tự chọn, tương đương với 15 giờ tín chỉ (1 tín chỉ), nội dung đào tạo này phù hợp với nội dung kiểm tra nghiệp vụ đại diện SHCN mà cơ quan quản lý nhà nước về đại diện SHCN đã và đang tổ chức. Như vậy, chỉ những luật sư lựa chọn môn học này mới thật sự đủ điều kiện để có thể thực hiện các nghiệp vụ đại diện chuyên ngành nhãn hiệu ngay khi được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư.
Thứ ba, nhiều nước trên thế giới quy định luật sư đủ điều kiện hành nghề dịch vụ đại diện SHCN vì bản thân quá trình đào tạo để được trở thành một luật sư, cá nhân đó đã phải trải qua quá trình đào tạo đại học chuyên ngành pháp lý và trải qua khóa đào tạo chuyên sâu nghiêm ngặt. Thực tiễn quá trình đào tạo luật sư của Việt Nam, cá nhân phải trải qua 5 năm đại học về chuyên ngành pháp lý và tham gia khóa đào tạo thực tiễn vận dụng kiến thức pháp lý vào các tình huống cụ thể và để được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư, họ phải trải qua kỳ sát hạch nghiêm ngặt.
3. Về điều kiện kinh doanh dịch vụ đại diện SHCN
Theo quy định của khoản 1 Điều 154 Luật SHTT, để được kinh doanh dịch vụ đại diện SHCN, tổ chức phải là doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, riêng các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam không được phép kinh doanh. Trong khi đó, theo quy định của Luật Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam được phép tư vấn pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật về SHCN. Cụ thể, Điều 70 Luật Luật sư quy định: Chi nhánh, công ty luật nước ngoài hành nghề tại Việt Nam được thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác…”
Như vậy, quy định của khoản 1 Điều 154 Luật SHTT không thống nhất với quy định của Điều 70 Luật Luật sư về điều kiện kinh doanh. Điều nay dẫn đến những ý kiến khác nhau giữa các cơ quan quản lý nhà nước đối với cùng một vụ việc[6].Để khắc phục bất cập này, tác giả cho rằng, cần sửa đổi Luật Luật sư nhằm bảo đảm sự thống nhất với Luật SHTT hoặc sửa đổi Luật SHTT bảo đảm sự thống nhất với Luật Luật sư./.
 

 


[1] Qua số liệu thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ, số lượng các đại diện không ngừng tăng lên, từ con số 05 tổ chức dịch vụ đại diện SHCN vào năm 1996, đến năm 2001 đó tăng lên thành 19 tổ chức dịch vụ đại diện SHCN với 52 người đại diện SHCN và cho tới nay tăng lên tới 220 tổ chức với 369 người đại diện SHCN. Trong số 369 người đại diện SHCN có 283 người được cấp theo chứng chỉ và 86 người cấp theo kinh nghiệm, 105 người được đào tạo ở nước ngoài (chủ yếu là các nước Liên Xô cũ, Tiệp Khắc và Đức), 254 người được đào tạo trong nước, 123 người chuyên ngành kỹ thuật, 155 người chuyên ngành luật, còn lại là những chuyên ngành khác.
[2] Theo số liệu thống kê hằng năm của Cục SHTT, số lượng đơn SHCN nộp đến Cục SHTT thông qua đại diện ngày một gia tăng từ 23.826 đơn (năm 2010), 22.728 đơn (năm 2011), 24.590 đơn (năm 2012), 24.241 đơn (năm 2013), 25.388 đơn (năm 2014), 27.270 đơn (năm 2015), 30.288 đơn (năm 2016), 30.391 đơn (năm 2017), 32.613 đơn (năm 2018), 38.329 đơn (năm 2019) và 36.912 đơn (tháng 11/2020), với tỉ lệ đơn nộp thông qua đại diện trong tổng số đơn nộp đến Cục so với đơn nộp trực tiếp tương ứng là 71,5%, 66,66%, 68,72%, 64,11%, 63,16%, 60,31%, 58,90%, 57,86%, 58,37%, 58,60% và 57,32%.
[3] Theo số liệu thống kê hàng năm của Cục Sở hữu trí tuệ, số lượng thí sinh đạt yêu cầu trong các kỳ kiểm tra 2009, 2011, 2013, 2015, 2017 và 2019 lần lượt là có tới 42/223 (18.83%), 41/148 (27.7%), 2/76 (2.63%), 15/128 (11,7%), 7/253 (2,77%) và 40/238 (16,8%).
[4] Theo số liệu thống kê kỳ kiểm tra nghiệp vụ đại diện SHCN năm 2009 của Cục Sở hữu trí tuệ, trong số 223 thí sinh dự thi (19 thí sinh tốt nghiệp chuyên ngành khoa học, kỹ thuật, 151 thí sinh tôt nghiệp chuyên ngành luật, còn lại là các ngành khác), có 109 thí sinh trượt môn sáng chế, 103 thí sinh trượt môn kiểu dáng công nghiệp. Trong số 19 thí sinh tôt nghiệp chuyên ngành khoa học, kỹ thuật, chỉ có 3/109 thí sinh trượt môn sáng chế - thiết kế bố trí, có 7/103 thí sinh trượt môn kiểu dáng công nghiệp, số thí sinh còn lại đạt điểm khá cao, thậm chí có cả điểm 10).
[5] Cục Sở hữu trí tuệ, Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học “Tổ chức và hoạt động của hệ thống đại diện sở hữu công nghiệp”, 12/2001, tr.35.
[6] Năm 2014, Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam (VIPA) đã gửi đơn kiến nghị lên Thủ tướng Chính phủ đề nghị xử lý vi phạm về SHTT đối với một số tổ chức luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam như Chi nhánh Tư vấn Tilleke & Gibbins đã và đang tiến hành kinh doanh trái phép dịch vụ đại diện SHCN, cụ thể là thực hiện dịch vụ tư vấn về quyền SHCN (đăng ký và thực thi quyền), vi phạm quy định tại Điều 151 và Điều 154 của Luật SHTT (các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại VN không được thực hiện chức năng kinh doanh dịch vụ đại diện SHCN). Tại thời điểm này, Cục SHTT (Bộ KH&CN) cho rằng Chi nhánh Tư vấn Tilleke & Gibbins đã vi phạm các quy định của pháp luật về kinh doanh dịch vụ đại diện SHCN khi thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền SHCN và/hoặc thực hiện các dịch vụ pháp lý khác liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền SHCN, vì theo quy định tại khoản 1 Điều 151 Luật Sở hữu trí tuệ, chữ “bao gồm” được hiểu là chỉ cần thực hiện một trong ba loại công việc nêu tại khoản 1 thì đã bị coi là thực hiện dịch vụ đại diện SHCN và như vậy là đã vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 154 Luật Sở hữu trí tuệ (tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam bị loại trừ, không được phép kinh doanh dịch vụ đại diện SHCN). Trong khi đó, Vụ Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp) cho rằng, quy định nêu tại khoản 1 Điều 151 Luật SHTT cho thấy chữ “bao gồm” được hiểu chỉ khi một tổ chức thực hiện đầy đủ các hành vi nêu tại khoản 1 Điều 151 của Luật Sở hữu trí tuệ, thì mới coi bị là đã thực hiện dịch vụ đại diện SHCN. Hoạt động tư vấn của Chi nhánh Tư vấn Tilleke & Gibbins không vi phạm quy định của pháp luật về kinh doanh dịch vụ đại diện SHCN theo Điều 151, Điều 154 Luật Sở hữu trí tuệ, đồng thời cũng phù hợp với phạm vi hoạt động của tổ chức/chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam, nêu tại Điều 4, khoản 1 Điều 28 và Điều 70 Luật Luật sư.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 07 (431), tháng 4/2021.)