Quyền tiếp cận thông tin dịch bệnh Covid – 19

16/06/2020

THS. DƯƠNG VĂN QUÝ

Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tại tỉnh Đắk Lắk.

 
Tóm tắt: Dịch bệnh Covid - 19 là bệnh truyền nhiễm nhóm A, nguy cơ ở mức độ khẩn cấp toàn cầu. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin dịch bệnh là một trong những nguyên tắc hàng đầu trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Bài viết phân tích nội dung quyền tiếp cận thông tin về dịch bệnh Covid – 19 ở nước ta hiện nay.
Từ khóa: Quyền tiếp cận thông tin; dịch Covid – 19.
Abstract:The Covid - 19 is a communicable disease in category A as a global emergency risk. Ensuring the right to access to disease information is one of the crucial principles in the prevention and control of infectious diseases. This article provides analysis of the contents of the right to information access on Covid-19 in our country.
Keywords: Right of information access; Covid - 19
 
1. Cơ sở pháp lý của quyền tiếp cận thông tin dịch Covid - 19
Tiếp cận thông tin (TCTT) là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin[1]. Ngày 11/3 (tối 11/3 theo giờ Việt Nam), Tổ chức Y tế thế giới đã chính thức tuyên bố sự bùng phát của dịch bệnh Covid - 19 gây ra là đại dịch toàn cầu[2]. Vì dịch bệnh Covid-19 là một căn bệnh bùng phát và lây lan trên phạm vi toàn thế giới nên khi xem xét cơ sở pháp lý quyền TCTT dịch bệnh Covid -19, phải dựa trên hai phương diện: quốc tế và Việt Nam.
 
phan-biet-cum-va-covid-2.jpg
Thứ nhất, về phương diện quốc tế, quyền TCTT được ghi nhận là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị. Đó chính là các quyền tự do thông tin được ghi nhận trong hai văn kiện pháp lý quốc tế của Liên hợp quốc là Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Theo Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, mọi người có quyền TCTT mà các cơ quan công quyền nắm giữ, các thông tin đó bao gồm cả các dạng hồ sơ như về hình thức lưu trữ, nguồn tin và ngày xác lập. Quyền TCTT bao gồm quyền của truyền thông được tiếp cận thông tin về các vấn đề công, quyền của công chúng nói chung được tiếp nhận sản phẩm truyền thông, quyền của cá nhân được biết các cơ quan công quyền, cá nhân hay tổ chức nào kiểm soát, có thể kiểm soát dữ liệu cá nhân của mình (khổ 18). Với đặc điểm là một đại dịch toàn cầu, thì tất cả mọi người đều được quyền TCTT liên quan đến dịch bệnh Covid - 19 để cùng thực hiện các giải pháp, nhiệm vụ phòng, chống dịch bệnh chung.
   Thứ hai, ở phương diện pháp luật Việt Nam: Pháp luật Việt Nam hiện nay cơ bản ghi nhận đầy đủ quyền TCTT của công dân.
- Quyền TCTT được văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25). Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh”. Quyền TCTT là quyền cơ bản của công dân, là cơ sở để thực hiện các quyền khác của công dân. Khi công dân được thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời về dịch bệnh sẽ giúp cho họ tự bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho bản thân, có những biện pháp phòng, chống dịch bệnh phù hợp.
- Luật TCTT năm 2016, quy định thông tin liên quan đến lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng phải được công khai (điểm n, khoản 1, Điều 17). Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 cũng xác định, thông tin, giáo dục, truyền thông, giám sát bệnh truyền nhiễm là biện pháp chủ yếu trong phòng bệnh. Bên cạnh đó, công khai, chính xác, kịp thời thông tin về dịch cũng là một nguyên tắc trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Qua đó, chúng ta thấy rõ được tầm quan trọng của quyền TCTT là nguyên tắc hàng đầu, biện pháp chủ yếu để phòng ngừa dịch bệnh.
2. Quyền tiếp cận thông tin dịch bệnh Covid - 19 ở Việt Nam hiện nay
   Thứ nhất, trách nhiệm cung cấp thông tin: Điều 12 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 quy định trách nhiệm thông tin về phòng, chống bệnh truyền nhiễm như sau:
1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
2. Bộ Y tế có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp chính xác và kịp thời thông tin về bệnh truyền nhiễm.
3. Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng thường xuyên thông tin, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm, lồng ghép chương trình phòng, chống bệnh truyền nhiễm với các chương trình thông tin, truyền thông khác.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan xây dựng nội dung giáo dục phòng, chống bệnh truyền nhiễm kết hợp với các nội dung giáo dục khác.
5. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm cho nhân dân địa phương.
6. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng để thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm trên đài phát thanh, đài truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên báo in, báo hình, báo điện tử theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông. Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm trên các phương tiện thông tin đại chúng không thu phí, trừ trường hợp thực hiện theo hợp đồng riêng với chương trình, dự án hoặc do tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài tài trợ.
Như vậy, chỉ những cơ quan, tổ chức, đơn vị theo quy định trên có thẩm quyền xây dựng, cung cấp thông tin liên quan đến dịch bệnh Covid - 19. Đây là những cơ quan, tổ chức, đơn vị tạo ra thông tin hoặc nhận được thông tin từ các cơ quan nhà nước để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Thông tin từ những cơ quan, tổ chức, đơn vị có được, đều được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước tạo ra thông tin ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản. Đó sẽ là những thông tin chính thức được cung cấp cho người dân. Những thông tin liên quan đến dịch bệnh Covid - 19 không phải do cơ quan, tổ chức, đơn vị nêu trên cung cấp đều là không chính thức.
Thứ hai,chủ thể thực hiện quyền TCTT: Luật TCTT năm 2016 quy định chủ thể thực hiện quyền TCTT là công dân, bao gồm cả công dân Việt Nam đang định cư ở nước ngoài (Điều 4), người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có quyền yêu cầu cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ (khoản 1, Điều 36), Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 quy định mọi người đều được TCTT về phòng, chống bệnh truyền nhiễm (khoản 1, Điều 10). Thực tiễn phòng, chống bệnh dịch Covid - 19 cho thấy, quy định của pháp luật nước ta về quyền TCTT liên quan đến dịch bệnh là hoàn toàn phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của xã hội và người dân.
Thứ ba, nội dung thông tin được tiếp cận bao gồm:
“1. Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
2. Nguyên nhân, đường lây truyền, cách nhận biết bệnh và các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
3. Hậu quả của bệnh truyền nhiễm đối với sức khoẻ, tính mạng con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
4. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm”[3].
Kể từ khi có thông tin dịch bệnh Covid - 19 xảy ra tại Trung Quốc, lây lan ra 18 quốc gia và vùng lãnh thổ đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo, huy động sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, sự tham gia của toàn dân chẳng hạn như chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Công văn số 79-CV/TW ngày 30/01/2020; chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 28/01/2020 về phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona gây ra; Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 31/01/2020 về việc tăng cường các biện pháp phòng, chống trước các diễn biến phức tạp mới của dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona gây ra; Công điện số 121/CĐ-TTg ngày 23/01/2020; Công điện số 156/CĐ-TTg ngày 02/02/2020 về việc tăng cường phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona gây ra; Quyết định số 173/QĐ-TTg ngày 01/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc công bố dịch Covid - 19 trong đó có nêu tên dịch bệnh, thời gian xảy ra dịch; địa điểm và quy mô xảy ra dịch, nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm của dịch, đường lây, các biện pháp phòng, chống dịch, các cơ sở khám, chữa bệnh; Công văn 164/TTg-KGVX ngày 03/02/2020 tăng cường phòng, chống dịch do nCoV gây ra; Chỉ thị số 13/CT-TTg về việc tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống dịch COVID-19 trong tình hình mới; Chỉ thị số 15/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về quyết liệt thực hiện đợt cao điểm phòng, chống dịch Covid – 19, và rất nhiều các chỉ đạo của Bộ Y tế cũng như của các cơ quan liên quan ở trung ương và từng địa phương.
Thứ tư, bên cạnh những thông tin được tiếp cận, pháp luật hiện hành cũng quy định một số giới hạn quyền TCTT. Mục đích của giới hạn này nhằm tránh gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác. Thông tin liên quan đến người mắc bệnh Covid - 19 phải giữ bí mật[4], nên mọi người muốn TCTT của những người này thì phải được sự đồng ý của họ[5]. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người đứng đầu cơ quan nhà nước quyết định việc cung cấp thông tin liên quan đến bí mật cá nhân trong trường hợp cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của luật có liên quan mà không cần có sự đồng ý[6] của người bệnh. Do đó, mọi người mà TCTT của người bệnh khi chưa có sự đồng ý của họ hoặc chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp theo quy định, thì được coi là vi phạm pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Thứ năm, các hành vi bị nghiêm cấm đối với người thực hiện quyền TCTT: Luật TCTT năm 2016 quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với người thực hiện quyền TCTT bao gồm: hủy hoại thông tin; làm giả thông tin; sử dụng thông tin để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại chính sách đoàn kết, kích động bạo lực; sử dụng thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây kỳ thị về giới, gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức; Cản trở, đe dọa, trù dập người yêu cầu, người cung cấp thông tin”[7]. Đây là những hành vi mà các cá nhân (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch) bị nghiêm cấm. Nếu cá nhân nào vi phạm, thực hiện hành vi bị cấm nêu trên thì sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Tùy theo mức độ vi phạm, trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với người vi phạm pháp luật về quyền TCTT có thể là trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự. Một hành vi vi phạm pháp luật có thể chịu một hoặc nhiều loại trách nhiệm pháp lý. Trong đó, trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nặng nhất và nghiêm khắc nhất./.
 

 


[1] Khoản 3, Điều 2 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
[3] Điều 9 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007.
[4] Khoản 3, Điều 33 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007.
[5] Khoản 2, Điều 7 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
[6] Khoản 3, Điều 7 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
[7] Điều 11 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 09 (409), tháng 5/2020.)