Về một số nội dung trong Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương

01/10/2014

Nguyễn Hoàng Thanh, TS. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp

Thực hiện Nghị quyết về việc thi hành Hiến pháp năm 2013 của Quốc hội, Nghị quyết Ban hành kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII và năm 2014, Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương đang được Bộ Nội vụ chủ trì xây dựng theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ. Sau sáu lần Dự thảo, căn cứ ý kiến chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết phiên họp Chính phủ chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 7/2014, Cơ quan soạn thảo đã xây dựng Dự thảo lần 7 Dự án Luật gửi xin ý kiến các Bộ, ngành Trung ương và Hội đồng nhân dân (HĐND), UBND (UBND), Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố; đăng tải Dự án Luật để lấy ý kiến nhân dân trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, trang duthaoonline.quochoi.vn. của Quốc hội[1], trang Thông tin điện tử của Bộ Nội vụ... 
Từ khi có Dự thảo lần 1, Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã nhận được rất nhiều ý kiến khác nhau từ các Hội thảo khoa học[2], các bài viết trên báo chí, các ý kiến đóng góp của nhân dân. Đến Dự thảo lần 7, vẫn còn nhiều vấn đề có ý kiến khác nhau hoặc trái chiều, như việc xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, bố cục và các nội dung cơ bản của Dự án Luật; tên gọi Dự án Luật; tên gọi “đơn vị hành chính tương đương” thuộc thành phố trực thuộc trung ương; mô hình tổ chức chính quyền địa phương; cách thức thành lập UBND quận, phường...
Chúng tôi nêu các đề xuất của mình đối với một số nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau đó, đặc biệt là vấn đề mô hình tổ chức chính quyền địa phương; cách thức thành lập UBND quận, phường...
Untitled_314.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Đối với tên gọi của Dự án Luật và tên gọi “đơn vị hành chính tương đương” thuộc thành phố trực thuộc trung ương
Tên gọi của Dự án Luật là “Luật Tổ chức chính quyền địa phương”. Tên gọi này được đặt xuyên suốt qua cả bảy lần Dự thảo. Theo Ban soạn thảo, tên gọi này là phù hợp, có căn cứ lý luận và thực tiễn, vì có cơ sở Hiến định từ việc đổi tên Chương “HĐND và UBND” trong Hiến pháp năm 1992 thành Chương “Chính quyền địa phương” trong Hiến pháp năm 2013, nhằm làm rõ vị trí, tính chất của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa HĐND và UBND trong chỉnh thể thống nhất chính quyền địa phương; đồng thời, cụm từ “tổ chức” trong tên gọi của Dự án Luật được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương và tổ chức chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính lãnh thổ. Tên gọi này cũng thống nhất với tên gọi các Dự án Luật về Chính phủ và các chế định khác (Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân...). Tuy nhiên, qua các hội thảo xây dựng Dự án Luật, một số ý kiến đề nghị tên gọi nên là “Luật Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương” hoặc “Luật Tổ chức đơn vị hành chính và chính quyền địa phương”.
Theo chúng tôi, cách gọi tên gọi của Dự án Luật là “Luật Tổ chức chính quyền địa phương” hoặc “Luật Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương” là chưa đầy đủ, hoặc là quá dài nhưng vẫn chưa đầy đủ, vì nội hàm của Dự án Luật còn lớn hơn thế, nhất là về quan hệ của chính quyền địa phương với các thiết chế khác. Cách lý giải: “cụm từ “tổ chức” trong tên gọi của Dự án Luật được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương và tổ chức chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính lãnh thổ” cũng thể hiện cách hiểu không đầy đủ, nhất là vì “tổ chức” và “hoạt động” là hai khái niệm đẳng lập với nhau, không thể trong cái nọ bao hàm cái kia, có những cái được “tổ chức” nhưng không “hoạt động” và ngược lại. Do vậy, dựa vào nội dung của Dự án Luật và tư tưởng của Hiến pháp năm 2013, chúng tôi đề nghị lấy tên của Dự án Luật là “Luật Chính quyền địa phương” cho khái quát và phù hợp với phạm vi, đối tượng điều chỉnh cũng như bao quát được hết tầm vóc của Dự án Luật.
Đối với tên gọi của “đơn vị hành chính tương đương”, Khoản 1 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định: ‘‘thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương’’. Theo đó, Dự án Luật xác định rõ tên gọi của “đơn vị hành chính tương đương” là “thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương”. Cách gọi này hơi dài và có phần lủng củng, nên có khá nhiều ý kiến chưa đồng thuận về tên gọi này, mà đề xuất gọi là “thành phố trong thành phố”. Theo chúng tôi, cách gọi “thành phố trong thành phố” là một cách gọi thiên về yếu tố địa lý, văn học mà ít tính hành chính. Do vậy, chúng tôi tán thành với cách xác định của Dự án Luật, gọi “đơn vị hành chính tương đương” là “thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương”.
2. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương
Hiến pháp năm 2013 đã quy định tại Điều 111 (Chương IX) như sau:
“1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
2. Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”.
Tại các cuộc Hội thảo, quy định nêu trên hiện đang có nhiều cách hiểu khác nhau, đặc biệt là ý kiến coi tất cả các đơn vị hành chính (kể cả quận, phường) đều tổ chức cấp chính quyền (gồm có HĐND và UBND), không phân biệt “chính quyền địa phương” với “cấp chính quyền địa phương”; thậm chí đã có ý kiến đề nghị trong Dự thảo Luật cần giải thích (bằng một Điều trong Chương I), hoặc đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội có văn bản giải thích quy định tại Điều 111 về nội dung này.
Chúng tôi cho rằng, Hiến pháp năm 2013 đã quy định rất rõ và chúng ta phải có sự nhận thức đúng và thống nhất về quy định về chính quyền địa phương tại Điều 111 (Chương IX). Quy định này cho thấy một cách xác định mới, không coi chính quyền địa phương đơn thuần là sự tập hợp, là phép cộng của hai cơ quan là HĐND và UBND, cũng như đã phân biệt và không đồng nhất “đơn vị hành chính” với “cấp chính quyền địa phương”. Theo quy định này thì “chính quyền địa phương” và “cấp chính quyền địa phương” là hai khái niệm khác nhau. “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính...” nhưng đơn vị hành chính nào được tổ chức “cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND” thì sẽ do “luật định”, sao cho “phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”. Đây là định hướng tổ chức cấp chính quyền địa phương và Hiến pháp năm 2013 chỉ giới hạn bằng yêu cầu “phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt...”.
Tại Dự thảo lần 7 Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Ban soạn thảo đã căn cứ kết luận của Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 176/TB-VPCP và văn bản số 267/TB-VPCP; đồng thời kế thừa một phần kết quả thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường để xây dựng theo phương án: Quận và phường không tổ chức HĐND, chỉ tổ chức UBND là chính quyền địa phương của quận, phường, đại diện cho UBND thành phố, thị xã, được giao một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, chịu sự giám sát của HĐND thành phố, thị xã. Các đơn vị hành chính còn lại gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, xã, thị trấn đều tổ chức cấp chính quyền có HĐND và UBND (riêng đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Luật về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt điều chỉnh) (Phương án 1).
Chúng tôi tán thành với phương án này hơn, bởi lý do là nó phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp không quy định mô hình thống nhất trong tổ chức chính quyền địa phương mà tạo cơ sở hiến định cho việc tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm của nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn kiên trì với kiến nghị không tổ chức HĐND huyện, thị xã, thị trấn, quận, phường, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt[3], bởi lý do cơ bản là: “huyện, thị xã, thị trấn, quận, phường, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt là những đơn vị lãnh thổ - hành chính nhân tạo, “những đơn vị được nhà nước trung ương chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính trực thuộc theo nhu cầu quản lý hay còn được gọi là nhu cầu “cai trị” của trung ương. Đối với các lãnh thổ hành chính nhân tạo, việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan địa phương chủ yếu để thực hiện chức năng quản lý”[4]. Do vậy, UBND huyện, thị xã, thị trấn, quận, phường, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt chỉ là một cơ quan nhà nước đóng trên địa bàn địa phương, là cơ quan hành chính đại diện cho UBND tỉnh, thành phố, được giao thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định theo quy định của pháp luật, chịu sự giám sát của HĐND tỉnh, thành phố. Hơn nữa, trong thực tiễn hoạt động của HĐND huyện, thị xã, thị trấn, quận, phường, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố trực thuộc tỉnh ở nước ta những năm qua đã cho thấy sự trùng lắp, tính hình thức của HĐND cấp này, nhất là ở cấp huyện, khi đại biểu HĐND huyện cũng thường là các vị lãnh đạo của Đảng bộ hoặc HĐND, UBND các xã thực thuộc, trong khi họ đã có những kênh hoạt động khác tương tự giúp cho công tác điều hành hoặc hoạt động đại diện (kênh bên Đảng, bên Ủy ban, bên Mặt trận...)”[5].
Đối với phương án 2 của Dự thảo lần 7 Luật Tổ chức chính quyền địa phương, “trong trường hợp quận vẫn tổ chức cấp chính quyền (gồm có HĐND và UBND) hoặc ở tất cả các đơn vị hành chính (kể cả quận, phường) đều tổ chức cấp chính quyền (gồm có HĐND và UBND) thì Ban soạn thảo sẽ chỉnh sửa lại Dự thảo Luật cho phù hợp (theo hướng giảm bớt chức năng, nhiệm vụ quyết định các vấn đề ở quận, phường mà tập trung thực hiện chức năng đại diện, chức năng giám sát của HĐND quận, phường)”[6]; chúng tôi cho rằng, nếu “quận vẫn tổ chức cấp chính quyền (gồm có HĐND và UBND) hoặc tất cả các đơn vị hành chính (kể cả quận, phường) đều tổ chức cấp chính quyền (gồm có HĐND và UBND)” thì việc làm này sẽ không tuân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, đặc biệt là quy định tại khoản 2 Điều 111: “Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”. Bên cạnh đó, thực tiễn hoạt động của HĐND cấp quận hay của cấp phường trong một thời gian dài vừa qua đã bộc lộ tất cả những sự bất cập, bất hợp lý của nó, nên Đảng ta đã đặt ra vấn đề đổi mới mô hình chính quyền địa phương trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X (năm 2007) và Quốc hội khoá XII đã thông qua Nghị quyết số 26/2008/QH12 về "Thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường". Trở lại mô hình chính quyền địa phương ba cấp (hoặc chỉ thêm cấp quận) có cả HĐND và UBND theo từng cấp, là trái với tinh thần đổi mới mô hình chính quyền địa phương theo Nghị quyết của Đảng và tiếp tục nuôi dưỡng những bất cập đã có và được chỉ ra. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị loại bỏ phương án này ra khỏi Dự án Luật.
3. Cách thức thành lập Ủy ban nhân dân quận, phường
Dự án Luật dành một chương để quy định về tổ chức và hoạt động của UBND ở quận, phường.Các quy định ở Chương này đã kế thừa các nội dung hợp lý của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003; vận dụng kết quả thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND quận, phường; đồng thời bổ sung những điểm mới nhằm quy định chi tiết về số lượng, cơ cấu thành viên, nguyên tắc hoạt động, phiên họp của UBND quận, phường; việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thành viên UBND quận, phường; tổ chức, hoạt động của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận. Ngoài ra, Chương này còn có các nội dung mới, như quy định thành viên UBND quận, phường gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch để bảo đảm nguyên tắc hoạt động của UBND quận, phường theo cơ chế thủ trưởng hành chính, đề cao vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch UBND; xác định mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của UBND quận, phường khi không tổ chức HĐND ở quận, phường; quy định UBND quận, phường thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật và phân cấp, ủy quyền của UBND cấp trên trực tiếp; quy định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND quận, phường; đối với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận là một bộ phận của Sở chuyên ngành đặt tại địa bàn quận, hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của Sở chuyên ngành và sự phối hợp công tác của UBND quận. Đây là các quy định hợp lý về tổ chức và hoạt động của UBND ở quận, phường, nơi không tổ chức HĐND. Tuy nhiên, đối với một nội dung rất quan trọng làcách thức thành lập UBND quận, phường thì có nhiều ý kiến khác nhau. Dự thảo Dự án Luật xây dựng theo loại ý kiến thứ nhất, đó là thực hiện chế độ bổ nhiệm các thành viên UBND quận, phường trong điều kiện không tổ chức HĐND (như đang thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội)[7].
 Tại các cuộc Hội thảo, nhiều nhà khoa học, quản lý đưa ra phương án khác để thành lập UBND quận, phường. Đó là Chủ tịch UBND thành phố trực thuộc trung ương đề nghị HĐND cùng cấp phê chuẩn thành viên UBND quận và thành viên UBND phường thuộc quận (Chủ tịch UBND thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương trình HĐND cùng cấp phê chuẩn danh sách thành viên UBND phường trực thuộc).
Theo chúng tôi, cả hai phương án này đều chưa thỏa đáng. Ở phương án thứ nhất, Dự thảo lần 7 quy định tại Điều 129. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của UBND quận, phường: “1. UBND quận, phường tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc thủ trưởng hành chính, đề cao vai trò và trách nhiệm của Chủ tịch UBND. 2. Bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của UBND quận, phường”; Điều 130. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thành viên UBND quận, phường quy định: “1. Chủ tịch UBND quận do Chủ tịch UBND thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của tập thể UBND quận. Phó Chủ tịch UBND quận do Chủ tịch UBND thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chủ tịch UBND quận. 2. Chủ tịch UBND phường do Chủ tịch UBND quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của tập thể UBND phường. Phó Chủ tịch UBND phường do Chủ tịch UBND quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chủ tịch UBND phường. 3. Chủ tịch UBND quận, phường không giữ chức vụ quá hai nhiệm kỳ bổ nhiệm liên tục ở cùng một đơn vị hành chính”, chúng tôi cho rằng:
- Khi quy định người đứng đầu UBND thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chế độ bổ nhiệm các thành viên UBND quận, phường,Dự án Luật muốn xác định rõ UBND quận, phường là các cơ quan hành chính cấp dưới của UBND thành phố trực thuộc trung ương vànguyên tắc hoạt động của UBND quận, phường là theo cơ chế thủ trưởng hành chính, đề cao vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch UBND quận, phường. Phương án này đã hàm chứa các hạt nhân hợp lý khi tổ chức cơ quan hành chính của địa phương, nhưng lại chưa có sự thống nhất trong cả hệ thống các cơ quan hành chính từ cấp trung ương đến địa phương, bởi lẽ, nếu theo chế độ bổ nhiệm thì Chủ tịch UBND thành phố trực thuộc trung ương phải là người được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm đầu tiên, UBND thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan hành chính cấp dưới đầu tiên của Chính phủ, sau đó Chủ tịch UBND thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm Chủ tịch UBND quận. Chủ tịch UBND quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm Chủ tịch UBND phường. Trong các tình huống như vậy, Chủ tịch UBND là người đảm nhận vai trò Thị trưởng của địa phương mình, thực hiện cơ chế thủ trưởng hành chính. Hiệu quả hoạt động của toàn bộ bộ máy hành chính sẽ do Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Quốc hội và trước cử tri cả nước. Tổ chức như vậy mới đảm bảo tính thống nhất của hệ thống các cơ quan hành chính.
- Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 130 quy định: “Chủ tịch UBND quận do Chủ tịch UBND thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của tập thể UBND quận”. Quy định này hơi mơ hồ, vì buộc phải hiểu: Chủ tịch UBND quận (và tương tự là cấp phường - quy định tại khoản 2 Điều 130) muốn được Chủ tịch UBND thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm thì phải có đề nghị của tập thể UBND quận, nghĩa là tập thể UBND quận phải có trước, để tiến hành đề nghị một người làm Chủ tịch UBND quận. Nhưng luật không quy định tập thể UBND quận phải có từ bao giờ, do ai tổ chức nên, vì ở quận (và tương tự là cấp phường - quy định tại khoản 2 Điều 130) không tổ chức HĐND, tập thể UBND quận (và tương tự là cấp phường - quy định tại khoản 2 Điều 130) gồm những chức danh nào?
Đối với phương án Chủ tịch UBND thành phố trực thuộc trung ương đề nghị HĐND cùng cấp phê chuẩn thành viên UBND quận và thành viên UBND phường thuộc quận,chúng tôi cho rằng, phương án này còn ít thực chất hơn, khó thuyết phục hơn. Bởi lẽ, các đại biểu HĐND thành phố trực thuộc trung ương khó có thể biết hết được gương mặt, nhân thân, trình độ, tâm huyết... của hàng trăm người trong danh sách nhân sự mà mình sẽ phê chuẩn làm thành viên UBND các quận và UBND các phường trong toàn thành phố, nhất là công tác phê chuẩn này sẽ diễn ra ngay từ phiên họp thứ nhất của HĐND thành phố, khi nhiều đại biểu HĐND thành phố vừa được bầu, đang hết sức bỡ ngỡ với công việc mới. Hơn nữa, nếu danh sách đề nghị phê chuẩn này chỉ do Chủ tịch UBND thành phố trực thuộc trung ương chuẩn bị và đề nghị, thì liệu có đảm bảo tính khách quan, chọn đúng người, hay chỉ mang dấu ấn chủ quan, cảm tính?Còn nếu trước khi Chủ tịch UBND thành phố trực thuộc trung ương trình danh sách nhân sự cho HĐND cùng cấp phê chuẩn thành viên UBND quận và thành viên UBND phường trong toàn thành phố, thì ai, cơ quan nào sẽ giúp Chủ tịch UBND thành phố trực thuộc trung ương chuẩn bị danh sách đó? Nếu có tổ chức, cơ quan nào đó làm việc này, thì hoạt động phê chuẩn có phải chỉ là để hợp thức hóa một sự chọn lựa trước?
Theo chúng tôi, cần thiết phải có một quy trình khác, hợp lý hơn hai phương án nêu trên. Chúng ta biết rằng, hiện nay còn nhiều ý kiến đang băn khoăn về việc không tổ chức HĐND ở cấp quận và phường, nhất là những lo ngại rằng, nếu không có HĐND thì cơ quan nào sẽ đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên? Trên thực tế, điều người dân cần nhất là họ được thực thi quyền lực nhân dân để mang lại lợi ích cho chính người dân. Ở mỗi địa phương cũng vậy. Người dân địa phương muốn người mình bầu ra - đại diện cho mình thực thi quyền lực của mình tại địa phương - phải trực tiếp làm những việc phục vụ cho quyền lợi của chính mình và cộng đồng. Do vậy, theo chúng tôi, để có một cơ quan hành chính phục vụ trực tiếp, hiệu quả cho nhân dân địa phương, ở những nơi không tổ chức HĐND (hay tại quận, phường) hãy để người dân trực tiếp bầu ra UBND. 
Đề xuất này không mới. Ngay khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 21/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 77/SL về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành phố (còn gọi là Sắc lệnh về việc thành lập thành phố trực thuộc Chính phủ Trung ương, hoặc kỳ; thị xã thuộc kỳ hoặc tỉnh). Sắc lệnh quy định, ở mỗi thành phố “sẽ đặt ba thứ cơ quan: HĐND thành phố, UBHC thành phố và UBHC khu phố”. UBHC thành phố do HĐND thành phố bầu, trong khi UBHC khu phố do cử tri ở khu phố trực tiếp bầu để cơ quan này vừa đại diện cho chính quyền thành phố vừa đại diện trực tiếp cho nhân dân khu phố. Đây là Sắc lệnh đầu tiên về tổ chức chính quyền nhân dân tại các đô thị. Theo Sắc lệnh này, ở đô thị sẽ chỉ có HĐND cấp thành phố, còn UBHC được tổ chức ở hai cấp: UBHC thành phố (do HĐND thành phố bầu) và UBHC khu phố (do cử tri ở khu phố trực tiếp bầu). Nếu Luật Chính quyền địa phương quy định ở những nơi không tổ chức HĐND (hay tại quận, phường) người dân trực tiếp bầu ra UBND thì sẽ là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành phố.
Việc người dân trực tiếp bầu ra UBND để thực hiện các công việc hành chính nhà nước trên địa bàn trước hết để khẳng định, đây là một cơ quan của dân; do người dân lựa chọn và bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân; thực hiện mọi công việc hành chính nhà nước trên địa bàn và cung ứng các dịch công cho cư dân địa bàn. Đồng thời, UBND phải chịu trách nhiệm trước hết là với người dân trên địa bàn. Người dân là người giám sát, đánh giá, thẩm định chất lượng, hiệu quả công việc của chính quyền tại địa phương mình. Trước mặt các thành viên UBND là cử tri. Họ sẽ tiếp tục được bầu, nếu làm tốt. Ngược lại, người dân sẽ không bầu, sẽ bãi miễn các thành viên này.
Dĩ nhiên, Đảng vẫn lãnh đạo toàn diện đối với công tác cán bộ. Nhưng danh sách nhân sự cấp ủy Đảng đề cử phải có sự hiệp thương trước với đại diện cử tri và Mặt trận Tổ quốc, đạt đến sự đồng thuận, không áp đặt ý chí của cấp ủy.
Về kỹ thuật bầu cử cũng hết sức đơn giản, dễ làm. Việc bầu cử các thành viên UBND quận, phường (số lượng, chức danh do Luật định) sẽ được bầu chung trong cuộc bầu cử đại biểu HĐND thành phố. Còn đội ngũ công chức, viên chức của các UBND quận, phường là đội ngũ chuyên nghiệp, được tuyển dụng và bổ nhiệm theo quy định của các luật công chức, viên chức./.
 

[1] Bài viết dựa trên các nội dung của Dự thảo lần 7 Luật Tổ chức chính quyền địa phương, đăng trên duthaoonline.quochoi.vn. của Quốc hội, truy cập 9h30 ngày 9/9/2014.
[2] Ví dụ, Hội thảo mô hình tổ chức chính quyền địa phương do Văn phòng Quốc hội tổ chức ngày 25/8/2014 tại TP. Huế; ba cuộc Hội thảo lấy ý kiến của các nhà quản lý về dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương do Bộ Nội vụ tổ chức tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh...; Hội thảo “Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 2013” ngày 6/5/2014 của Viện Nghiên cứu Lập pháp và Viện Chính sách công và pháp luật...  
 
[3]Chúng tôi cũng đồng tình với kiến nghị không tổ chức cả UBND ở cấp quận.
[4]GS,TS. Nguyễn Đăng Dung,Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội, tham luận tại Hội thảo “Mô hình tổ chức chính quyền đô thị ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”do Viện Khoa học Pháp lý tổ chức ngày 27/12/2012.
 
[5] Xem, TS. Nguyễn Hoàng Thanh, Hiến pháp 2013 và sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức chính quyền địa phương; Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16 (272) tháng 8/2014, tr. 16.
 
[6] Tờ trình Chính phủ của Bộ Nội vụ về Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương, tháng 8/2014.
 
[7] Tờ trình Chính phủ của Bộ Nội vụ về Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương, tháng 8/2014.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19(275), tháng 10/2014)


Thống kê truy cập

33001190

Tổng truy cập