Yêu cầu khách quan và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước

01/12/2012

TS. ĐẶNG VĂN HẢI

Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Kiểm toán Nhà nước.

Luật Kiểm toán nhà nước (KTNN) được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. Đây là văn bản pháp luật quan trọng trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, cơ sở pháp lý cao nhất hiện nay quy định về tổ chức và hoạt động của KTNN. Sau 5 năm thi hành Luật KTNN, địa vị pháp lý của KTNN đã được nâng cao; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của KTNN được quy định đầy đủ hơn; quy mô, loại hình và chất lượng kiểm toán được mở rộng và tăng cường; vị trí, vai trò của KTNN ngày càng được khẳng định, nhất là từ khi thực hiện công khai kết quả kiểm toán theo quy định của Luật KTNN.
Sau 5 năm thi hành Luật KTNN, KTNN đã kiến nghị xử lý tài chính 70.597 tỷ đồng, bằng 78,36% tổng số kiến nghị xử lý tài chính trong 16 năm KTNN hoạt động, trong đó: tăng thu về thuế và các khoản thu khác 17.078 tỷ đồng, giảm chi ngân sách nhà nước (NSNN) 10.806 tỷ đồng, các khoản phải nộp, hoàn trả và quản lý qua NSNN là 29.133 tỷ đồng, phát hiện tăng thêm so với báo cáo của cơ quan quản lý thu 7.871 tỷ đồng, kiến nghị xử lý tài chính khác 9.344 tỷ đồng...
Kết quả hoạt động KTNN không chỉ thể hiện, ghi nhận bằng những số liệu kiến nghị xử lý tài chính hàng nghìn tỷ đồng mà còn thể hiện ở những kiến nghị kiểm toán mang tính tư vấn, xử lý sai phạm... đã giúp các đơn vị được kiểm toán, các cơ quan quản lý nhà nước chấn chỉnh công tác quản lý tài chính - ngân sách, kế toán, ngăn ngừa những hành vi tiêu cực, tham ô, lãng phí, thất thoát tiền, tài sản nhà nước; giúp các đơn vị hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý của mình, đảm bảo quản lý, sử dụng tiền, tài sản nhà nước đúng pháp luật và có hiệu quả.
KTNN đã phối hợp, cung cấp những thông tin xác thực về tình hình quản lý điều hành ngân sách, tiền và tài sản nhà nước và có nhiều kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ... góp phần sửa đổi, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. KTNN đã kiến nghị huỷ bỏ, sửa đổi hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật sai quy định hoặc không phù hợp thực tế; kiến nghị các Bộ, ngành, địa phương hủy bỏ 128 văn bản; sửa đổi, bổ sung 86 văn bản (Nghị định, Nghị quyết, Quyết định, Thông tư…). Đặc biệt, KTNN đã đề xuất ý kiến hoàn thiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nhất là Luật NSNN, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN)... Đây là những đóng góp thiết thực của KTNN với chức năng tư vấn của cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước.
Những kết quả đạt được sau 5 năm thực hiện Luật KTNN đã góp phần tăng cường tính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Kết quả hoạt động KTNN đã đóng góp tích cực vào thành tựu của công cuộc đổi mới, cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách tài chính công, khẳng định vị trí, vai trò của KTNN trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Hoạt động KTNN và công khai kết quả kiểm toán không chỉ góp phần tạo lòng tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước mà còn tạo lòng tin của nhân dân, công chúng và toàn xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật KTNN đã phát sinh nhiều vấn đề mới cần phải giải quyết, một số quy định của Luật KTNN bộc lộ những bất hợp lý cần được xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của KTNN. Ví dụ như: thuật ngữ “chuyên môn’’ trong quy định về địa vị pháp lý của KTNN tại Điều 13 là không phù hợp, chưa thể hiện được bản chất của KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất hoặc KTNN là cơ quan kiểm toán tối cao như các nước trên thế giới đã quy định; nhiệm vụ của KTNN chưa bao quát hết đối với việc kiểm tra, kiểm soát mọi nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công, một số nhiệm vụ phát sinh trên thực tế (PCTN, kiểm toán nợ công) chưa được quy định, chưa quy định rõ nhiệm vụ tiền kiểm của KTNN; chưa phân cấp và tăng cường trách nhiệm cho Tổng KTNN trong vấn đề thiết lập hệ thống tổ chức của KTNN; quy định về Phó Tổng KTNN chưa phù hợp với pháp luật về cán bộ, công chức; tên gọi của các KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực và chức danh Kiểm toán trưởng chưa tương thích với tên gọi của tổ chức và chức danh tương đương trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước; chưa quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực trong chỉ đạo và tổ chức hoạt động kiểm toán; quy định ngạch Kiểm toán viên dự bị không phù hợp với quy định về phân loại công chức của Luật Cán bộ, công chức; quy định về thành viên Đoàn kiểm toán tại Điều 35, Điều 44 là chưa đầy đủ và chưa bảo đảm tính thống nhất; Luật chỉ sử dụng hình thức “Biên bản kiểm toán” để ghi lại kết quả kiểm toán của Tổ kiểm toán là chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động kiểm toán; quy định về thời gian gửi báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán còn ngắn, gây khó khăn cho hoạt động kiểm toán; quy định về giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán còn trừu tượng, dễ dẫn đến cách hiểu không đúng về tinh thần và nội dung của quy phạm khi cho rằng, kết luận, kiến nghị kiểm toán chỉ có giá trị bắt buộc thi hành đối với đơn vị được kiểm toán khi đơn vị được kiểm toán chấp nhận; quy định về các đơn vị được kiểm toán chưa bao quát hết phạm vi kiểm toán quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; chưa có các quy định về chế tài đối với các hành vi vi phạm Luật KTNN của đơn vị được kiểm toán và của tổ chức, cá nhân có liên quan; chưa quy định mối quan hệ giữa KTNN với các cơ quan của Quốc hội, các Bộ, ngành, chính quyền các cấp và các tổ chức có liên quan trong hoạt động kiểm toán; việc sử dụng kết quả kiểm toán còn hạn chế và chưa thật sự hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan có liên quan (giám sát, quản lý, xử lý trách nhiệm và phòng chống tham nhũng)...
Bên cạnh đó, trên thực tế thi hành Luật KTNN, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện hiện naycủa KTNN còn thiếu. Công suất trụ sở KTNN ở trung ương trên thực tế đã khai thác gấp hai lần so với thiết kế, không đủ diện tích làm việc tối thiểu. Hầu hết KTNN khu vực chưa có trụ sở riêng, phải thuê tạm thời (chỉ có 03/13 KTNN khu vực có trụ sở ổn định); chưa có chế độ chính sách đãi ngộ theo tính chất hoạt động đặc thù kiểm toán (như phụ cấp lưu động và một số loại phụ cấp khác) và thu nhập so với mặt bằng hiện nay còn thấp, đặc biệt là đối với đội ngũ Kiểm toán viên làm việc trong điều kiện đi công tác xa, dài ngày trên các địa bàn trong cả nư­ớc; chưa có sự tương thích giữa một số quy định của Luật KTNN với các luật có liên quan...
Để khắc phục những tồn tại, bất cập nêu trên, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật  KTNN. Trên cơ sở quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực của INTOSAI[1], việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN cần được thực hiện theo các nội dung định hướng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, địa vị pháp lý của KTNN
Để xác lập địa vị pháp lý của KTNN đúng với bản chất của cơ quan KTNN, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của INTOSAI và phù hợp với thông lệ quốc tế, vấn đề trước tiên và mang tính quyết định là đề xuất bổ sung vào Hiến pháp những quy định cơ bản về vị trí, chức năng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của KTNN, cũng như việc bầu Tổng KTNN.
 Nên sửa đổi lại Điều 13 của Luật KTNN như sau: “KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” cho phù hợp với quy định của Hiến pháp.
Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức Chính phủ liên quan đến KTNN nhằm khẳng định KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục bầu, bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh Tổng KTNN và Phó Tổng KTNN.
Thứ hai, bổ sung thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN
Bổ sung nhiệm vụ PCTN: Việc bổ sung nhiệm vụ PCTN là phù hợp quy định tại Điều 3 của Luật KTNN về mục đích kiểm toán "...góp phần... chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí”; đồng thời để tương thích với quy định của Luật PCTN (Điều 77 của Luật PCTN quy định về trách nhiệm của KTNN). Đề nghị bổ sung nhiệm vụ PCTN vào Điều 15 của Luật KTNN với nội dung: “Phòng ngừa, phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động kiểm toán; trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”.
Bổ sung nhiệm vụ kiểm toán nợ công:Việc bổ sung nhiệm vụ kiểm toán nợ công là phù hợp thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Đồng thời, bảo đảm phát huy vai trò của KTNN trong việc kiểm toán để xem xét mức vay nợ và an toàn nợ công của quốc gia; kiến nghị các biện pháp nhằm quản lý, sử dụng nợ công có hiệu quả cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Về nhiệm vụ trình ý kiến để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSNN:
Quy định tại khoản 4 Điều 15 về nhiệm vụ của KTNN: Trình ý kiến để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSNN là chưa rõ ràng về đối tượng kiểm toán và chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán, dẫn đến khó khăn, lúng túng trong tổ chức thực hiện. Để khắc phục tình trạng trên, đề nghị sửa đổi nội dung quy định này theo hướng quy định rõ: KTNN thực hiện kiểm toán dự toán NSNN, các dự án, công trình quan trọng quốc gia phục vụ cho việc Quốc hội xem xét quyết định.
Việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về KTNN: Bổ sung thẩm quyền của KTNN xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về KTNN của đơn vị được kiểm toán, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm hiệu lực thi hành của Luật KTNN và tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ ba, hoàn thiện chế định TổngKTNN, Phó Tổng KTNN
Về Tổng KTNN (từ Điều 17 đến Điều 19): Để tăng thêm tính độc lập cho Tổng KTNN, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và phù hợp với thông lệ quốc tế, cần sửa đổi, bổ sung Luật KTNN theo hướng phân cấp mạnh hơn và tăng cường trách nhiệm cho Tổng KTNN trong một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của KTNN như sau: Bổ sung thêm một điều quy định về quyền miễn trừ đối với Tổng KTNN như quy định về quyền miễn trừ đối với Đại biểu Quốc hội; bổ sung nhiệm vụ xây dựng Chiến lược phát triển KTNN trong từng thời kỳ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định; sửa đổi, bổ sung Điều 21 của Luật KTNN theo hướng quy định cho Tổng KTNN quyền quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các đơn vị trực thuộc KTNN sau khi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã phê duyệt Chiến lược phát triển KTNN trong từng thời kỳ hoặc đã có nghị quyết cho phép thành lập thêm các đơn vị trực thuộc KTNN.
Về Phó Tổng KTNN (Điều 20): Đề nghị xem xét sửa đổi quy định về việc bổ nhiệm Phó Tổng KTNN theo hướng: Phó Tổng KTNN do Tổng KTNN đề nghị Chủ tịch Quốc hội (hoặc Chủ tịch nước) bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Phó Tổng KTNN là 5 năm cho phù hợp với quy định của Luật Cán bộ, công chức.
Thứ tư, tổ chức của Kiểm toán Nhà nước
Về hệ thống tổ chức của KTNN, khoản 1 Điều 21 nên quy định rõ cơ cấu tổ chức của KTNN gồm các vụ và các đơn vị tương đương cấp vụ để tránh hiểu không đúng trong quá trình thực hiện; đổi tên KTNN chuyên ngành thành Vụ Kiểm toán chuyên ngành, KTNN khu vực thành Cục Kiểm toán khu vực; đổi tên các chức danh Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng thành Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng Kiểm toán chuyên ngành, Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Kiểm toán khu vực cho phù hợp thông lệ chung về tổ chức bộ máy của các Bộ, ngành và tránh sự hiểu nhầm như hiện nay; bổ sung theo hướng luật hoá nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực trong tất cả các bước của quy trình kiểm toán nhằm nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị, đồng thời bảo đảm hoạt động kiểm toán tuân thủ theo các quy định của Luật KTNN.
Thứ năm, Kiểm toán viên nhà nước
 Về chức danh Kiểm toán viên nhà nước (Điều 27): Đề nghị thay thế ngạch "Kiểm toán viên dự bị” bằng “Trợ lý kiểm toán” để phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp và tương thích với Luật Cán bộ, công chức và khắc phục những hạn chế trong tuyển dụng và sử dụng đội ngũ Kiểm toán viên của KTNN.
Thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm Kiểm toán viên nhà nước (Điều 28): Để tăng tính chủ động về trách nhiệm của Tổng KTNN, qua tham khảo một số Bộ, ngành khác (Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm ngạch Kiểm sát viên cao cấp; Bộ trưởng Bộ Nội vụ bổ nhiệm ngạch chuyên viên cao cấp), đề nghị phân cấp cho Tổng KTNN thẩm quyền bổ nhiệm ngạch Kiểm toán viên cao cấp. Để quản lý, giám sát vấn đề này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành một văn bản (nghị quyết) quy định cụ thể việc bổ nhiệm, miễn nhiệm ngạch Kiểm toán viên cao cấp.
Thứ sáu, hoạt động KTNN
Về thành phần Đoàn kiểm toán (Điều 44): Để quy định về thành phần Đoàn kiểm toán được đầy đủ và bảo đảm sự thống nhất trong các quy định của Luật KTNN, đề nghị bổ sung cụm từ “Kiểm toán viên nhà nước” vào thành phần của Đoàn kiểm toán. 
Về biên bản kiểm toán, báo cáo kiểm toán của Tổ kiểm toán (Điều 45, Điều 47, Điều 48):Để phù hợp với thực tế kiểm toán, đề nghị bổ sung “Báo cáo kiểm toán của Tổ kiểm toán” để ghi lại kết quả kiểm toán của Tổ kiểm toán tại các đơn vị được kiểm toán, còn "Biên bản kiểm toán" dùng để ghi chép, xác nhận số liệu và tình hình kiểm toán hay kiểm tra (hoặc đối chiếu) với bên thứ 3 về các nội dung kiểm toán theo Kế hoạch kiểm toán đã được phê duyệt, làm căn cứ pháp lý cho việc lập Báo cáo kiểm toán của Tổ kiểm toán, Báo cáo kiểm toán của Đoàn kiểm toán.
Về các thành viên khác của Đoàn kiểm toán: Để đảm bảo phù hợp với thực tế và bao quát hết các thành viên đoàn kiểm toán không phải là kiểm toán viên nhà nước (các chuyên viên, thanh tra viên...) đề nghị sửa khoản 1 Điều 49 thành: "thành viên khác của Đoàn kiểm toán là thành viên không phải Kiểm toán viên nhà nước”.
Về lập và gửi báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán (Điều 54):Đề nghị tăng thời hạn gửi báo cáo kiểm toán quy định tại khoản 4 Điều 54 cho phù hợp với thực tiễn hoạt động kiểm toán.
Về kiểm soát chất lượng kiểm toán: Bổ sung 01 điều quy định về nội dung kiểm soát chất lượng kiểm toán và trách nhiệm kiểm soát chất lượng kiểm toán của các chủ thể có liên quan trong hoạt động kiểm toán của KTNN.
Thứ bảy,giá trị pháp lý của Báo cáo kiểm toán
 Đề nghị bổ sung vào khoản 3 Điều 9 quy định chủ thể có thẩm quyền chấp nhận kết luận kiểm toán; quy định trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán trong việc thực hiện kiến nghị kiểm toán của KTNN.
Thứ tám, đơn vị được kiểm toán, bảo đảm hoạt động và giám sát hoạt động của KTNN
Về các đơn vị được kiểm toán (Điều 63): Bổ sung thêm đơn vị được kiểm toán là các đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động vào khoản 7 Điều 63 của Luật KTNN cho phù hợp với quy định của pháp luật về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập. Đề nghị thay thế quy định tại khoản 11, Điều 63 của Luật KTNN về “Doanh nghiệp nhà nước” bằng quy định “ Các doanh nghiệp có quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước theo quy định của pháp luật”. Quy định này nhằm bảo đảm sự phù hợp với Luật Doanh nghiệp năm 2005; bảo đảm bao quát nhiệm vụ của KTNN đối với việc kiểm tra, kiểm soát mọi nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công, mở rộng hoạt động kiểm toán doanh nghiệp theo hướng vừa kiểm toán như hiện nay, vừa kiểm toán việc quản lý và sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối.
Về quyền của đơn vị được kiểm toán (Điều 64):Bổ sung quy định về thời hạn cho phép đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền kiến nghị; quy định đơn vị được kiểm toán có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các bằng chứng để chứng minh cho ý kiến kiến nghị của mình.
Về nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán (Điều 65):Đề nghị sửa khoản 5 Điều 65 Luật KTNN: "Người đứng đầu đơn vị được kiểm toán phải ký biên bản kiểm toán” thành "Người đứng đầu đơn vị được kiểm toán hoặc người được ủy quyền phải ký biên bản kiểm toán” cho phù hợp thực tiễn hoạt động kiểm toán của KTNN.
Về bảo đảm hoạt động của KTNN: Đề nghị bổ sung vào Điều 70 của Luật KTNN quy định về chế độ đối với công chức của KTNN nội dung sau: Nhà nước có chính sách ưu tiên đối với công chức ở các KTNN khu vực (Cục KTNN khu vực) đóng trên địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa cho phù hợp với quy định tại Điều 12 Luật Cán bộ, công chức.
Về chế tài đối với các hành vi vi phạm Luật KTNN: Sửa đổi Điều 73 Luật KTNN về xử lý vi phạm theo hướng đưa ra các quy định mang tính nguyên tắc, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi vi phạm Luật KTNN. Bên cạnh đó, KTNN cần phải bám sát và kiến nghị Quốc hội đưa vào Dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính những quy định cần thiết để tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu lực, hiệu quả cho hoạt động kiểm toán của KTNN.   
Thứ chín,mối quan hệ giữa KTNN với cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động kiểm toán
Bổ sung quy định về mối quan hệ giữa KTNN với cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động kiểm toánnhư: Hội đồng nhân dân địa phương; Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan của Chính phủ; kiểm toán độc lập; quan hệ phối hợp kiểm toán giữa KTNN Việt Nam với cơ quan KTNN tối cao của các quốc gia trên thế giới trong việc phối hợp thực hiện kiểm toán, tạo cơ sở pháp lý cho việc thiết lập và thực hiện quan hệ giữa KTNN với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động kiểm toán./.
 
 

[1] INTOSAI: Tổ chức Quốc tế các Cơ quan Kiểm toán Tối cao 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24(232), tháng 12/2012)


Thống kê truy cập

33957771

Tổng truy cập