Xác lập và vận hành tín thác cho mục đích từ thiện: Kinh nghiệm từ quốc tế

20/11/2020

THS. LÊ BÍCH THỦY

Trường Đại học Kinh tế Luật, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

Tóm tắt: Tính pháp lý của hoạt động huy động đóng góp cứu trợ không thông qua tổ chức chuyên nghiệp tại Việt Nam gần đây nhận được sự quan tâm lớn từ công chúng. Tại các quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh-Mỹ, một người có thể tách tài sản của mình thành những sản nghiệp khác nhau dưới hình thức tín thác để phục vụ cho nhiều mục đích, trong đó có mục đích từ thiện. Tuy nhiên, những quy tắc luật tài sản hiện hành của Việt Nam không công nhận việc một chủ thể có thể cùng lúc có nhiều hơn một sản nghiệp (trừ một số trường hợp đặc biệt). Do đó, cần thiết lập cơ sở pháp lý để cho phép một chủ thể có thể có và quản lý nhiều sản nghiệp độc lập, miễn là không để các sản nghiệp lẫn lộn vào nhau thông qua sự vận hành của tín thác, nhằm tạo hành lang pháp lý phù hợp cho các hoạt động nêu trên.
Từ khóa: Tín thác, tín thác cho mục đích từ thiện, sản nghiệp.
Abstract: In Vietnam, the legal aspects of the emergency relief donation call taken by unprofessional persons have received a lot of concerns from the public recently. In countries following the Anglo-Saxon legal system, a person (either natural or legal) is entitled to split his/her property into separate patrimonies under the form of trusts to serve various purposes, including charitable ones. However, current property laws of Vietnam have not entitled any persons to possess more than one patrimony (except for some special cases). As a result, it is fundamental to provide adequate legal foundations for a person to be entitled to hold and manage separate independent patrimonies as long as the mentioned estates are not mixed through the adoption of trust.
Keywords: Trust, charitable trust, patrimony (estate).
TỪ-THIỆN.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Đặt vấn đề
Biến đổi khí hậu đang tác động ngày càng lớn đến các quốc gia trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Thiên tai xảy ra ngày càng thường xuyên với sức tàn phá ngày càng tăng. Với tính cách nhân hậu, “tương thân tương ái”, hỗ trợ đồng bào của người dân Việt Nam, nhu cầu có địa điểm tin cậy để trao gửi lòng tin cho các hoạt động thiện nguyện ngày càng trở nên cấp thiết hơn. Thời gian gần đây, từ uy tín cá nhân, một số người đã kêu gọi được sự ủng hộ tài chính rất lớn từ công chúng cho hoạt động từ thiện. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác nhau về tính pháp lý và sự minh bạch của việc huy động và vận hành nguồn tài chính được hình thành từ sự đóng góp của công chúng. Thực tế này cho thấy, sự cần thiết phải xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động huy động đóng góp và vận hành tài chính của các loại quỹ có mục đích từ thiện nhưng nằm trong sản nghiệp của cá nhân hoặc pháp nhân khác ở nước ta hiện nay. Trong điều kiện đó, kinh nghiệm triển khai tín thác hoặc tín thác cho mục đích từ thiện tại các nước Phương Tây là gợi mở hữu ích cho Việt Nam tham khảo.
2. Tín thác cho mục đích từ thiện tại các quốc gia theo luật Anh -Mỹ
2.1. Tín thác
Quan hệ “tín thác” hay “quản lý tài sản ủy thác” (Trust) được xem là một trong những thành tựu nổi bật của pháp luật Anh - Mỹ và được áp dụng rất phổ biến từ rất lâu tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ở các quốc gia theo hệ thống thông luật như Anh, Mỹ, Úc..., tín thác không những được dùng như một công cụ hữu hiệu nhất để xử lý các vấn đề liên quan đến thừa kế, quản lý quỹ hưu trí, đầu tư tài chính, tài sản hôn nhân mà đặc biệt là một công cụ hữu hiệu để quản lý tài sản được trao gửi cho các hoạt động thiện nguyện.
Trong quan hệ tín thác, tồn tại 3 bên (bên lập tín thác, bên nhận tín thác và bên thụ hưởng tín thác) và đòi hỏi sự phân chia quyền sở hữu tài sản rõ ràng giữa bên nhận tín thác (nhận ủy thác quản lý tài sản) sở hữu tài sản về mặt pháp lý, có các quyền chiếm giữ, sử dụng, định đoạt tài sản (nhưng không thụ hưởng lợi ích từ tài sản) và bên thụ hưởng tín thác sở hữu tài sản về mặt lợi ích (có quyền hưởng lợi nhưng không được chiếm giữ, định đoạt vào thời điểm tài sản đang được bên nhận tín thác chiếm giữ). Bên nhận và quản lý tín thác chỉ có thể quản lý tài sản mà không thể hưởng lợi gì từ tài sản, còn bên lập tín thác thì một khi đã đưa tài sản vào tín thác thì không thể thay đổi đòi lại. Ngay khi lập tín thác, các quyền của người lập ra tín thác đối với tài sản không còn nữa mà hành vi này làm phát sinh mối quan hệ pháp lý giữa người nhận tín thác và người hưởng lợi tín thác[1]. Do nắm giữ quyền sở hữu tài sản về mặt pháp lý (legal ownership), bên nhận tín thác có tất cả các quyền của một chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản, bao gồm các quyền chiếm giữ, sử dụng và định đoạt. Tuy nhiên, tất cả các quyền này đều bị hạn chế bởi những điều kiện được quy định tại văn bản xác lập quan hệ tín thác, đồng thời, việc thực hiện tất cả các quyền này đều chỉ phục vụ cho mục đích của tín thác chứ không phục vụ cho lợi ích cá nhân của bên nhận tín thác. Trong mối quan hệ với bên thứ ba, bên nhận tín thác đóng vai trò là chủ sở hữu tài sản và có quyền đối vật đối với tài sản tín thác. Trong khi đó, bên thụ hưởng tín thác có quyền hưởng lợi từ tài sản theo các điều kiện được quy định rõ trong tín thác (quyền sở hữu về mặt lợi ích - equitable ownership)[2]. Sự phân chia thành 2 loại quyền sở hữu này chính là đặc điểm quan trọng nhất của tín thác theo hệ thống pháp luật Anh-Mỹ[3], mang đến 2 hệ quả chính yếu sau đây:
Thứ nhất, tài sản tín thác được tách bạch khỏi tài sản cá nhân của bên nhận[4]; do đó, chủ nợ của bên nhận không thể tác động gì đến tài sản (ví dụ như thu giữ tài sản tín thác trong trường hợp bên nhận bị tuyên bố phá sản và phải thanh lý tài sản)[5]. Tài sản tín thác chỉ tồn tại cho bên thụ hưởng hoặc chỉ phục vụ vì mục đích của tín thác, chứ không liên quan đến chủ nợ của cá nhân bên nhận[6].
Thứ hai, bên thụ hưởng có quyền đối nhân đối với tài sản (yêu cầu các bên liên quan thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ tài sản tín thác đối với mình)[7] và chỉ có bên thứ ba ngay tình mới được bảo vệ[8].
2.2. Tín thác cho mục đích từ thiện (Charitable Trust)
Tại các quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh-Mỹ, lập tín thác đã trở nên một hoạt động quen thuộc của người dân và một người có thể tách tài sản của mình thành những sản nghiệp khác nhau gồm những khoản Có và Nợ riêng, độc lập và không trộn lẫn với nhau để phục vụ cho nhiều mục đích.
Ví dụ, ông A có tài sản 500 tỷ đô la Mỹ kim. Ông ta dùng 100 tỷ lập Tín thác 1 và giao cho người bạn thân B hiện là chủ doanh nghiệp có uy tín, đầu tư, thu lợi nhằm mục đích chi trả cho các chi phí học tập của con gái; 100 tỷ khác đưa vào Tín thác 2, do chính mình quản lý, đầu tư và thu lợi với mục đích chi trả cho các chi phí học tập của con trai; đồng thời, đưa 100 tỷ nữa vào Tín thác 3 cũng do chính mình quản lý (với điều khoản không được đầu tư rủi ro) để chăm sóc bản thân khi già yếu. Như vậy, ông ta đồng thời có 2 sản nghiệp: sản nghiệp dân sự với giá trị Có còn lại là 200 tỷ đô la; sản nghiệp Tín thác 3 với người lập là chính ông A, người quản lý và hưởng lợi cũng là ông ta. Khi công việc kinh doanh của ông A thua lỗ thì các khoản Nợ của ông sẽ được dùng tài sản trong sản nghiệp 200 tỷ để chi trả, còn tài sản trong sản nghiệp 1, 2, 3 không bị ảnh hưởng. Trong trường hợp ông A muốn huy động thêm vốn kinh doanh mạo hiểm thì cũng không thể dùng tài sản 100 tỷ trong sản nghiệp Tín thác 3 được vì điều khoản lập tín thác đã loại trừ khả năng đầu tư rủi ro.
Như vậy, trong trường hợp ông A có nhu cầu tách một phần tài sản cá nhân để dành cho hoạt động từ thiện và huy động thêm đóng góp từ bạn bè hay cộng đồng thì việc hình thành một tín thác riêng cho mục đích từ thiện là hoàn toàn dễ dàng thực hiện. Ông A có thể trực tiếp quản lý các hoạt động của sản nghiệp tín thác này cho các hoạt động thiện nguyện và không lo ngại vấn đề về sự nhập nhằng giữa tài sản của cá nhân ông và tài sản dành cho mục đích từ thiện, cũng không hề có rủi ro nào đối với uy tín của cá nhân ông A. Tín thác loại này được cá nhân lập dễ dàng, không cần thủ tục đăng ký phức tạp, không cần báo cáo tài chính, có sản nghiệp riêng độc lập dù không hề có bất kỳ tư cách pháp nhân gì và cũng không phải là một cá nhân.
Hoạt động từ thiện tại các quốc gia áp dụng tín thác cũng có thể được vận hành dưới hình thức hoạt động của Quỹ Tín thác cho mục đích từ thiện (charitable trust)[9]. Loại Quỹ này cần được đăng ký hoạt động khi mức vận động đạt mức nhất định, có tư cách pháp nhân và phải thỏa mãn một số điều kiện như: phải phục vụ cho lợi ích của cộng đồng (chứ không phải cho một nhóm cá nhân), không được hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và phải báo cáo tài chính thường niên cho ủy ban giám sát cũng như được kiểm toán độc lập … Quỹ tín thác được hội đồng tín thác (Board of Trustees) quản lý. Hội đồng này thường là những người có uy tín, được bầu cử hoặc chỉ định - đại diện cho tập thể tất cả những người đóng góp[10]. Nói chung, Quỹ tín thác là một dạng tổ chức từ thiện chuyên nghiệp và các thành viên trong hội đồng sẽ quyết định dùng số tiền vào mục đích gì, đồng thời là người giám sát ban điều hành hay giám đốc quỹ để bảo đảm những người thực thi trực tiếp sẽ hành xử chuyên nghiệp và thực hiện đúng sứ mệnh đề ra - tức bảo vệ niềm tin của người đóng góp. Như vậy, người góp tiền thực hiện quyền quyết định sử dụng nguồn lực gián tiếp qua lựa chọn đại diện của mình trong hội đồng tín thác.
3. Những gợi mở cho Việt Nam
Tại Việt Nam, hành động lập quỹ từ thiện, vận động, tiếp nhận và sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện cho hoạt động nhân đạo được quy định tại Nghị định số 64/2008/NĐ-CP ngày 14/5/2008 và Nghị định 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019 của Chính phủ. Dưới góc độ pháp lý, hoạt động từ thiện có thể hiểu đơn giản chỉ là việc tặng cho tài sản của người có tài sản với người đang có nhu cầu và các quy định của pháp luật hiện hành đều không cấm hoạt động từ thiện của cá nhân. Tuy nhiên, việc nhận các khoản đóng góp dưới danh nghĩa cá nhân sẽ làm phát sinh một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, khi các khoản đóng góp được chuyển vào tài khoản cá nhân, thì sẽ trở thành một phần sản nghiệp của cá nhân nhận. Trong trường hợp tồn tại chủ nợ có khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn thì chủ nợ có quyền thực hiện các hoạt động nghiệp vụ để sử dụng số tài sản hiện có trong sản nghiệp của bên nhận nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ.
Thứ hai, mặc dù về mặt “tình” thì tài sản được gửi nhờ để chuyển cho các đối tượng cần giúp đỡ nhưng dưới góc độ pháp lý thì tài sản đã được tặng cho người chủ tài khoản và do đó, chủ tài khoản có quyền tùy nghi sử dụng cho dù là trái với nguyện vọng và mục đích của những người đã tặng cho. Ví dụ như, ban đầu cá nhân có thể huy động đóng góp để thực hiện việc xây nhà, xây cầu cho người dân khó khăn nhưng sau đó đã chuyển sang hình thức trực tiếp trao tiền mặt và do đó, trái với mục đích ban đầu.
Thứ ba, mặc dù làm việc tốt nhưng cá nhân nhận đóng góp để đi cứu trợ sẽ vướng vào các nghĩa vụ công khai minh bạch và áp lực giải trình mục đích sử dụng với công chúng.
Thứ tư, một số cá nhân đã quyết định quyên tiền làm từ thiện nhưng sau đó vì một lý do nào đấy đã đòi lại, gây khó khăn và phiền nhiễu cho bên nhận.
Thứ năm, hoạt động từ thiện của các cá nhân thường mang tính bộc phát và tùy tình hình huy động; do đó, các yêu cầu của pháp luật hiện hành về thành lập các quỹ từ thiện, xã hội hay về hoạt động từ thiện… như tài sản đóng góp thành lập quỹ phải đạt mức tối thiểu theo quy định (Điều 14 Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019) hoặc đóng thuế (mục đ khoản 2 Điều 8 Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019) … có thể là một trở ngại lớn khiến các cá nhân ngần ngại không thành lập tổ chức từ thiện.
Về các Quỹ đồng hành với mục tiêu hỗ trợ sinh viên tại một số trường đại học, công tác quản lý và vận hành hiện tại gặp khá nhiều khó khăn do các thủ tục liên quan đến thanh quyết toán. Nguồn tài chính của Quỹ, mặc dù hoàn toàn được các tổ chức, cá nhân đóng góp và không liên quan đến nguồn ngân sách nhà nước được cấp cho nhà trường hoặc các hoạt động dịch vụ của nhà trường, nhưng vì tài sản của Quỹ vẫn nằm trong sản nghiệp của pháp nhân trường nên mọi hoạt động của Quỹ vẫn phải thực hiện theo đúng các quy định của Nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Nhìn chung, luật thực định tại Việt Nam với những quy tắc luật tài sản hiện hành không công nhận việc một chủ thể có thể cùng lúc có nhiều hơn một sản nghiệp (trừ một số trường hợp đặc biệt như khối tài sản riêng và khối tài sản chung của vợ chồng hay trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên), mặc dù trong thực tiễn đã và đang phát triển trên cơ sở hợp đồng[11]. Do đó, rất cần cơ sở pháp lý để cho phép một chủ thể có thể có và quản lý nhiều sản nghiệp độc lập, miễn là không để các sản nghiệp lẫn lộn vào nhau thông qua sự vận hành của tín thác.
Với việc xác lập tín thác, cá nhân huy động đóng góp có thể bảo đảm sự toàn vẹn của tài sản đóng góp khỏi những rắc rối tài chính của bản thân (nếu có), tránh khỏi những phức tạp của nghĩa vụ giải trình (do tín thác vận hành theo mục đích và nguyên tắc được xác định trước), bảo toàn uy tín cá nhân. Ví dụ, liên quan đến những tranh luận về hoạt động huy động đóng góp cứu trợ khẩn cấp và trực tiếp thực hiện cứu trợ (với số tiền huy động được lên đến 150 tỷ VNĐ) cho đồng bào miền Trung của một cá nhân[12] trong thời gian gần đây, nếu có đủ cơ sở pháp lý, người này có thể tách toàn bộ số tiền huy động được vào một tài khoảng riêng, gọi là tín thác, mặc dù mang tên mình với tư cách là chủ sở hữu nhưng lại tách bạch khỏi khối tài sản dân sự của cá nhân. Tín thác này có những người đóng góp là bên lập (settlor), bên nhận là người được tin tưởng giao phó quản lý khối tài sản (trustee) và người dân khu vực bị ảnh hưởng của thiên tai là bên thụ hưởng (beneficiary). Theo những điều khoản được thống nhất trước khi lập tín thác, chủ tài sản chỉ được dùng tài sản trong tín thác cho những mục đích đã được người lập quy định và cho các đối tượng đã được thống nhất tiêu chí trước. Điều này giúp tránh trường hợp tùy tiện sử dụng sai mục đích và giải tỏa các bất đồng về đối tượng nhận cứu trợ, cũng như giúp các bên tránh bị tổn thương do các mầm mống nghi kỵ vì thiếu minh bạch.
Tương tự, sự vận hành của các loại Quỹ đồng hành sinh viên vượt khó sẽ có nhiều thuận lợi hơn nếu những tài sản được đóng góp cho Quỹ cũng như các nghĩa vụ của Quỹ sẽ được đưa vào một sản nghiệp riêng, tách khỏi sản nghiệp của đơn vị sự nghiệp là nhà trường, mặc dù vẫn do nhà trường quản lý, vận hành với tư cách là bên nhận tín thác. Nếu tách Quỹ ra khỏi pháp nhân trường, hay thành lập một Quỹ từ thiện tách khỏi cá nhân (theo luật đã định), có thể Quỹ sẽ không còn có thể thu hút được sự đóng góp tài trợ như ban đầu. Nguyên nhân là do công chúng tin vào uy tín cá nhân của những người nổi tiếng và tin vào uy tín của trường đại học để thực hiện những nguyện vọng, chứ không tin vào một tổ chức từ thiện chuyên nghiệp nào khác.
4. Kết luận
Tinh thần tương trợ đồng bào gặp khó khăn hoạn nạn là một giá trị văn hóa vô giá của dân tộc Việt Nam và cần được gìn giữ, bảo vệ. Việc tạo dựng các cơ sở pháp lý vững chắc có thể giúp củng cố niềm tin và tránh cho các bên liên quan những tổn thương không đáng có. Kinh nghiệm từ các quốc gia tiên tiến cho thấy, các quy định của pháp luật về tín thác có thể giải quyết triệt để những vấn đề thực tiễn tại Việt Nam đang đối mặt liên quan đến vận hành hoạt động từ thiện của cá nhân hay của các đơn vị sự nghiệp công lập. Do đó, những nghiên cứu chuyên sâu về tín thác nói chung và tín thác cho mục đích từ thiện nói riêng nên được tiến hành để từng bước hoàn thiện khung pháp lý của Việt Nam nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu của xã hội và xu hướng hội nhập luật pháp quốc tế của nước ta./.

 


[1] DWM Waters. (1995).The Institution of the Trust in Civil and Common Law. In Académie de Droit International (ed). 252 Recueil des Cours (Martinus Nijhoff, Dordrecht/Boston/London. 113 at 132.
[2] J Garrigues. (1953). Law of Trusts. 2 Am J Comp L 25 at 27; WW Buckland and AD McNair. (2008). Roman Law and Common Law. 2nd ed. Cambridge University Press. At 176-177.
[3] Abdul Hameed Sitti Kadija and De Saram.1946. AC 208, PC with reference to RW Lee. (1931). Introduction to Roman-Dutch Law. 3rd ed. Clarendon Press, Oxford. At 372.
[4] W. W. Buckland and Arnold D. McNair. (1952). Roman and Common Law. Cambridge University Press.
[5] DWM Waters. (1995). The Institution of the Trust in Civil and Common Law. In Académie de Droit International (ed). 252 Recueil des Cours (Martinus Nijhoff, Dordrecht/Boston/London. At 127.
[6] W. W. Buckland and Arnold D. McNair. (1952). Roman and Common Law. Cambridge University Press.
[7] DWM Waters. (1995). The Institution of the Trust in Civil and Common Law. In Académie de Droit International (ed). 252 Recueil des Cours (Martinus Nijhoff, Dordrecht/Boston/London. At 127.
[8]W. W. Buckland and Arnold D. McNair. (1952). Roman and Common Law. Cambridge University Press.
[9] Parks, Charles T., Jr.( 2003). The Charitable Lead Trust: Why It Works Even in a Down Market. Faegre & Benson LLP. Available online at <www.faegre.com/articles/article_840.asp> (accessed November 10th , 2020).
[10] Blackwell, T. E. (1938). The Charitable Corporation and the Charitable Trust. Wash. ULQ24, 1.
[11] Nguyễn Ngọc Điện. (2018). Giáo trình Luật Dân Sự, Tập 1, Nxb. Đại học Quốc gia TP. HCM.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 20 (420), tháng 10/2020.)


Ý kiến bạn đọc