Những bất hợp lý trong tổ chức Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và các kiến nghị đổi mới

01/10/2014

ThS. PHAN TRUNG TÚ

Vụ Công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội

Trong những năm qua, bằng tổ chức và hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân(HĐND) cấp tỉnh đã thể hiện được ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, phát huy chức năng giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương, đóng góp vào sự ổn định và phát triển mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng… của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập, hạn chế ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND. Một trong những nguyên nhân đó là cơ cấu tổ chức của HĐND cấp tỉnh chưa thực sự hợp lý. Vì vậy, cần có những giải pháp đổi mới để cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực hiện tốt hơn nữa chức năng nhiệm vụ của mình.
Untitled_313.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Thường trực Hội đồng nhân dâncấp tỉnh  
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 đã quy định Thường trực HĐND cấp tỉnh gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, đến Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Thường trực HĐND được bổ sung thêm chức danh Uỷ viên thường trực. Thực tế cho thấy, việc bổ sung thêm chức danh Uỷ viên thường trực đã tạo điều kiện thuận lợi để bảo đảm tính thường xuyên, liên tục trong hoạt động của Thường trực HĐND nói riêng và của HĐND nói chung trong thời gian giữa hai kỳ họp, thực hiện nguyên tắc làm việc tập thể, quyết định theo đa số. Các nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND cấp tỉnh cũng được bổ sung thêm như: giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương; phê chuẩn kết quả bầu Thường trực HĐND cấp huyện; trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND.
Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005 cũng đã quy định cụ thể hơn trách nhiệm của Thường trực HĐND về các hoạt động như: chuẩn bị, triệu tập kỳ họp HĐND; đôn đốc, kiểm tra và giám sát UBND cùng cấp, các cơ quan khác của Nhà nước ở địa phương thực hiện nghị quyết của HĐND; điều hoà, phối hợp hoạt động các Ban của HĐND; giữ mối liên hệ với đại biểu HĐND; tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân...
Tại kỳ họp thứ nhất nhiệm kỳ 2011-2016, HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã bầu Thường trực HĐND cấp tỉnh, trong đó, chức danh Chủ tịch HĐND có 25 người là Bí thư tỉnh/thành ủy, 28 người là Phó Bí thư tỉnh/thành ủy, 10 người là Ủy viên Ban thường vụ tỉnh/thành ủy; 23 người là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, 02 người là Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng; 14 người là Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH). Về Phó Chủ tịch HĐND, có 39 người là Ủy viên Ban thường vụ tỉnh/thành ủy, 20 người là tỉnh/thành ủy viên. Về Ủy viên thường trực HĐND, có 19 người là Ủy viên Ban chấp hành tỉnh/thành ủy. Việc bố trí cán bộ chủ chốt của Đảng giữ các chức vụ lãnh đạo HĐND cũng đã tăng cường được sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với hoạt động của HĐND cấp tỉnh, nâng cao được vai trò, vị thế, quan hệ công tác và khả năng hoàn thành nhiệm vụ của HĐND các tỉnh, thành phố trong cả nước[1].
Tuy nhiên, tổ chức của Thường trực HĐND cấp tỉnh đang tồn tại một số hạn chế nhất định. Cụ thể là:
Hiện nay, cơ cấu của Thường trực HĐND cấp tỉnh so với UBND cùng cấp chưa cân xứng và phù hợp. UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, do HĐND thiết lập nên nhưng các thành viên lãnh đạo UBND đều được cơ cấu là Ủy viên Ban Thường vụ hoặc Ủy viên Ban chấp hành tỉnh/thành ủy (hầu hết các tỉnh, thành phố bố trí Chủ tịch UBND là Phó Bí thư tỉnh/thành ủy[2]; 1 - 2 Phó Chủ tịch UBND là Ủy viên Ban thường vụ, các Phó Chủ tịch còn lại và thành viên UBND cấp tỉnh được bố trí là Ủy viên Ban Chấp hành); trong khi đó hầu hết vị trí Chủ tịch HĐND cấp tỉnh do Bí thư hoặc Phó Bí thư cấp ủy kiêm nhiệm, nhiệm kỳ này (2011 - 2016) mới có cơ chế Phó Chủ tịch HĐND cấp tỉnh là Ủy viên Ban thường vụ tỉnh/thành ủy; còn các vị trí Ủy viên Thường trực HĐND, Trưởng Ban HĐND không bắt buộc cơ cấu là Ủy viên cấp ủy ở địa phương. Hơn nữa, việc bố trí Thường trực HĐND tham gia cấp ủy chưa có sự thống nhất giữa các tỉnh, thành phố. Việc bố trí thiếu tương xứng về vị thế chính trị là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động của HĐND cấp tỉnh chưa phát huy đầy đủ vị trí, vai trò được pháp luật quy định.
Nhiều địa phương[3] cho rằng, việc quy định chức danh Ủy viên thường trực làm giảm vai trò và hiệu lực trong việc thực hiện nhiệm vụ của HĐND cấp tỉnh. Hơn nữa, việc quy định Thường trực HĐND cấp tỉnh chỉ có 3 người, bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên thường trực như hiện nay chưa đáp ứng đủ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh. Trong thực tế điều hành công việc, tham gia các cuộc họp, thực hiện các nhiệm vụ giám sát… do chỉ có 3 người nên nhiều trường hợp các thành viên Thường trực HĐND cấp tỉnh không thể làm hết các công việc hoặc chất lượng, hiệu quả thực hiện công việc không cao. Thường trực HĐND chỉ có vai trò “điều hòa, phối hợp” mà không có quyền “chỉ đạo” các Ban của HĐND nên có lúc còn thiếu tính thống nhất, gặp khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ.
2. Các Ban của Hội đồng nhân dâncấp tỉnh
Luật 2003 quy định HĐND cấp tỉnh thành lập ba Ban: Ban Kinh tế và Ngân sách, Ban Văn hoá - Xã hội, Ban Pháp chế; nơi nào có nhiều dân tộc thì có thể thành lập Ban Dân tộc. Số lượng thành viên của mỗi Ban do HĐND cấp tỉnh quyết định; thành viên của các Ban của HĐND không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp.
Các Ban của HĐND có những nhiệm vụ và quyền hạn như: tham gia chuẩn bị các kỳ họp của HĐND; thẩm tra các báo cáo, đề án do HĐND hoặc Thường trực HĐND phân công; giúp HĐND giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp; giúp HĐND giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp; báo cáo kết quả hoạt động giám sát với Thường trực HĐND khi cần thiết.
Bên cạnh đó, Quy chế hoạt động của HĐND[4]  đã giành một chương quy định về hoạt động của các Ban của HĐND, trong đó quy định Trưởng ban của HĐND cấp tỉnh có thể làm việc chuyên trách, nếu Trưởng ban làm việc kiêm nhiệm thì Phó Trưởng ban phải làm việc chuyên trách; quy định thời gian mà Trưởng ban hoặc Phó Trưởng ban hoạt động kiêm nhiệm phải dành cho hoạt động của Ban; về công tác phối hợp của các Ban HĐND với các cơ quan liên quan ở trung ương và địa phương; quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của từng Ban…
Trong nhiệm kỳ 2011 - 2016, HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập được 217 Ban HĐND, trong đó có 35 địa phương có 3 Ban; 28 địa phương có 4 Ban (ở địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thành lập thêm Ban Dân tộc). Mỗi Ban của HĐND các tỉnh, thành phố bầu ra từ 1 đến 2 Phó ban, một số tỉnh bầu đến 3 Phó ban ở mỗi Ban (như Sơn La), có địa phương bầu mỗi Ban HĐND có 7 người, có địa phương chỉ có 5 người hoặc 3 người[5]. So với nhiệm kỳ trước đây, số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách ở các Ban của HĐND cấp tỉnh tăng lên. Nhìn chung, thành viên của các Ban của HĐND có năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với lĩnh vực hoạt động, cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra, giám sát của ban.
Tuy nhiên, tổ chức của các Ban HĐND đang tồn tại một số hạn chế nhất định:
Việc bố trí Trưởng ban, Phó Trưởng ban của Đảng kiêm nhiệm Trưởng ban của HĐND cấp tỉnh ở nhiều địa phương tuy có một số thuận lợi nhất định trong công tác lãnh đạo của cấp ủy đảng cùng cấp, nhưng việc bố trí này cũng làm hạn chế hiệu quả hoạt động của các Ban nói chung và người đứng đầu các Ban nói riêng. Do phải tập trung phần nhiều thời gian thực hiện nhiệm vụ công tác đảng, trong khi một số nơi chưa có cơ chế giao quyền cho Phó Trưởng ban, nên có trường hợp hoạt động của các Ban chưa thật chủ động và bảo đảm yêu cầu về nhiệm vụ và về tiến độ thời gian giải quyết công việc.
Các Ban của HĐND cấp tỉnh có các Trưởng ban hoặc Phó Trưởng ban đa phần hoạt động kiêm nhiệm nên chưa dành được nhiều thời gian, tâm huyết cho hoạt động của đại biểu HĐND, chưa tham gia đầy đủ các hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri của các Ban. Nhân sự các Ban của HĐND không ổn định, thường xuyên có sự luân chuyển, phần lớn chưa thực hiện công tác quy hoạch đối với lãnh đạo các Ban của HĐND cấp tỉnh cũng là nguyên nhân làm hạn chế chất lượng hoạt động của các Ban.
Việc Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định thành lập 3 Ban (Kinh tế - Ngân sách, Văn hóa - Xã hội và Pháp chế) làm cho nhiều địa phương, do đặc thù cần thành lập các ban đặc thù của HĐND nhằm góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND (như HĐND TP. Hồ Chí Minh muốn thành lập Ban Đô thị; HĐND TP. Hải Phòng muốn thành lập Ban Cảng biển) thì không có cơ sở để thực hiện.
3. Đại biểu Hội đồng nhân dân  
Luật bầu cử đại biểu HĐND quy định số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh có từ 50 đến 95 đại biểu. Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã có 12 điều quy định về đại biểu HĐND (từ Điều 36 đến Điều 47). Theo các quy định này, đại biểu HĐND nói chung, đại biểu HĐND cấp tỉnh nói riêng là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật và tham gia vào việc quản lý nhà nước. Đại biểu HĐND có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân kịp thời chấm dứt những việc làm trái pháp luật, chính sách của Nhà nước trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc của cán bộ, công chức, nhân viên cơ quan, tổ chức, đơn vị đó; có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước về việc thi hành pháp luật, chính sách của Nhà nước và về những vấn đề thuộc lợi ích chung. Cơ quan hữu quan có trách nhiệm trả lời kiến nghị của đại biểu. Khi đại biểu HĐND yêu cầu gặp người phụ trách của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân thì người đó có trách nhiệm tiếp. Đại biểu HĐND có quyền đề nghị HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu. Đại biểu HĐND có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của HĐND, tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Đại biểu HĐND có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu vì lý do sức khoẻ hoặc vì lý do khác; nếu đại biểu HĐND không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tuỳ mức độ phạm sai lầm mà bị HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm...
Theo kết quả cuộc bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016, cả nước bầu được 3.822 đại biểu HĐND cấp tỉnh. Trong đó, 688 người là dân tộc thiểu số (chiếm 18%); 962 đại biểu nữ (chiếm 25,17%); 231 đại biểu ngoài đảng (chiếm 6,04%); 406 đại biểu trẻ tuổi (chiếm 10,62%); 142 đại biểu tôn giáo (chiếm 3,72%); 941 đại biểu tái cử (chiếm 24,62%); 02 đại biểu tự ứng cử (chiếm 0,05%)[6]. So với nhiệm kỳ 2004 - 2011, cơ cấu, thành phần đại biểu HĐND cấp tỉnh tương đối hợp lý, chú trọng tỷ lệ đại biểu nữ, người ngoài Đảng, trẻ tuổi. Chất lượng đại biểu được nâng lên một bước cả về trình độ, năng lực, uy tín, phẩm chất đạo đức chính trị. Đây là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, phát huy dân chủ đại diện, thực hiện các quan điểm của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ.
 Theo quy định hiện hành, các đại biểu HĐND được bầu ở một hoặc nhiều đơn vị bầu cử hợp thành Tổ đại biểu HĐND. Đây làmô hình phù hợp với tình hình tổ chức và hoạt động của HĐND ở nước ta, trong điều kiện đa số các đại biểu hoạt động kiêm nhiệm. Tổ đại biểu đã góp phần gắn kết hoạt động của từng đại biểu riêng lẻ trong việc thực hiện các nhiệm vụ tiếp công dân, nghiên cứu pháp luật, nghiên cứu tài liệu, tiếp xúc cử tri, thu thập ý kiến và nguyện vọng của cử tri, báo cáo cử tri về kết quả kỳ họp.
Hoạt động của đại biểu HĐND tỉnh, các Tổ đại biểu HĐND tỉnh đã thể hiện được tính hợp lý, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, vẫn còn các bất cập nhất định:
Việc cơ cấu các thành phần của đại biểu HĐND là cần thiết nhằm có được tiếng nói của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, việc lựa chọn người ứng cử đại biểu HĐND cấp tỉnh quá chú trọng vào cơ cấu, ít dựa trên tiêu chuẩn đại biểu, một đại biểu nhiều khi phải ‘‘gánh’’ nhiều “cơ cấu”, như: trẻ tuổi, thành phần dân tộc, ngành, giới... nên đã dẫn đến việc xuất hiện một số đại biểu có năng lực, trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của người đại biểu nhân dân, thiếu kỹ năng hoạt động, yếu về khả năng trao đổi, thảo luận với cử tri những vấn đề mà cử tri quan tâm tại các buổi tiếp xúc cử tri; ít tham gia thảo luận và chất vấn tại các kỳ họp... Hơn nữa, số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách chiếm tỷ lệ thấp, còn có nhiều đại biểu trong khối cơ quan hành chính (như UBND, các sở, ngành) mà chưa có nhiều đại biểu thuộc các khối Đảng, đoàn thể, dẫn đến trong nhiều trường hợp, các đại biểu chưa thực hiện nhiệm vụ một cách công tâm, trách nhiệm cao; có đại biểu ít tham gia các hoạt động của HĐND như giám sát, tiếp xúc cử tri… Một số đại biểu kiêm nhiệm do bận các công việc ở đơn vị công tác nên chưa dành nhiều thời gian thực hiện nhiệm vụ đại biểu HĐND. Có đại biểu tuy nắm bắt được tình hình và nguyên nhân của những vấn đề gây bức xúc cho cử tri, cho xã hội nhưng còn nể nang, ngại va chạm, ít tham gia ý kiến thảo luận, chất vấn tại các kỳ họp HĐND. Thậm chí có đại biểu trong cả nhiệm kỳ chưa một lần tham gia phát biểu tại các kỳ họp.
Bên cạnh đó, công tác quy hoạch cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng nhằm tạo nguồn đại biểu HĐND chưa được quan tâm. Chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao kỹ năng hoạt động cho đại biểu cũng còn nhiều hạn chế. Đa số đại biểu hoạt động theo kiểu kiêm nhiệm, vừa học, vừa làm, đảm trách công việc chuyên môn là chính nên chất lượng hoạt động chưa cao.
 Ở nhiều nơi, hoạt động của các Tổ đại biểu HĐND còn chưa thường xuyên, chưa xây dựng được chương trình, kế hoạch công tác; một số Tổ đại biểu chưa phân công đại biểu tiếp dân, nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị đóng góp ý kiến cho kỳ họp và các hoạt động có liên quan theo quy định.
4. Văn phòng giúp việc cho Hội đồng nhân dân 
Theo Nghị quyết số 545/2007/NQ-UBTVQH12 ngày 11/12/2007 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định thành lập Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cơ sở hợp nhất Văn phòng Đoàn ĐBQH và Văn phòng HĐND các tỉnh, thành phố; có nhiệm vụ tham mưu và tổ chức phục vụ hoạt động của Đoàn ĐBQH, Trưởng Đoàn, Phó trưởng Đoàn ĐBQH, ĐBQH, HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND cấp tỉnh. Trong thời gian qua, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND cấp tỉnh nhận được sự quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn và tạo điều kiện của lãnh đạo Đoàn ĐBQH, Thường trực HĐND, lãnh đạo Ban của HĐND. Nhờ có sự trao đổi thông tin thống nhất trong Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND nên hoạt động của Văn phòng chủ động, tránh sự trùng lắp, nâng cao chất lượng tham mưu, phục vụ cho Đoàn ĐBQH và HĐND. Ở một số địa phương, đồng chí Trưởng Đoàn ĐBQH đồng thời là Chủ tịch HĐND thì Văn phòng có nhiều thuận lợi trong công tác tham mưu phục vụ vì có sự thống nhất cao trong chỉ đạo giữa Đoàn ĐBQH và HĐND.
Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND cũng luôn nhận được sự quan tâm của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Văn phòng Quốc hội, thường xuyên được mời đại diện tham dự các lớp tập huấn, hội thảo, hội nghị hướng dẫn công tác tham mưu, phục vụ cho cán bộ, công tác Văn phòng, góp phần giúp cho cán bộ Văn phòng có thêm những kiến thức, kinh nghiệm trong việc giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động ở địa phương.
Khi hợp nhất, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của Đoàn ĐBQH và HĐND nhiều địa phương được tăng cường. Từ đó, công tác quản lý tài sản, hành chính, quản trị tương đối thuận lợi, tạo được sự thống nhất trong quản trị - hành chính; việc đón tiếp, phục vụ các đoàn công tác đến làm việc tại địa phương khá kịp thời và chu đáo. Ngoài ra, có thể huy động nguồn lực, tăng cường sự phối hợp, hỗ trợ giữa công chức, nhân viên trong văn phòng về nghiệp vụ, giao tiếp trong nội bộ và ngoài cơ quan, hoạt động của tổ chức Đảng và các đoàn thể công đoàn, đoàn thanh niên. 
Nhưng cơ chế tổ chức của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND hiện nay có quá nhiều đầu mối lãnh đạo (lãnh đạo Đoàn ĐBQH, Thường trực HĐND, lãnh đạo Ban HĐND) nên công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động của Văn phòng trong nhiều trường hợp thiếu sự điều hòa, phối hợp. Nghị quyết 545/2007/NQ-UBTVQH12 quy định Văn phòng phải thực hiện chức năng tham mưu, phục vụ cho quá nhiều chủ thể, nên trong quá trình thực hiện, có lúc bị trùng lắp, chồng chéo và chưa kịp thời. Nội dung, tính chất và phạm vi hoạt động của Đoàn ĐBQH và HĐND khác nhau nên Văn phòng khó phân công các nhóm công việc, chưa tạo được sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong Văn phòng. Công tác của Thường trực HĐND và các Ban của HĐND theo các nhiệm vụ, quyền hạn, lĩnh vực khác nhau nhưng chỉ có một Phòng công tác HĐND tham mưu phục vụ chung, nên thiếu tính chuyên sâu, việc theo dõi công tác chưa đảm bảo tính hệ thống, đồng thời không tạo sự gắn kết, hỗ trợ khi cần thiết. Nghị quyết 545/2007/NQ-UBTVQH12 chưa quy định cụ thể “tham mưu” là làm những công việc gì, “phục vụ” làm những công việc gì và như thế nào là “giúp”. Do vậy, cách hiểu và cách làm không thống nhất, ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ và chất lượng, hiệu quả công tác. Bên cạnh đó, do được thụ hưởng từ hai nguồn kinh phí khác nhau và chức năng phục vụ được coi là chính nên Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND gặp rất nhiều khó khăn trong việc sử dụng kinh phí, trong việc xây dựng chế độ chung đối với công chức, nhân viên trong Văn phòng, trong việc sử dụng nguồn kinh phí đối với các hoạt động chung (mua sắm, bảo trì, sửa chữa tài sản, in ấn tài liệu, sử dụng phương tiện đi lại hoặc chi phí tiếp đón các đoàn khách…). Hoạt động của các Chi bộ và các đoàn thể như Công đoàn, Đoàn thành niên, Hội phụ nữ… có những bất cập do việc bố trí công việc đôi khi chồng chéo; cán bộ, chuyên viên công tác ở Phòng công tác ĐBQH nhiều lúc đi công tác, ảnh hưởng đến sinh hoạt chi bộ và đoàn thể. Mặt khác, do nguồn kinh phí tự chủ khác nhau và có hai chủ tài khoản nên mỗi lần Đại hội, hội nghị cán bộ công chức và các tổ chức khác cũng có những khó khăn nhất định[7].
5. Kiến nghị đổi mới cơ cấu tổ chức Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Từ thực trạng tổ chức của HĐND cấp tỉnh nêu trên, để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh, xin được đề xuất một số giải pháp, kiến nghị:
Về thường trực HĐND cấp tỉnh, để đảm bảo hiệu quả hoạt động của Thường trực HĐND cấp tỉnh, cần bố trí Chủ tịch HĐND do Bí thư tỉnh/thành ủy kiêm nhiệm hoặc tốt nhất có thể cơ cấu Phó Bí thư tỉnh/thành ủy làm Chủ tịch HĐND chuyên trách. Cần bỏ chức danh Ủy viên thường trực và bổ sung thêm ít nhất 01 Phó Chủ tịch HĐND cấp tỉnh, trong đó cơ cấu 01 Phó Chủ tịch là Uỷ viên Thường vụ tỉnh/thành ủy; các Phó Chủ tịch HĐND còn lại là tỉnh/thành ủy viên. Bố trí các Trưởng ban và Chánh Văn phòng là thành viên của Thường trực HĐND cấp tỉnh. Quy định Thường trực HĐND là cấp trên của các Ban của HĐND, có nhiệm vụ chỉ đạo hoạt động của các Ban. Có như vậy, trong thực hiện các nhiệm vụ, thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh, Thường trực HĐND mới có thực quyền và điều kiện thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định… Bên cạnh đó, cần lựa chọn người có trình độ, năng lực, uy tín, bản lĩnh chính trị và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn bố trí tham gia Thường trực HĐND cấp tỉnh.
Về các Ban của HĐND cấp tỉnh, cần quy định số lượng tối thiểu thành viên các Ban của HĐND, hạn chế thành viên là cán bộ cơ quan hành chính, tiến tới không bố trí cán bộ trong cơ quan hành chính làm thành viên của Ban. Chú trọng chất lượng các thành viên của Ban, lựa chọn, bố trí những đại biểu có trình độ, năng lực, am hiểu lĩnh vực chuyên môn làm nòng cốt, tăng cường thành viên là trí thức, những người có trình độ chuyên môn ở các cơ quan Đảng, đoàn thể.
Tăng cường số lượng thành viên các Ban của HĐND cấp tỉnh hoạt động chuyên trách, trong đó các Trưởng ban, ít nhất 01 Phó trưởng Ban cần phải được quy định trong Luật là hoạt động chuyên trách; có thể có 1 – 2 Phó trưởng ban hoạt động kiêm nhiệm. Số lượng thành viên của Ban cũng phải tăng thêm, từ đó bố trí tăng thêm thành viên của Ban hoạt động chuyên trách. Cần cơ cấu Trưởng ban của HĐND cấp tỉnh tham gia Ban chấp hành tỉnh/thành ủy.
Thành lập thêm các Ban của HĐND theo đặc thù của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Có thể quy định ‘‘mở’’, căn cứ đặc thù tình hình của địa phương để cho phép HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập thêm các Ban của HĐND nhằm đảm bảo thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của HĐND. Bên cạnh đó, cần có quy hoạch nguồn chuyên trách ở các Ban của HĐND để có thể bổ sung kịp thời trong các trường hợp nghỉ hưu, chuyển công tác thì có thể bổ sung. Ngoài ra, cần có các cơ chế ưu đãi và các điều kiện thuận lợi để thành viên các Ban của HĐND cấp tỉnh hoạt động chuyên trách yên tâm công tác.
Đối với đại biểu HĐND cấp tỉnh, cần nâng cao chất lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh theo hướng kết hợp tốt giữa yêu cầu về tiêu chuẩn và cơ cấu đại biểu, trên cơ sở tiêu chuẩn để chọn cơ cấu, chú trọng tới chất lượng đại biểu, đảm bảo tính đại diện thực sự, đại biểu phải là những người tiêu biểu cho lĩnh vực hoạt động, ngành, giới, tầng lớp nhân dân. Lựa chọn được đại biểu đủ tiêu chuẩn, trình độ, năng lực, uy tín, có đạo đức và tâm huyết với công tác HĐND. Trong đó, tăng cường cơ cấu đại biểu là cán bộ khoa học, trí thức, cán bộ quản lý kinh tế, pháp lý; tăng số đại biểu có trình độ đại học và trên đại học; thực hiện trẻ hoá đại biểu nhằm bảo đảm tính kế thừa và chuyển giao giữa các thế hệ cán bộ.
Giảm dần số đại biểu ở các cơ quan hành chính nhưng phải đảm bảo số đại biểu đại diện trong các ngành quan trọng và lĩnh vực trọng yếu, tăng số đại biểu ở các cơ quan Đảng, đoàn thể, đồng thời, việc đổi mới cơ cấu đại biểu cũng cần chú ý cơ cấu đại biểu ngoài Đảng, đại diện các tầng lớp dân cư có đủ tiêu chuẩn tham gia HĐND cấp tỉnh. Tăng thêm số đại biểu HĐND cấp tỉnh để có đủ số đại biểu tối thiểu đảm bảo cơ cấu và phần lớn đại biểu đáp ứng yêu cầu chất lượng, trong đó tăng số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt động chuyên trách từ 10 - 12% (hiện nay) lên khoảng 25 - 30%. Quan tâm, chú trọng công tác quy hoạch cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng nhằm tạo nguồn đại biểu HĐND cấp tỉnh; có các chính sách, chế độ, điều kiện thuận lợi cho đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt động cũng như động viên, khen thưởng kịp thời đối với những đại biểu tâm huyết, hoạt động tích cực. Đồng thời, cũng cần có những chế tài cụ thể đối với những đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt động thiếu tích cực, thiếu chủ động.
Về Tổ đại biểu HĐND cấp tỉnh, cần quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Tổ đại biểu HĐND. Các Tổ đại biểu cần được hoạt động thường xuyên, có kế hoạch cụ thể phân công đại biểu tiếp dân, nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị đóng góp ý kiến cho kỳ họp và các hoạt động có liên quan theo quy định; quan tâm xây dựng được chương trình, kế hoạch công tác của các Tổ đại biểu.
Đối vớiVăn phòng giúp việc: Cần sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 545/2007/NQ-UBTVQH12, trong đó tách cơ quan này thành hai Văn phòng riêng biệt, bao gồm Văn phòng Đoàn ĐBQH để tham mưu, giúp việc cho Đoàn ĐBQH; Văn phòng HĐND cấp tỉnh để tham mưu, giúp việc cho HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, qua đó tham mưu, phục vụ hoạt động có hiệu quả hơn cho Đoàn ĐBQH và HĐND. Trong đó, cần tách Phòng Công tác HĐND thuộc Văn phòng HĐND cấp tỉnh để thành lập các phòng chuyên môn giúp việc cho các Ban của HĐND (Phòng Kinh tế ngân sách giúp việc cho Ban Kinh tế ngân sách; Phòng Văn hóa - xã hội giúp việc cho Ban Văn hóa - xã hội; Phòng Pháp chế giúp việc cho Ban Pháp chế; thành lập các phòng tương ứng với Ban của HĐND theo đặc thù của địa phương); chuyển Phòng Công tác ĐBQH sang Văn phòng Đoàn ĐBQH.
Thiết nghĩ, trong quá trình xây dựng Luật Tổ chức chính quyền địa phương thay thế Luật Tổ chức HĐND và UBND, sửa đổi, bổ sung Luật bầu cử ĐBQH, Luật bầu cử đại biểu HĐND và các quy định có liên quan, cần chú trọng đến việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp nói chung, trong đó quan tâm đến cơ cấu tổ chức của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, cơ cấu đại biểu HĐND và Văn phòng giúp việc của HĐND cấp tỉnh, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND, đáp ứng yêu cầu của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, xứng đáng với niềm tin và lòng mong đợi của nhân dân./.

 


[1] Báo cáo số 43/BC-BCTĐB ngày 15/02/2012 của Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội
[2] Ví dụ như Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Dương, Nam Định, Vĩnh Phúc, Quảng Bình, Quảng Trị … (theo thống kê của tác giả)
[3] Vĩnh Phúc, Hải Dương, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Yên Bái, Cao Bằng, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, Phú Yên, Bến Tre, Bạc Liêu, Đồng Nai, Tiền Giang, Long An… (theo thống kê của tác giả)
[4] Ban hành kèm theo Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
[5] Báo cáo số 43/BC-BCTĐB ngày 15/02/2012, Tlđd.  
[6] Báo cáo số 43/BC-BCTĐB ngày 15/02/2012, Tlđd.   
[7] Báo cáo số 449/BC-BCTĐB ngày 28/11/2012, Tlđd.    

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19(275), tháng 10/2014)


Thống kê truy cập

33001068

Tổng truy cập