Quy định của pháp luật Nhật Bản về tình trạng khẩn cấp và những gợi mở cho Việt Nam

21/09/2020

CẦM VŨ THẢO NGUYÊN

Hitotusbashi University – Faculty of Sociology

Tóm tắt: Tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội được thiết lập khi xảy ra tình huống bất thường, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân cũng như hoạt động bình thường của xã hội, như dịch bệnh, thiên tai, bạo loạn… Việc tuyên bố tình trạng khẩn cấp giúp chính quyền nhanh chóng lập lại trật tự, giúp người dân nhanh chóng ổn định lại cuộc sống. Bên cạnh đó, việc ban bố tình trạng khẩn cấp lại có khả năng làm ảnh hưởng đến nền pháp quyền và các quyền con người. Vì vậy, Hiến pháp và pháp luật cần phải có quy định chặt chẽ về vấn đề này. Bài viết phân tích quy định về tình trạng khẩn cấp trong Hiến pháp và pháp luật Nhật Bản, những tranh luận của giới luật học về vấn đề này trong bối cảnh Nhật Bản đang nỗ lực đối phó với đại dịch COVID-19, từ đó rút ra những gợi mở cho Việt Nam.
Từ khoá: Tình trạng khẩn cấp, pháp luật Nhật Bản, pháp luật Việt Nam.
Abstract: State of emergency is an extraordinary situation heavily affecting the lives of its citizens as well as the normal functioning of society, such as epidemics, natural disasters, or riots, etc. The declaration of a state of emergency helps the Government quickly restore social order, and help people quickly stabilize their lives. In addition, declaration of state of emergency has the potential to affect the rule of law and human rights. Therefore, the Constitution and laws need to have strict regulations on this issue. This article provide analysis of the legal regulations on the state of emergency in the Japanese Constitution and law under the imperial period and modern era, as well as legal discussions on this issue in the context of COVID-19 pandemic in Japan, and based on that to draw lessons learned ​​for Vietnam.
Key word: State of emergency, laws of Japan, laws of Vietnam
 Tình-trạng-khẩn-cấp-Nhật-bản.jpg
Nhật ban bố tình trạng khẩn cấp trên toàn quốc nhằm nỗ lực ngăn chặn sự lây lan của Covid-19  (Ảnh: ST)
1. Quy định của Hiến pháp Nhật Bản về tình trạng khẩn cấp
Dưới thời phong kiến, Hiến pháp Nhật Bản quy định rõ quyền ban bố tình trạng khẩn cấp thuộc về lãnh đạo tối cao của quốc gia - tức Thiên hoàng. Điều 8 Hiến pháp Nhật Bản năm 1899 quy định: “Để bảo đảm sự an toàn của cộng đồng khỏi thảm hoạ, tai ương, trong trường hợp Quốc hội không họp được, dựa trên nhu cầu cấp thiết, Thiên hoàng có quyền ra sắc lệnh về tình trạng khẩn cấp. Sắc lệnh này có hiệu lực tạm thời như luật, và phải được trình lên Quốc hội trong kỳ họp kế tiếp. Nếu Quốc hội không thông qua sắc lệnh này, Chính phủ phải thông báo huỷ bỏ hiệu lực ngay sau đó”. Dựa trên sắc lệnh về tình trạng khẩn cấp, Chính phủ có thể ban bố việc thiết quân luật và các biện pháp ứng phó tạm thời[1].
Điều 14 Hiến pháp Nhật Bản năm 1899 quy định, quyền thiết quân luật – lệnh giới nghiêm thuộc Thiên hoàng. Đặc biệt, Điều 31 quy định: “các quyền lợi, nghĩa vụ của người dân, trong trường hợp đất nước xảy ra chiến tranh hoặc biến cố” sẽ bị giới hạn để “không làm cản trở đến đại quyền của Thiên hoàng”[2]. Ngoài ra, Hiến pháp Nhật Bản năm 1899 còn quy định về quản lý tài chính trong tình trạng khẩn cấp (Điều 70)[3].
Từ khi Hiến pháp Nhật Bản năm 1899 ra đời đến năm 1946, Nhật Hoàng đã ban hành  tổng cộng 108 sắc lệnh về tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 đã không còn bao hàm bất cứ quy định nào liên quan đến tình trạng khẩn cấp.
Trên thực tế, những tranh luận xung quanh sự cấp thiết phải quy định về việc ban hành tình trạng khẩn cấp mới chỉ xuất hiện khoảng 2 thập kỷ gần đây. Năm 1996, giáo sư Takeshi Tominaga  viết bài đăng trên Tạp chí Tổng hợp luận án Hiến phápcủa Hội nghiên cứu Hiến pháp Kansai [4], trong đó khẳng định: “Hiến pháp hiện hành chưa có những quy định về quyền công bố tình trạng khẩn cấp quốc gia, rất may mắn rằng, trong thực tế, việc thực thi quyền công bố tình trạng khẩn cấp quốc gia vẫn chưa bao giờ trở thành vấn đề”[5].
Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 2005 do Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản (Liberal Democratic Party of Japan - LDP) trình Quốc hội cũng không có điều khoản nào về quyền công bố tình trạng khẩn cấp quốc gia. Chỉ đến năm 2012, sau khi xảy ra thảm hoạ động đất sóng thần Tohoku, bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do LDP trình bày mới lần đầu đề cập đến việc “xây dựng hệ thống ứng phó tình trạng khẩn cấp minh bạch, trên cơ sở Hiến pháp”[6]. Bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 2012 đã đề xuất bổ sung hai điều mới: Điều 98 - Ban bố tình trạng khẩn cấp; Điều 99 - Hệ quả của việc ban bố tình trạng khẩn cấp. Hai điều này đã trở thành vấn đề gây tranh cãi đến tận bây giờ. Điều 98 quy định: Quyền ban bố tình trạng khẩn cấp thuộc về người đứng đầu Nội các, được thực hiện sau khi thông qua Nội các, trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành[7]. Điều 99 quy định: Trong tình trạng khẩn cấp, Nội các có quyền ban hành nghị định có hiệu lực như luật. Ngoài ra, Thủ tướng có quyền sử dụng các gói tài chính cho ứng cứu và các khoản chi tiêu cần thiết; quyền chỉ đạo chính quyền địa phương trong việc ứng phó tình trạng khẩn cấp[8]. Các văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tình trạng khẩn cấp, sau này, cần phải được Quốc hội phê chuẩn; trong thời gian diễn ra tình trạng khẩn cấp, Quốc hội sẽ không bị giải tán (khoản 2 và 4 Điều 99)[9].
Những đề xuất nêu trên của LDP có nhiều nét tương đồng so với quy định trong Hiến pháp ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo phân tích của Phó Giáo sư Kenneth Mori McElwain, Đại học Tokyo, có hơn 66.1% Hiến pháp ở các nước trao quyền ban bố tình trạng khẩn cấp cho người đứng đầu chính phủ (Thủ tướng hoặc Tổng thống); 53.8% Hiến pháp yêu cầu việc ban bố tình trạng khẩn cấp cần được sự đồng ý của Quốc hội; 18.8% yêu cầu không được giải tán Quốc hội trong thời gian diễn ra tình trạng khẩn cấp[10]. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa Nhật Bản với các nước khác ở chỗ, Thủ tướng Nhật Bản ban bố tình trạng khẩn cấp “dựa trên cơ sở luật pháp hiện hành”, tức dựa trên cơ sở các văn bản luật khác mà không phải căn cứ vào Hiến pháp. Trên thế giới, chỉ có khoảng 6.5% quốc gia quy định như  Nhật Bản[11].
Ngoài ra, khoản 3 Điều 99 quy định, trong thời gian diễn ra tình trạng khẩn cấp, mọi người phải chấp hành các quy định do cơ quan nhà nước ban hành để bảo vệ tính mạng, thân thể và tài sản của cá nhân. Trong trường hợp này, quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền bất khả xâm phạm thân thể; quyền tự do tư tưởng, quyền tự do ngôn luận, xuất bản, hội họp, thành lập công ty, tự do hiệp hội cũng như các quy định khác trong Hiến pháp về nhân quyền vẫn được tôn trọng đến mức tối đa”[12].
   Tranh luậnvề sự cần thiết phải quy định về tình trạng khẩn cấp trong Hiến pháp Nhật Bản
Xoay quanh việc Hiến pháp hiện hành của Nhật Bản không quy định về việc ban bố tình trạng khẩn cấp, các học giả, chính trị gia và giới truyền thông nước này có ý kiến rất khác nhau. Giáo sư Takeshi Tominaga chia các ý kiến đó thành hai trường phái: trường phái phủ định và trường phái thừa nhận[13].
Trường phái phủ định cho rằng, Hiến pháp hiện hành của Nhật Bản không công nhận quyền công bố tình trạng khẩn cấp quốc gia. Trường phái phủ định còn được chia ra làm hai nhánh: nhánh thứ nhất cho rằng, việc không công nhận quyền công bố tình trạng khẩn cấp quốc gia là sự thiếu sót lớn của Hiến pháp (thuyết khiếm khuyết); nhánh thứ hai cho rằng, quyền công bố tình trạng khẩn cấp không cần thiết, do đó đánh giá cao Hiến pháp hiện tại (thuyết phủ nhận).
Thuyết khiếm khuyết được nêu lên bởi giáo sư, nhà nghiên cứu Hiến pháp Yoshio Onishi. Ông cho rằng, “yêu cầu cơ bản của chủ nghĩa lập hiến là thực hiện quyền lực trên cơ sở Hiến pháp. Ngay cả trong trường hợp đặc biệt, khi quốc gia gặp phải vấn đề khẩn cấp, thì khi đó, việc thi hành quyền lực ngoại lệ cũng cần phải tuân thủ theo một nguyên tắc nhất định, như vậy, mới có thể dự đoán được phạm vi ảnh hưởng của cũng như giới hạn của nó”[14] . Hội đồng Thẩm định Hiến pháp do Chính phủ Nhật Bản thành lập cũng cho rằng, một trong những khiếm khuyết lớn nhất của Hiến pháp hiện hành là việc không có điều khoản nào quy định về cách xử lý trường hợp đất nước trong trường hợp khẩn cấp khác thường” [15].
Trái với thuyết khiếm khuyết, thuyết phủ nhận cho rằng, quyền công bố tình trạng khẩn cấp quốc gia là “một phần không thể thiếu của chế độ quân chủ dưới thời Hiến pháp Minh Trị”[16], nhưng hiện nay, Nhật Bản đã bãi bỏ chủ nghĩa quân chủ, lập nên bản Hiến pháp dân chủ. Vì vậy, việc Hiến pháp không quy định về quyền công bố tình trạng khẩn cấp quốc gia cũng là một cách để bảo vệ nền dân chủ. Do đó, việc Hiến pháp không quy định về quyển công bố tình trạng khẩn cấp không phải là khiếm khuyết của Hiến pháp; trái lại, đó là bằng chứng tích cực nhất cho thấy nước Nhật đã rút ra bài học từ những kinh nghiệm lịch sử của mình để loại bỏ những  tiêu cực của chế độ cũ còn sót lại[17].
Trường phái thừa nhận – thuyết dung nhận cho rằng, việc đưa quyền công bố tình trạng khẩn cấp quốc gia vào Hiến pháp là không cần thiết, bởi lẽ trên thực tế, việc này nên được coi như một “luật bất thành văn”. Giáo sư Takayanagi Kenzou Đại học Tokyo, đại diện của trường phái này, cho rằng: “Khi phát sinh tình trạng khẩn cấp thì một quốc gia có chủ quyền phải ngay lập tức thực hiện các biện pháp xử lý khẩn cấp, bất kể điều đó có được quy định trong Hiến pháp hay không, đây là một nguyên lý bất thành văn mà ai cũng công nhận”.
Các học giả theo thuyết dung nhận còn cho rằng, việc chỉ sau khi có quy định cụ thể trên Hiến pháp thì quốc gia mới có thể ứng phó với các tình huống khẩn cấp mới chính là vấn đề đáng báo động; bởi lẽ, chúng ta không thể dự đoán hết được những tình huống nào có thể xảy ra trong tương lai, do đó, không thể xây dựng một cơ chế phản ứng đầy đủ và sẵn sàng cho bất kỳ thử thách nào. Trong trường hợp đó, sự lựa chọn thích hợp nhất là để lực lượng chức năng tuỳ cơ ứng biến, theo nguyên tắc, lấy việc bảo vệ các quyền và tự do cá nhân làm cốt lõi. Mặt khác, quy định cứng của pháp luật có thể lại tạo ra khe hở cho việc lạm dụng quyền lực.
2. Quy định của pháp luật Nhật Bản về tình trạng khẩn cấp
Trong hệ thống pháp luật của Nhật Bản, tình trạng khẩn cấp được quy định ở các văn bản sau đây:
   - Luật Lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Điều 76 về điều động quốc phòng cho phép Thủ tướng có quyền ra lệnh điều động Lực lượng phòng vệ  khi quốc gia bị tấn công vũ lực hoặc có nguy cơ bị tấn công vũ lực từ bên ngoài, hoặc trong trường hợp nước đồng minh thân cận bị tấn công vũ lực có nguy cơ ảnh hưởng đến Nhật Bản. Quyết định của Thủ tướng phải được Quốc hội thông qua trước khi có hiệu lực, và việc sử dụng vũ lực chỉ để tự vệ.
Điều 78 Luật cho phép Thủ tướng điều động Lực lượng phòng vệ đến bảo vệ an ninh ở khu vực trong trường hợp cảnh sát không đủ khả năng duy trì trật tự. Quyết định này cũng cần được Quốc hội thông qua.
- Điều 71 Luật Cảnh sát về các biện pháp xử lý đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp quy định: Trong trường hợp xảy ra thiên tai hoặc tình trạng rối loạn trên quy mô lớn, Thủ tướng có thể tuyên bố tình trạng khẩn cấp ở một khu vực hoặc trên toàn bộ đất nước.
- Luật Chính sách cơ bản về phòng chống thảm hoạ thiên tai tại Điều 105 quy định: Khi có các thảm hoạ thiên tai xảy ra, Thủ tướng có thể tuyên bố về tình trạng khẩn cấp ở một khu vực hoặc trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia; ban hành quyết định di tản, xây dựng cơ sở y tế tạm thời, cứu nạn cũng như nhận viện trợ từ nước ngoài.
- Luật Các biện pháp đặc biệt đối phó với các loại virus cúm mùa chủng mới năm 2013. Văn bản này quy định về những biện pháp phòng tránh cũng như điều trị cho bệnh nhân khi có sự xuất hiện của một chủng virus cúm mùa mới lây lan nhanh trên toàn quốc và có nguy cơ trở nên nguy hiểm cho tính mạng con người, gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế. Luật này cho phép Chính phủ thực hiện những đối sách phù hợp, trong đó bao gồm cả việc ban bố tình trạng khẩn cấp cho một vùng hoặc toàn lãnh thổ. Luật này được sửa đổi, bổ sung vào ngày 13/3/2020 để cho phép ứng phó với dịch COVID-19 như một virus cúm mùa chủng mới[18].
   Tuy nhiên, những quy định hiện nay về tình trạng khẩn cấp không làm vơi đi nỗi lo lắng của dự luật xã hội Nhật Bản về sự “đầy đủ” và “kín kẽ” của các quy định này. Dư luận xã hội Nhật Bản đặt ra câu hỏi là liệu rằng, trong trường hợp diễn ra tình trạng khẩn cấp, với những quy định nêu trên, Chính phủ Nhật Bản có thể hành động nhanh đến đâu để bảo vệ người dân của mình mà không động chạm đến các vấn đề nhân quyền? Đặc biệt, trong bối cảnh diễn ra đại dịch Covid-19, Nhật Bản cần áp dụng các biện pháp khẩn cấp mạnh mẽ nhằm phòng, chống dịch bệnh.
Trả lời trước báo chí sau khi Luật sửa đổi Luật Các biện pháp đặc biệt đối phó với các loại virus cúm mùa chủng mới được thông qua, Bộ trưởng Bộ Tái tăng trưởng kinh tế Nishimura Yasutoshi cho rằng: “Sẽ có những biện pháp được đưa ra mà trong đó sẽ gây ảnh hưởng đến các quyền tự do cá nhân, chính vì thế, Chính phủ mong muốn hạn chế sử dụng những biện pháp đó, nếu buộc phải sử dụng thì Chính phủ sẽ lựa chọn ở mức độ tối thiểu”[19]. Dù vậy, vẫn có nhiều người bày tỏ quan điểm quan ngại đối với việc sử dụng quyền hạn của Chính phủ trong trường hợp khẩn cấp, cũng như  yêu cầu Chính phủ phải minh bạch trong quá trình ra quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp, có trách nhiệm lưu giữ đầy đủ những ghi chép về nội dung các cuộc họp trước khi dẫn đến quyết định này.
Ngày 7/4/2020, lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản ra tuyên bố về tình trạng khẩn cấp áp dụng cho 7 tỉnh thành phố lớn là Tokyo, Kanagawa, Saitama, Chiba, Osaka, Hyogo và Fukuoka. Trong khoảng thời gian một tháng hiệu lực của tình trạng khẩn cấp, người dân ở 7 tỉnh này được khuyến cáo không nên ra đường nếu không cần thiết, mọi hoạt động vui chơi đều bị huỷ bỏ, bảo tàng, trường học được yêu cầu đóng cửa, một số nhà hàng, quán ăn cũng được yêu cầu dừng hoạt động hoặt rút ngắn giờ làm... Tất cả những hoạt động này nhằm hạn chế đến mức tối đa những tiếp xúc giữa người với người. Thủ tướng Abe cho biết mục tiêu của quyết định này là nhằm giảm ít nhất 70 đến 80 phần trăm sự tiếp xúc thông thường[20].
Với việc đưa ra những quy định nêu trên, nhiều quyền hiến định của công dân Nhật Bản đã bị giới hạn đến một mức độ nhất định. Tuy nhiên, trong tuyên bố và các quy định về tình trạng khẩn cấp, Chính phủ Nhật Bản mới chỉ dừng ở mức độ “yêu cầu” chứ chưa phải là “bắt buộc ” thực hiện. 
Thực tế nêu trên cho thấy sự thận trọng của Chính phủ Nhật Bản trong bối cảnh hiện tại. Khi mà chưa có quy định rõ ràng trong Hiến pháp, Chính phủ không đưa ra những quyết định mạnh, kể cả trong những trường hợp được coi là khẩn cấp. Ở một góc độ khác, điều này còn cho thấy, xã hội Nhật Bản, sau những kinh nghiệm rút ra từ chế độ quân chủ, đã rất quan tâm đến việc bảo vệ các quyền con người.
3.      Những gợi mở cho Việt Nam
Từ phân tích những quy định và thực tiễn áp dụng quy định về tình trạng khẩn của Nhật Bản có thể rút ra những gợi mở sau cho Việt Nam:
Thứ nhất, tình trạng khẩn cấp có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức. Vì vậy, để bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân, cần một hệ thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp toàn diện, rõ ràng và chặt chẽ: Bất kể những quy định đó có thể được nêu trong Hiến pháp hay tại các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp, chúng cần phải bao gồm: các trưởng hợp được ban bố tình trạng khẩn cấp, những chủ thể có thẩm quyền liên quan, thời gian hiệu lực cũng như phạm vi ảnh hưởng.
Thứ hai, mọi quyết định liên quan đến tình trạng khẩn cấp cần có sự chuẩn thuận của Quốc hội. Trong trường hợp Quốc hội không họp được, chủ thể có thẩm quyền, dựa trên tính cấp bách của vấn đề, ra quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, quyết định đó cần nhận được sự phê chuẩn của Quốc hội tại kỳ họp sớm nhất được tổ chức. Trong suốt thời gian diễn ra tình trạng khẩn cấp, Quốc hội không thể bị giải tán.
Thứ ba, cần công khai, minh bạch mọi quyết định liên quan đến tình trạng khẩn cấp. Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, phương tiện truyền thông khác, chính quyền cần thông báo nội dung các quyết định liên quan đến tình trạng khẩn cấp với người dân một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời.  
Thứ tư, cần xây dựng một thiết chế độc lập, minh bạch để giám sát mọi quyết định liên quan đến tình trạng khẩn cấp, trong đó Toà án cần đóng một vai trò quan trọng./.
           
 

 


[1] Theo 大日本帝国憲法 The constitution of the Empire of Japan – 日本国会図書館 National Diet Library, dịch bởi tác giả.
[2] Như trên.
[3] Như trên.
[4] 『憲法論叢』第3号、関西憲法研究会、1996年6月.
[5] 富永健(1996)「日本国憲法には緊急権に関する規定が存しないだけでなく、幸いにも現実に緊急権の行使が問題になることはなかった」、『憲法論叢』第3号 p.72.
[6] 日本自由民主党(2012)「緊急事態に対処するための仕組みを、憲法上明確に規定しました」、自民党による日本憲法改正草案Q&A question No.39, p.32 https://jimin.jp-east-2.storage.api.nifcloud.com/pdf/pamphlet/kenpou_qa.pdf .
[7] Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản 2012日本国憲法改正草案,dịch bởi tác giả.
[8] Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản 2012日本国憲法改正草案,dịch bởi tác giả.
[9] Như trên.
[10] Kenneth Mori McElwain, “Using Constitutional Data to Understand “State of Emergency” Provision”, University of Tokyo 02/05/2017.
[11] Kenneth Mori McElwain, “Using Constitutional Data to Understand “State of Emergency” Provision”, University of Tokyo 02/05/2017.
[12] Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản 2012, 日本国憲法改正草案, dịch bởi tác giả.
[13] 『憲法論叢』第3号、関西憲法研究会、1996年6月.
[14] 大西芳雄(1975)「あらゆる権力の行使をあらかじめ法の定めたルールに従って運用することが立法主義の基本的要求である。国家非情の場合の例外的権力をもあらかじめ定めたルールに従ってそのやり方と範囲が予見され、その限界が予想されなければならない」、『憲法の基本理論』、p.222; dịch bởi tác giả.
[15] 日本憲法調査会(1964)「現憲法の最大欠陥の一つは、国家の非常事態に対する処置が全く講ぜられていない点である」『憲法調査会における各委員の意見』Dịch bởi tác giả
[16] 小林直樹(1979)「明治憲法の緊急権が軍権絶対のイデオロギーと不可分であった」、『国家緊急権―非常事態における方と政治』、p.181; dịch bởi tác giả.
[17] Như trên, 「憲法が緊急権規定を持たなかったのは憲法の欠缺でも欠陥でもなくて、旧体制の経験の考え見てその遺物を払拭するという過去の対するネガティブな側面…を有すると言わねばなるまい」
[18] 内閣法制局(2020)「新型コロナウイルス感染症の発生及びそのまん延により国民の生命及び健康に重大な影響を与えることが懸念される状況に鑑み、この法律の施行の日から起算して二年を超えない範囲内において政令で定める日までの間、新型コロナウイルス感染症を新型インフルエンザ等対策特別措置法に規定する新型インフルエンザ等とみなし、同法に基づく措置を実施する必要がある。これが、この法律案を提出する理由である」; https://www.clb.go.jp/contents/diet_201/reason/201_law_046.html.
[19] 『<新型コロナ>改正特措法が成立 きょう施行 「緊急宣言」可能に、国民の自由制限も』東京新聞2020年3月14日.
[20] 安倍首相「人と人の接触を7割か8割削減することが前提だ」緊急事態宣言発出後の記者会見 2020年4月7日.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 12 (412), tháng 6/2020.)


Ý kiến bạn đọc