Một số ý kiến về Dự thảo Luật về Hội

01/05/2016

PGS,TS. THÁI VĨNH THẮNG

Chủ nhiệm Khoa Hành chính nhà nước, Đại học Luật Hà Nội.

1. Khái niệm “hội”
Khái niệm “hội” trong tiếng Anh và tiếng Pháp tuy phát âm khác nhau nhưng đều viết là “Association”. Trong tiếng Pháp, “hội” được định nghĩa là sự liên kết nhiều người vì một lợi ích chung (Union des personnes dans un interet commun)[1], trong tiếng Anh, “hội” được định nghĩa là một nhóm người công khai liên kết vì một mục đích đặc biệt (an official group of people who have joined together for a particular purpose)[2]. Như vậy, khái niệm “hội” cần được hiểu một cách đơn giản đó là sự liên kết một số người vì công việc hoặc mục đích, lợi ích chung nào đó. Tuy nhiên cần phải thấy rằng, pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều không thừa nhận một tổ chức là hội nếu tổ chức đó được thành lập vì mục đích kinh doanh hay tìm kiếm lợi nhuận. Nếu các cá nhân liên kết với nhau vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận thì tạo ra tổ chức kinh tế là doanh nghiệp, công ty và hoạt động theo luật doanh nghiệp, luật thương mại. Ở Việt Nam, ngoài Đảng Cộng sản còn có những hội đặc biệt vừa mang tính xã hội vừa mang tính chính trị như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là những hội được ngân sách nhà nước chu cấp cho hoạt động nên cũng không thể điều chỉnh theo Luật về Hội được. Vậy chỉ còn lại những liên kết tự nguyện của các cá nhân không vì mục đích lợi nhuận, tự quản và tự chủ về tài chính, và không phải cơ quan, tổ chức của chính phủ (non- government organization). Đó có thể là các hội từ thiện, hội khuyến học, hội nghề nghiệp (hội nhà báo, hội nhà văn, hội kiến trúc sư, hội luật gia, hội những người làm vườn), hội những người có chung sở thích (các câu lạc bộ bóng đá, quần vợt, cờ vua, cờ tướng…). Như vậy, với Luật về Hội, chúng ta phải hiểu “hội” theo nghĩa hẹp đó là các tổ chức thuần túy dân sự (phi nhà nước), không có tính chất kinh doanh (tìm kiếm lợi nhuận để chia cho các thành viên).
  Quyền lập hội là quyền cơ bản của con người và công dân, quyền này còn được Tòa án Tối cao Hoa Kỳ coi là một phần cơ bản của quyền tự do ngôn luận vì trong nhiều trường hợp người ta chỉ thực hiện quyền này có hiệu quả khi kết hợp với người khác[3]. Điều 18 Hiến pháp Italia năm 1947 quy định: “Công dân có quyền tự do lập hội không cần sự cấp phép nào miễn là mục đích thành lập hội không bị cấm trong pháp luật hình sự”[4]. Luật về Hội của Ba Lan năm 1989 (Law on associations 7 April 1989) quy định: “Hội là sự liên kết tự nguyện, tự quản, bền vững và không vì mục đích lợi nhuận”[5].
Ở Việt Nam, từ khi quyền hội họp và lập hội được quy định trong Hiến pháp năm 1946 (Điều 10) và trong Luật quy định Quyền lập hội năm 1957 (Điều 2) các hội khác nhau đã được thành lập và hoạt động. Theo Điều 2 Luật quy định Quyền lập hội năm 1957 (Luật năm 1957) mọi người đều có quyền lập hội, trừ những người mất quyền công dân hoặc đang bị truy tố trước pháp luật. Mặc dù Điều 3 Luật năm 1957 đã quy định: “Để đảm bảo việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập hội phải xin phép”. Tuy nhiên, hạn chế của Luật năm 1957 là không phân biệt hội có tư cách pháp nhân, hội không có tư cách pháp nhân, hội cần thiết phải đăng ký thành lập và hội không cần phải đăng ký thành lập. Trên thực tế, có rất nhiều hội đã được thành lập mà không đăng ký và cũng không cần một sự cho phép và sự quản lý nhà nước nào. Đó là các hội đồng hương, hội đồng môn, các câu lạc bộ thơ, các hội làm vườn, hội nuôi chim, hội cây cảnh… Các hội này đều tự thành lập, tự hoạt động, tự trang trải mà không ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường của xã hội nên trên thực tế cũng không cần một sự quản lý, sự can thiệp nào từ phía các cơ quan quản lý nhà nước. Mặc dù Luật năm 1957 đã tồn tại được 59 năm, nhưng cho đến nay, chưa có sự bổ sung, sửa đổi nào đối với Luật này nên nhiều quy định đã không còn phù hợp với yêu cầu về hội đa dạng đang nảy nở ở Việt Nam. Việc ban hành luật mới về hội hiện nay là nhu cầu cấp bách của đời sống xã hội, nhất là để triển khai thực hiện các quy định về quyền con người và quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013.Để đáp ứng yêu cầu này, Dự thảo Luật về Hội đang được các cơ quan khẩn trương soạn thảo và đang xin ý kiến nhân dân[6].
Theo chúng tôi, tuy Dự thảo Luật về Hội đã tiếp thu được nhiều ý kiến để dần hoàn thiện, nhưng vẫn có khá nhiều nội dung cần phải sửa đổi để hoàn thiện hơn, kể cả từ quan niệm thế nào là Hội. Khái niệm “hội” trong Dự thảo Luật về Hội (Dự thảo Luật) được xác định như sau: “ Hội theo quy định của Luật này là tổ chức tự nguyện của công dân, pháp nhân Việt Nam hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên; góp phần xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Quy định như vậy là vừa thừa vừa thiếu, thừa vì pháp nhân cũng là sự liên kết của cá nhân, thiếu vì quyền lập hội là quyền con người chứ không chỉ riêng của công dân. Theo chúng tôi, nên quy định lại như sau: “Hội theo quy định của Luật này là sự liên kết tự nguyện, bền vững của các cá nhân, vì một lợi ích chung ngoài mục đích lợi nhuận”. Quy định như vậy ngắn gọn, dễ hiểu và không rườm rà.
2. Cấu trúc của Dự thảo Luật
 Dự luật có 8 chương, 37 điều, so với Luật năm 1957 đã tăng thêm 27 điều. Theo chúng tôi, Luật chỉ nên ngắn gọn như Luật cách đây 59  năm các luật gia tiền bối đã làm, không nên quá rườm rà không cần thiết, làm loãng nội dung cơ bản của Luật là đảm bảo quyền lập hội cho con người và công dân.
Dự thảo Luật chỉ nên có cấu trúc ngắn gọn như sau:
Điều 1: Định nghĩa về hội
Điều 2: Mọi người đều có quyền lập hội
Điều 3: Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của hội
Điều 4: Phân loại hội
Điều 5: Các hội không có tư cách pháp nhân
Điều 6: Các hội có tư cách pháp nhân
Điều 7. Cách thức thành lập hội có tư cách pháp nhân
Điều 8. Điều lệ hội
Điều 9. Cơ quan lãnh đạo hội
Điều 10. Những điều cấm đối với các hội
Điều 11. Quản lý nhà nước về hội
Điều 12. Hợp nhất, sát nhập, chia tách, giải thể hội
Điều 13. Tài sản, tài chính của hội
Điều 14. Giải thích luật
Điều 15. Hiệu lực thi hành
3. Nội dung của Dự thảo Luật
3.1. Quyền lập hội là quyền cơ bản của con người
  Trước hết, cần quán triệt quan điểm quyền lập hội là quyền cơ bản của con người chứ không phải riêng của công dân. Điều 20 Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình”. Điều 22 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng đã quy định: “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”. Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1982, vì vậy cần phải nội luật hóa quy định này trong Dự thảo Luật.
3.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội
Chúng tôi nhất trí với các nguyên tắc đã được xây dựng trong Dự thảo Luật là:
- Nguyên tắc tự nguyện, tự quản;
- Nguyên tắc tự chủ kinh phí hoạt động;
- Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, minh bạch;
- Nguyên tắc hoạt động không vì mục đích lợi nhuận;
- Nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ hội;
Ngoài ra, chúng tôi đề nghị bổ sung thêm:
- Nguyên tắc không xâm phạm lợi ích Nhà nước, dân tộc, không vi phạm các quyền con người và công dân.
 Các nguyên tắc này giúp chúng ta phân biệt hội với doanh nghiệp/các tổ chức kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội được hưởng ngân sách nhà nước.
 3.3. Phân loại hội
 Thực tiễn cho thấy các hội ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú như có hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc như Hội Khoa học và kỹ thuật, Hội Nhà báo, Hội Nhà văn, Hội Luật gia…, có hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, liên tỉnh, huyện, liên huyện, xã, liên xã, có hội chỉ hoạt động trong phạm vi thôn, xóm, dòng tộc, hay chỉ trong khuôn khổ những người bạn cùng lớp phổ thông hoặc đại học, có hội có rất đông thành viên như Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật (có khoảng 1,8 triệu hội viên), hay Hội Luật gia Việt Nam (có khoảng 40.500 hội viên) nhưng có hội chỉ khoảng 15, 20, 30 thành viên như các hội đồng môn, hội đồng hương xã, các câu lạc bộ bóng đá, quần vợt, cờ vua, cờ tướng. Sự đa dạng như vậy đòi hỏi có sự phân loại để Nhà nước có thể quản lý dễ dàng hơn. Theo chúng tôi, có thể phân chia các hội theo các tiêu chí sau đây:
-   Các hội có mục đích từ thiện như Hội Giúp đỡ trẻ mồ côi, Hội Giúp đỡ người nghèo, Hội Khuyến học… xếp vào nhóm hội từ thiện;
-   Các hội liên kết những người có chung nghề nghiệp gọi là hội nghề nghiệp như Hội Luật gia, Hội Nhà văn, Hội Nhà báo, Hội Kiến trúc sư…
-   Các hội liên kết những người có hoàn cảnh giống nhau như Hội Người mù, Hội Nạn nhân chất độc màu da cam, Hội Đồng hương, Hội Bảo vệ người tiêu dùng…
-   Các hội liên kết những người cùng sở thích như các câu lạc bộ khiêu vũ, bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, quần vợt có thể xếp vào các hội văn hóa thể thao.
 Mặc dù về tính chất xã hội có thể phân định thành nhiều hội khác nhau, nhưng về mặt pháp lý, chỉ nên phân thành hai loại là hội có tư cách pháp nhân và hội không có tư cách pháp nhân.
- Hội không có tư cách pháp nhân là những hội không có trụ sở hoạt động cố định, không đăng ký thành lập, không có con dấu riêng.
Các hội không có tư cách pháp nhân có thể là các hội đồng hương, hội đồng môn, các câu lạc bộ thể thao, các hội nhỏ của những người thích du lịch, săn bắn, văn nghệ, giải trí…
- Hội có tư cách pháp nhân là những hội có tài sản chung, có trụ sở hoạt động, có cơ quan đại diện, có Điều lệ hội và có đăng ký thành lập, có con dấu của hội.
Việc xác lập tư cách pháp nhân của hội là rất quan trọng vì chỉ có các hội có tư cách pháp nhân mới có thể tham gia các giao dịch dân sự và chịu trách nhiệm pháp lý về các giao dịch đó.
4. Kiến nghị Dự thảo mới
Dự thảo Luật về Hội do Bộ Nội vụ soạn thảo, theo chúng tôi,  còn nặng về khía cạnh quản lý, quy định quá sâu về khía cạnh tổ chức, làm hạn chế tính độc lập và tự chủ, tự quản của hội, nên chúng tôi xin kiến nghị Dự thảo mới sau đây:
DỰ THẢO LUẬT VỀ HỘI
Điều 1. Định nghĩa về hội
Hội là liên kết tự nguyện, tự quản, tự chủ tài chính, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận của các cá nhân.
Điều 2. Mọi người đều có quyền lập hội
Mọi người đều có quyền lập hội, trừ những người mất quyền dân sự hoặc đang bị truy tố trước pháp luật.
 Điều 3. Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của hội
Hội được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau đây:
-   Nguyên tắc tự nguyện được hiểu là không ai bị ép buộc phải gia nhập hoặc ra khỏi hội;
-   Nguyên tắc tự quản được hiểu là việc thành lập, bầu lãnh đạo và duy trì các hoạt động của hội hoàn toàn do các thành viên của hội quyết định, không có sự can thiệp của Nhà nước hoặc các tổ chức khác;
-   Nguyên tắc tự chủ tài chính được hiểu là kinh phí hoạt động của hội là do các thành viên của hội và hội tự trang trải.
-   Nguyên tắc hoạt động không vì mục đích lợi nhuận được hiểu là hội không tìm kiếm lợi nhuận để phân chia cho các hội viên, lợi nhuận, nếu có, trong quá trình hoạt động của hội được dành cho các hoạt động của hội theo quy định của điều lệ.
-   Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, minh bạch được hiểu là cơ quan lãnh đạo của hội phải do đại hội toàn thể thành viên bầu ra, các thành viên của hội đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, các khoản thu, chi về tài chính và các hoạt động của hội đều phải công khai cho các thành viên của hội được biết.
-   Nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, không làm thiệt hại đến quyền lợi của Nhà nước, xã hội, quyền con người và công dân.
Điều 4. Phân loại hội
      Các hội được phép hoạt động có thể có hoặc không có tư cách pháp nhân.
Điều 5. Các hội không có tư cách pháp nhân
     Các hội không có trụ sở hoạt động thường xuyên, không có con dấu riêng và không đăng ký hoạt động là các hội không có tư cách pháp nhân.
Điều 6. Các hội có tư cách pháp nhân
     Các hội có tư cách pháp nhân là các hội có tên gọi, có tài sản độc lập, có trụ sở hoạt động, có ban lãnh đạo, có đăng ký thành lập, có con dấu riêng.
Điều 7. Cách thức thành lập hội có tư cách pháp nhân
      Để đăng ký thành lập hội, người đăng ký thành lập phải thực hiện các thủ tục sau đây:
1. Làm tờ khai đăng ký thành lập hội.
Tờ khai cung cấp các thông tin sau đây:
-  Tên đầy đủ và tên viết tắt (nếu có) của hội;
-   Mục đích thành lập hội;
-   Địa chỉ của trụ sở chính của hội;
-   Họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, địa chỉ của những người trong ban lãnh đạo hội;
-   Danh sách các thành viên của hội;
-   Điện thoại, địa chỉ email của hội;
-   Dự thảo Điều lệ hội (đính kèm tờ khai).
2. Gửi tờ khai cho Ủy ban nhân dân (UBND) xã nếu hội hoạt động trong phạm vi xã, gửi cho UBND huyện nếu hội hoạt động trong phạm vi huyện, gửi cho UBND tỉnh nếu hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, gửi cho Bộ Nội vụ nếu hội hoạt động trong pham vi nhiều tỉnh hoặc toàn quốc.
3. Nhận quyết định công nhận hội từ nhà chức trách(thời gian không quá 10 ngày kể từ ngày gửi Tờ khai đăng ký thành lập hội).
     Điều 8. Điều lệ hội
Điều lệ hội phải thể hiện các nội dung cơ bản sau đây:
-   Tên đầy đủ và tên viết tắt (nếu có) của hội;
-    Địa chỉ trụ sở của hội, điện thoại và địa chỉ email của hội;
-    Tôn chỉ, mục đích, lĩnh vực và phạm vi lãnh thổ hoạt động của hội;
-    Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội;
-    Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hội;
-    Quyền và nghĩa vụ của hội viên;
-    Cách thức bầu cử thành lập Ban lãnh đạo hội;
-    Nhiệm kỳ của Ban lãnh đạo hội;
-    Hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, đổi tên, giải thể, thanh quyết toán tài sản, nguyên tắc quản lý và sử dụng ngân sách của hội;
-    Cách thức hoạt động của hội.
Điều 9. Cơ quan lãnh đạo hội
Cơ quan lãnh đạo hội do đại hội toàn thể thành viên của hội bầu ra, thành phần và nhiệm kỳ của cơ quan lãnh đạo hội do điều lệ hội quy định.
Điều 10. Những điều cấm đối với các hội
 Hoạt động của hội không được xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, xã hội và quyền con người, quyền công dân.
 Điều 11. Quản lý nhà nước về hội
1.  Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hội trong phạm vi cả nước.
2.   Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các cấp trong việc quản lý nhà nước về hội theo sự phân công của Thủ tướng.
3.  UBND tỉnh chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các hội hoạt động trong phạm vi của một tỉnh, hoặc liên huyện.
4.  UBND huyện chịu trách nhiệm quản lý nhà nước trong phạm vi một huyện hoặc liên xã.
5.  UBND xã, phường, thị trấn chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động của hội trong phạm vi một xã.
     Điều 12. Hợp nhất, sáp nhập, chia tách, giải thể hội
Việc hợp nhất, sáp nhập, chia tách và giải thể hội được thực hiện theo nghị quyết của hội với sự đồng ý của ít nhất 2/3 tổng số hội viên và phải được sự phê chuẩn của cơ quan có thẩm quyền quản lý hội.
Điều 13. Tài sản, tài chính của hội
Tài sản của hội được hình thành từ lệ phí và các khoản đóng góp của các thành viên, các khoản tài trợ, hiến, tặng của cá nhân và tổ chức ở trong nước và nước ngoài hoặc các hoạt động của hội mà có.
Điều 14. Giải thích luật
Trong quá trình tổ chức và hoạt động của các hội nếu xuất hiện các cách hiểu khác nhau về quy định của luật này thì theo yêu cầu của ít nhất năm hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm ban hành Pháp lệnh để giải thích.
Điều 15. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực từ ngày 1/1/2017./.

 


[1] Dictionnaire encyclopedique de la langue Francaise, edition ALPHA, 2004, p. 83.
[2] Oxford advanced learners Dictionary, Oxford University Press, 2000, p. 62.
[3] United States Court held in NAASP v, Alabama that the freedom of association is an essential part of the freedom of speech because, in many cases, people can engage in effective speech only when they join of others.
[4] Citizen have the right to form association freely and without authorization for those ends that are not forbidden by criminal law.
[5] An association is a voluntary self-governed and lasting non-profit union.
[6] Xem toàn văn Dự thảo Luật về Hội trên trang Duthaoonline: http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1110&LanID=1144&TabIndex=1.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 10(314) - tháng 5/2016)


Thống kê truy cập

33946330

Tổng truy cập