Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tố tụng lao động

01/12/2015

PGS,TS. LÊ THỊ HOÀI THU

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

1. Những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp lao động
Ở mức độ khái quát nhất, tranh chấp lao động (TCLĐ) được hiểu là xung đột về quyền và lợi ích của người lao động (NLĐ) - hay tập thể lao động - và người sử dụng lao động (NSDLĐ) chưa được giải quyết, cần được giải quyết.
So với các loại tranh chấp khác (dân sự, thương mại, đất đai, hôn nhân, gia đình...), TCLĐ có nhiều đặc điểm riêng biệt, từ đó cần có những quy định về thủ tục giải quyết riêng phù hợp với nó. Có thể khái quát những đặc điểm này như sau:
- TCLĐ phát sinh, tồn tại gắn liền với quyền lợi của hai chủ thể, hai lực lượng quan trọng nhất, chủ yếu nhất trong việc tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho đời sống xã hội - đó là NLĐ và NSDLĐ. Bên cạnh đó, TCLĐ tập thể xảy ra ngày càng nhiều trên thực tế và đang trở thành xu thế chủ đạo hiện nay. Vì vậy, nếu để tình trạng tranh chấp kéo dài, hay nói cách khác là nếu tranh chấp lao động không được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, có thể dẫn đến những hậu quả khó lường, nhất là những vụ tranh chấp đã chuyển thành đình công (ngừng trệ, thậm chí là tê liệt sản xuất của doanh nghiệp, ngành, vùng; rối loạn đời sống xã hội; đe dọa trực tiếp tới an ninh, chính trị và trật tự, an toàn xã hội...).
- Bên cạnh những tranh chấp phát sinh từ việc vi phạm thỏa thuận, vi phạm pháp luật của các bên chủ thể trong quan hệ lao động (TCLĐ về quyền), TCLĐ còn phát sinh cả trong trường hợp hoàn toàn không có sự vi phạm thỏa thuận, vi phạm pháp luật của các chủ thể có liên quan (TCLĐ về lợi ích). Hai loại TCLĐ này đòi hỏi phải sử dụng những phương thức giải quyết, chủ thể tham gia giải quyết và các thủ tục giải quyết khác nhau. Trong đó, TCLĐ về lợi ích đòi hỏi thủ tục phải rất mềm dẻo, linh hoạt, cần đặc biệt chú trọng đến cơ chế tự hòa giải và hòa giải trong quá trình giải quyết, kể cả giải quyết tại tòa án nhân dân. Cũng từ đặc điểm này mà quá trình giải quyết TCLĐ cần đến sự tham gia của nhiều chủ thể khác ngoài tòa án và các bên tranh chấp, như: cơ quan quản lý nhà nước về lao động, tổ chức đại diện của NLĐ, tổ chức đại diện của NSDLĐ ...
- Tham gia TCLĐ trong nhiều trường hợp là tổ chức công đoàn - đại diện của NLĐ (tập thể lao động), đặc biệt là TCLĐ tập thể. Vì vậy, trong quá trình giải quyết TCLĐ, khó có thể loại bỏ sự tham gia của chủ thể này, cho dù họ không phải là một bên tranh chấp.
Từ những đặc điểm nêu trên của TCLĐ, có thể chỉ ra những yêu cầu riêng của việc giải quyết TCLĐ (so với giải quyết tranh chấp dân sự, đất đai, thương mại, hôn nhân, gia đình) như sau:
 Một là, TCLĐ cần được giải quyết càng nhanh càng tốt. Yêu cầu này tác động trực tiếp tới các quy định của pháp luật tố tụng về thời hạn giải quyết tranh chấp ở từng giai đoạn cụ thể và trong tổng thể thời gian giải quyết TCLĐ. Nói cụ thể hơn là cần quy định thời hạn giải quyết tranh chấp (thụ lý, chuẩn bị xét xử, thời hạn mở phiên tòa...) nhanh nhất có thể so với quy định hiện nay của Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS).
Hai là, trong quá trình giải quyết TCLĐ, bên cạnh sự tham gia của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, cần có sự tham gia của đại diện cơ quan quản lý nhà nước về lao động, tổ chức BHXH, đại diện NLĐ và đại diện NSDLĐ trong những trường hợp cần thiết. Yêu cầu này đòi hỏi trong các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng lao động phải quy định rõ những trường hợp nào việc giải quyết TCLĐ tại tòa án nhân dân phải có sự tham gia của các chủ thể nói trên cũng như các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đó trong quá trình tòa án giải quyết TCLĐ ...
 Ba là, cần đặc biệt chú trọng đến hòa giải trong thủ tục tố tụng lao động, kể cả hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và hòa giải tại phiên tòa. Điều này đòi hỏi trong các quy định về tố tụng lao động cần quy định rất cụ thể về trách nhiệm của tòa án, của các bên tranh chấp trong việc hòa giải; thủ tục hòa giải; hậu quả pháp lý của hòa giải thành; hậu quả pháp lý của hòa giải không thành hoặc không hòa giải được ...
2. Hạn chế, bất cập trong các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp lao động
Tổng kết thực tiễn 9 năm thi hành Bộ luật TTDS cho thấy, bên cạnh nhiều kết quả đạt được trong công tác giải quyết TCLĐ tại tòa án nhân dân, nhiều bất cập, hạn chế kể cả trong bản thân các quy định của Bộ luật cũng như trong quá trình triển khai thực hiện đã bộc lộ khá rõ nét, cần phải nghiên cứu, tìm ra giải pháp khắc phục. Có thể khái quát những bất cập, hạn chế như sau:
Thứ nhất, các quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự (được sử dụng trong việc giải quyết TCLĐ) chưa tính toán đầy đủ và chưa giải quyết được những đặc thù của TCLĐ và những yêu cầu của việc giải quyết TCLĐ trên thực tế.
Như đã đề cập, một trong những yêu cầu của việc giải quyết TCLĐ là cần giải quyết trong thời gian nhanh nhất có thể để khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của bên bị xâm phạm, bình ổn quan hệ lao động, thị trường lao động, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội... Tuy nhiên, quy định về những thời hạn trong từng giai đoạn giải quyết TCLĐ theo Bộ luật TTDS dường như chưa đáp ứng được yêu cầu này. Về vấn đề này, chúng tôi đồng quan điểm cho rằng, thủ tục TTDS hiện hành chưa đáp ứng được những yêu cầu mang tính đặc thù của việc giải quyết các TCLĐ; cả nguyên tắc tổ chức xét xử (thẩm quyền của tòa án, địa vị pháp lý của các chủ thể tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng, về thời hạn tố tụng, về chứng minh và chứng cứ...); cả về quy trình tố tụng (khởi kiện, thụ lý vụ án, hòa giải, chuẩn bị xét xử, xét xử tại phiên tòa và việc ra bản án, quyết định); và cả về việc thi hành bản án, quyết định của tòa án[1].
Sự tham gia giải quyết TCLĐ của đại diện cơ quan quản lý nhà nước về lao động, tổ chức bảo hiểm xã hội(BHXH), đại diện NLĐ và đại diện NSDLĐ trong rất nhiều trường hợp là thực sự cần thiết. Tuy nhiên, các quy định của Bộ luật TTDS mới chỉ quy định về sự tham gia của tổ chức công đoàn trong trường hợp khởi kiện yêu cầu giải quyết TCLĐ tập thể về quyền. Từ đó, nhiều vấn đề có liên quan, nhất là đối với TCLĐ cá nhân, khó có thể được giải quyết một cách thực sự khách quan, phù hợp với thực tế của quan hệ lao động đã và đang diễn ra giữa các bên chủ thể.
Bộ luật TTDS cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của việc giải quyết TCLĐ về lợi ích (tranh chấp yêu cầu xác lập điều kiện lao động mới, quyền và nghĩa vụ mới..., không có sự vi phạm thỏa thuận, vi phạm nội quy, quy chế, vi phạm pháp luật của các bên trước đó) - loại tranh chấp đặc thù mà chỉ trong lĩnh vực lao động mới có. Theo quy định của Bộ luật Lao động (BLLĐ), TCLĐ tập thể về lợi ích được giải quyết bằng thương lượng, hòa giải tại cơ sở và trọng tài lao động mà không giải quyết tại tòa án nhân dân. Song, trên thực tế đã có không ít các vụ tranh chấp cá nhân về lợi ích và các tranh chấp này hoàn toàn có thể được đưa ra tòa án nhân dân giải quyết (vì BLLĐ không quy định loại trừ việc khởi kiện yêu cầu tòa án nhân dân giải quyết TCLĐ cá nhân về lợi ích). Điều đặc biệt cần lưu ý là khi giải quyết loại tranh chấp này, tòa án sẽ không có căn cứ pháp lý để ra quyết định giải quyết nội dung tranh chấp, vì đơn giản là không có ai đúng, ai sai trong vụ tranh chấp này (ví dụ: NLĐ kiện ra tòa án để đòi doanh nghiệp phải tăng 30% lương cho mình. Nếu mức lương doanh nghiệp đang trả cho NLĐ phù hợp với thỏa ước lao động tập thể, quy chế tiền lương hiện hành của doanh nghiệp và phù hợp với quy định của pháp luật thì tòa án không thể ra một quyết định buộc doanh nghiệp phải tăng lương cho NLĐ). Như vậy, đối với các vụ tranh chấp này, sau khi tòa án đã thụ lý vụ án thì hòa giải trong tố tụng sẽ là vấn đề đặc biệt quan trọng để có thể giải quyết được nội dung của vụ tranh chấp và hóa giải mâu thuẫn của hai bên. Những vấn đề này chưa được thể hiện trong các quy định của Bộ luật TTDS, làm giảm hiệu quả giải quyết loại tranh chấp này tại tòa án.
Vấn đề hòa giải trong tố tụng đối với các TCLĐ cũng chưa được Bộ luật TTDS quan tâm đúng mức. Trong nhiều trường hợp, nếu phải giải quyết TCLĐ bằng cách ra quyết định, bản án thì có thể dẫn đến quá trình giải quyết tranh chấp bị kéo dài một cách quá mức, đe dọa đến cuộc sống của bản thân và gia đình NLĐ, đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đến sự ổn định của thị trường lao động và đến cả trật tự, an toàn xã hội. Từ đó, mục đích giải quyết nhanh chóng, kịp thời đối với TCLĐ cũng không đạt được. Trong nhiều trường hợp khác, quan hệ lao động giữa NLĐ và NSDLĐ (hai bên đang có tranh chấp) vẫn đang tiếp diễn ngay trong quá trình giải quyết tranh chấp hoặc được kết nối lại sau quá trình giải quyết TCLĐ càng cần đến hòa giải và hòa giải thành trong quá trình giải quyết vụ việc. Vì không quy định riêng cho thủ tục giải quyết TCLĐ nên Bộ luật TTDS không thể giải quyết thấu đáo vấn đề này, cộng với cách triển khai các quy định của pháp luật trên thực tế còn bất cập, nên thủ tục hòa giải trong quá trình giải quyết TCLĐ thường mang tính hình thức, thậm chí được sử dụng chỉ nhằm đảm bảo hợp lệ về mặt thủ tục trong quá trình này.
Bộ luật TTDS chưa có những quy định riêng về hòa giải đối với một số tranh chấp đặc thù. Bộ luật TTDS có nhiều điều luật quy định liên quan đến chế định hòa giải như Điều 5, Điều 10, Điều 180, Điều 181, Điều 181, Điều 182, Điều 183; Điều 184; Điều 185; Điều 187... Đồng thời Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có những hướng dẫn thi hành đối với những điều luật này. Tuy nhiên, nghiên cứu những quy định này cho thấy, chưa có bóng dáng của những quy định hay hướng dẫn riêng về hòa giải đối với một số tranh chấp đặc thù như: tranh chấp hôn nhân, gia đình, tranh chấp đất đai, thừa kế, TCLĐ, tranh chấp thương mại...[2]
Các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Bộ luật TTDS cũng ở trong tình trạng tương tự, tức là chưa giải quyết được những đặc điểm riêng biệt của trình tự, thủ tục giải quyết TCLĐ so với việc giải quyết tranh chấp dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình. Điều này dẫn đến việc áp dụng trên thực tế các văn bản này vào quá trình giải quyết TCLĐ không tránh khỏi lúng túng và còn ý kiến khác nhau, ảnh hưởng không tốt đến việc giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, kịp thời, đến khả năng duy trì và ổn định quan hệ lao động; chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia khởi kiện, tham gia tố tụng của các cơ quan, tổ chức hữu quan như tổ chức công đoàn, BHXH...
 Thứ hai, nhiều quy định cụ thể của Bộ luật TTDS khi áp dụng trong việc giải quyết TCLĐ tại tòa án đã bộc lộ rõ những hạn chế hoặc lạc hậu so với hiện nay, cần phải được rà soát, nghiên cứu để hoàn thiện. Có thể lấy ra một vài ví dụ tiêu biểu, như:
- Về hiệu lực của Bộ luật TTDS:
Theo quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 2 Bộ luật TTDS thì Bộ luật này được áp dụng đối với mọi hoạt động TTDS do cơ quan Lãnh sự của Việt Nam tiến hành ở nước ngoài, đối với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó. Cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc các quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập thì vụ việc dân sự có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao. Tuy nhiên, hiện nay theo quy định tại khoản 13 Điều 8 Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài thì cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài không phải cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài có quyền thực hiện một số hoạt động TTDS. Bên cạnh đó, theo quy định tại Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế thì không phải mọi điều ước quốc tế mà sau khi Việt Nam ký với nước ngoài hoặc sau khi Việt Nam gia nhập là có hiệu lực với Việt Nam. Trong một số trường hợp, sau khi ký hoặc gia nhập thì Việt Nam phải phê duyệt, phê chuẩn hoặc trao đổi văn kiện theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế để điều ước quốc tế đó có hiệu lực đối với Việt Nam, mà chúng chỉ có hiệu lực đối với Việt Nam khi Việt Nam được coi là thành viên của điều ước đó[3].
- Những TCLĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án:
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 31 Bộ luật TTDS thì tranh chấp về BHXH theo quy định của pháp luật về lao động cũng là loại TCLĐ cá nhân thuộc thẩm quyền của tòa án. Quy định này được xây dựng theo hướng xác định về nội dung tranh chấp mà không xác định theo hướng người có thẩm quyền khởi kiện loại tranh chấp này. Trên thực tế đã phát sinh một số trường hợp khởi kiện mà có ý kiến khác nhau về việc khởi kiện đó có thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 31 nêu trên hay không, như các trường hợp: NLĐ khởi kiện yêu cầu tòa án buộc NSDLĐ phải trả sổ BHXH lại cho họ; tổ chức bảo hiểm xã hội khởi kiện yêu cầu tòa án buộc NSDLĐ phải tham gia đóng BHXH bắt buộc theo quy định của pháp luật về BHXH; NLĐ khởi kiện yêu cầu tòa án buộc tổ chức bảo hiểm xã hội phải thanh toán các chế độ BHXH khi NSDLĐ không đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ; tổ chức BHXH khởi kiện yêu cầu tòa án buộc NSDLĐ phải đóng BHXH bắt buộc khi NSDLĐ không đóng, đóng không đầy đủ tiền BHXH bắt buộc; NLĐ khởi kiện yêu cầu tòa án buộc NSDLĐ phải đóng BHXH bắt buộc khi NSDLĐ không đóng, đóng không đầy đủ tiền BHXH bắt buộc cho NLĐ.
Ngoài ra, hiện nay có một số loại TCLĐ được giải quyết tại tòa án mới được quy định tại Bộ luật Lao động năm 2012 và Luật Công đoàn năm 2012, như tranh chấp liên quan đến việc không thực hiện hoặc từ chối thực hiện trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động đối với công đoàn (khoản 3 Điều 30 Luật Công đoàn năm 2012).
-Việc xác định địa chỉ của bị đơn:
Theo quy định tại Điều 58, khoản 1 Điều 59 và khoản 1 Điều 60 Bộ luật TTDS thì nguyên đơn và bị đơn có quyền, nghĩa vụ trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho tòa án; đề nghị tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá, thẩm định giá.            
Trong những năm qua, do nền kinh tế gặp khó khăn nên nhiều doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu đã tạm dừng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Trong số đó, có nhiều nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu doanh nghiệp đã rời khỏi Việt Nam mà không quay trở lại và cũng không thể liên lạc được sau khi doanh nghiệp không trả được lương cho NLĐ, nợ tiền BHXH bắt buộc, tiền bảo hiểm thất nghiệp... Do đó, trong trường hợp này, khi NLĐ khởi kiện doanh nghiệp thì cả NLĐ và tòa án gặp khó khăn, lúng túng vì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chính là nhà đầu tư nước ngoài đã rời khỏi Việt Nam. Trên thực tế, NLĐ không thể biết được địa chỉ cụ thể ở trong nước hoặc ở nước ngoài của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp mà họ làm việc. Nếu vì lý do trên mà tòa án trả lại đơn kiện cho NLĐ theo khoản 2 Điều 169 Bộ luật TTDS thì không bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ. Do đó, hiện có nhiều ý kiến cho rằng, trong trường hợp người nước ngoài là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (đồng thời là chủ sở hữu doanh nghiệp) đó rời khỏi Việt Nam quá thời hạn 30 ngày liên tục mà không ủy quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định của pháp luật, thì NLĐ hoặc đại diện ban chấp hành công đoàn cơ sở có quyền yêu cầu Sở Kế hoạch và Đầu tư cung cấp địa chỉ ở nước ngoài của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và Sở Kế hoạch và Đầu tư có nghĩa vụ cung cấp cho họ. Trên cơ sở đó, tòa án cần thụ lý vụ án và thực hiện yêu cầu ủy thác tư pháp đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp[4].
 - Việc tập thể NLĐ ủy quyền cho ban chấp hành công đoàn khởi kiện vụ án: 
Một vấn đề đã và đang xảy ra là việc ủy quyền khởi kiện của tập thể NLĐ đối với các TCLĐ về việc nợ lương hoặc nợ tiền BHXH. Trên cơ sở ủy quyền khởi kiện, công đoàn cơ sở của doanh nghiệp chỉ nộp duy nhất một đơn khởi kiện thay vì từng NLĐ nộp đơn khởi kiện. Tuy nhiên, trên thực tế, tòa án lại cho rằng những tranh chấp trên đây là TCLĐ cá nhân, nên từng NLĐ phải làm đơn khởi kiện và tòa án sẽ thụ lý riêng theo từng vụ án mà không nhập vào một vụ án. Trong khi đó, ban chấp hành công đoàn cơ sở lại cho rằng đây là TCLĐ tập thể về quyền nên tòa án cần thụ lý giải quyết. Đây cũng là sự chưa thống nhất trong quy định và chưa thống nhất trong áp dụng pháp luật giữa luật nội dung (BLLĐ) và luật tố tụng (Bộ luật TTDS).
- Về các biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Theo quy định tại khoản 4 Điều 102 Bộ luật TTDS thì một trong những biện pháp khẩn cấp tạm thời mà tòa án có thể áp dụng trong các vụ án lao động là buộc NSDLĐ tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho NLĐ. Đây là những khoản tiền để đảm bảo yêu cầu cấp thiết cho NLĐ. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay do nhiều NSDLĐ không tham gia hoặc không đóng, không đóng đầy đủ BHXH, bảo hiểm y tế bắt buộc theo quy định của pháp luật về BHXH, bảo hiểm y tế nên BHXH đã từ chối thanh toán các khoản tiền về chế độ BHXH như chế độ thai sản, chế độ ốm đau, chế độ hưu trí, trợ cấp thất nghiệp; tổ chức bảo hiểm y tế từ chối thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế. Việc từ chối thanh toán các chế độ nêu trên đã và đang ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến NLĐ. Việc không quy định biện pháp khẩn cấp tạm thời là buộc NSDLĐ phải tạm ứng tiền chế độ thai sản, chế độ ốm đau, chế độ hưu trí, trợ cấp thất nghiệp; chi phí khám chữa bệnh, chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế cho NLĐ trong Bộ luật TTDS có yếu tố khách quan là do Luật BHXH được ban hành năm 2006 và Luật Bảo hiểm y tế được ban hành năm 2008 không quy định vấn đề này. Do đó, vấn đề này đã không được xem xét, sửa đổi, bổ sung khi xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTDS năm 2011. Trong lần sửa đổi, bổ sung Luật BHXH, Luật Bảo hiểm y tế năm 2014, vấn đề này cũng chưa được đề cập đến. Do vậy, trên thực tế vẫn chưa có cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của NLĐ.
-Hòa giải và chuẩn bị xét xử:
Bộ luật TTDS chưa quy định cách giải quyết trong trường hợp nguyên đơn đã được toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tiến hành hòa giải mà vẫn vắng mặt. Vì vậy, đã tồn tại những quan điểm áp dụng pháp luật khác nhau. Có ý kiến cho rằng, trong trường hợp này tòa án phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật TTDS, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng. Ý kiến khác lại cho rằng, nếu đình chỉ giải quyết vụ án là không công bằng với nguyên đơn.
Quy định về thành phần tham gia hòa giải tại khoản 4 Điều 184 Bộ luật TTDS mang tính tùy nghi, phụ thuộc vào việc đánh giá của thẩm phán về vai trò của cá nhân, cơ quan, tổ chức vào việc thực hiện hòa giải mà thẩm phán quyết định mời hay không mời. Vì vậy, quy định này không hỗ trợ nhiều cho việc hòa giải, không tận dụng được nguồn lực nhân sự về giải quyết TCLĐ như ban chấp hành công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở. Hơn nữa, theo quy định của Bộ luật TTDS thì việc hòa giải vẫn do thẩm phán tiến hành, kiểm soát, kể cả việc hòa giải đó có sự có mặt của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia. Với quy định như vậy thì chưa thực sự tạo điều kiện cho NLĐ, NSDLĐ, đại diện ban chấp hành công đoàn cơ sở, hoặc đại diện công đoàn cấp trên trực tiếp hoặc hòa giải viên hỗ trợ NLĐ xác định vấn đề tranh chấp, đề xuất và thống nhất phương án giải quyết tranh chấp.
- Về thủ tục giải quyết các TCLĐ có yếu tố nước ngoài:
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 410 Bộ luật TTDS thì toà án Việt Nam giải quyết các TCLĐ có yếu tố nước ngoài mà bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam. Theo quy định này thì chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam không được công nhận là bị đơn. Đồng thời, quy định này cũng đồng nghĩa với việc chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam không được coi là nguyên đơn. Do đó, vụ án lao động sẽ không được tòa án thụ lý nếu chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam khởi kiện hoặc bị kiện. Quy định này không phù hợp với các quy định của pháp luật chuyên ngành về khái niệm NSDLĐ (BLLĐ năm 2012 quy định chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức nước ngoài tại Việt Nam là NSDLĐ); quy định của pháp luật chuyên ngành về chế độ tài chính của chi nhánh của một số cơ quan, tổ chức nước ngoài (Nghị định số 57/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ về chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài)[5].
3.  Yêu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật về tố tụng lao động
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về tố tụng lao động ở nước ta cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau đây:
Một là, cụ thể hoá Hiến pháp năm 2013 và tiếp tục thể chế hoá mục tiêu, quan điểm, định hướng về cải cách tư pháp đã được xác định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Hai là, tăng cường và tiếp tục thực hiện đổi mới cải cách tư pháp trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân đối với TCLĐ, tôn trọng quyền thương lượng và tự định đoạt của các bên trong giải quyết TCLĐ theo quy định của pháp luật; bảo vệ NLĐ, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của NSDLĐ; đáp ứng kịp thời các yêu cầu khách quan của thực tiễn giải quyết TCLĐ tại tòa án nhân dân; thực hiện và bảo vệ tốt hơn các quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ, NSDLĐ, lợi ích nhà nước trong lĩnh vực lao động; nâng cao trách nhiệm của NLĐ và NSDLĐ; nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác đối với quan hệ lao động; vai trò của Nhà nước và xã hội đối với NLĐ và NSDLĐ.
Ba là, kế thừa và phát triển các quy định phù hợp của Bộ luật TTDS năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTDS năm 2011; sửa đổi và/hoặc loại bỏ những quy định không còn phù hợp, tính khả thi thấp và bổ sung những quy định mới cần thiết phù hợp.
Bốn là, tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật về giải quyết TCLĐ tại tòa án của một số quốc gia trên thế giới, thông lệ quốc tế và nội dung của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Năm là, đảm bảo tính khả thi, tính đồng bộ giữa các quy định của pháp luật về tố tụng lao động với các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan./.

 


 
[1] TS. Phạm Công Bảy, Đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục và thời hạn tố tụng lao động, Hội thảo về xây dựng thủ tục tố tụng lao động trong Dự thảo Bộ luật TTDS, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hà Nội, tháng 2/2015.
[2] Trần Thị Thu Hiền, Báo cáo Tổng kết, đánh giá các quy định của Bộ luật TTDS về giải quyết TCLĐ và đề xuất xây dựng thủ tục tố tụng lao động, Hội thảo Kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết các TCLĐ và đề xuất mô hình tố tụng lao động cho Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, tháng 03/2015.
[3] Theo Báo cáo tổng kết thi hành Bộ luật TTDS và các quy định khác của pháp luật về giải quyết TCLĐ của Tòa án nhân dân tối cao, tháng 11/2013.
[4] Theo Báo cáo tổng kết thi hành Bộ luật TTDS và các quy định khác của pháp luật về giải quyết TCLĐ của Tòa án nhân dân tối cao, tháng 11/2013.
[5] Theo Báo cáo tổng kết thi hành Bộ luật TTDS và các quy định khác của pháp luật về giải quyết TCLĐ của Tòa án nhân dân tối cao, tháng 11/2013.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23(303), tháng 12/2015)


Thống kê truy cập

33950054

Tổng truy cập