Hiến pháp - nền tảng pháp lý vững chắc cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới

01/02/2014

UÔNG CHU LƯU

Tiến sĩ Luật học, Ủy viên BCHTƯ Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội

Ngày 28/11/2013, với đa số phiếu tuyệt đối (486/488, chiếm 97,59% tổng số đại biểu Quốc hội có mặt), Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (sau đây gọi là Hiến pháp). Đây là một sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta.
Kể từ ngày Quốc hội ra Nghị quyết về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (tháng 8/2011), với tinh thần dân chủ, trách nhiệm, tâm huyết, trí tuệ và cách làm khoa học, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị đã tham gia tích cực vào quá trình xây dựng Dự thảo Hiến pháp. Đã có hơn 26 triệu lượt ý kiến nhân dân, 28 nghìn hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức. Quốc hội đã dành ba kỳ họp (kỳ 4, kỳ 5 và kỳ 6), thảo luận, cho ý kiến, sửa trực tiếp vào Dự thảo và thông qua Hiến pháp; bốn lần trình Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Trung ương 2, 5, 7 và 8) và rất nhiều lần xin ý kiến Bộ Chính trị. Tuy vẫn còn có ý kiến khác, nhưng có thể nói rằng, bản Hiến pháp đã được chắt lọc, tiếp thu, kết tinh được trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân, thể hiện được ý Đảng, lòng dân và sự đồng thuận cao của cả hệ thống chính trị.
Bản Hiến pháp có nhiều điểm mới quan trọng cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đề ra. Đây là bản Hiến pháp của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc Đổi mới, đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển và hội nhập quốc tế của nước ta trong thời kỳ mới.
Với bố cục 11 chương, 120 điều, Hiến pháp đã khẳng định mạnh mẽ ý chí, chủ quyền của Nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta. Hiến pháp khẳng định nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời (Điều 1). Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Hiến pháp tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Lần đầu tiên kiểm soát quyền lực được ghi nhận trong Hiến pháp, đây là nguyên tắc rất quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Quy định như vậy để mỗi cơ quan phát huy đầy đủ trách nhiệm và thực hiện có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; hạn chế và không để xảy ra tình trạng lạm dụng quyền lực; phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đồng thời để Nhân dân có cơ sở hiến định giám sát quyền lực nhà nước. Hiến pháp quy định Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Trong một chế độ dân chủ, Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền bầu cử, ứng cử, quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân nếu đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân. Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân về các vấn đề quan trọng của đất nước, kể cả việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Điều 120). Đây là quyền dân chủ trực tiếp của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Kế thừa Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục khẳng định: Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc… Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước. Đây là một điểm mới, một chính sách rất quan trọng trong một quốc gia đa dân tộc. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển, là chính sách tiến bộ, dân chủ và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp trước. Hiến pháp mới xác định Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy được nội lực của chính mình phấn đấu, vươn lên, phát triển cùng đất nước.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực rất quan trọng, nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Hiến pháp khẳng định vai trò to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam và các tổ chức  chính trị - xã hội, các thành viên khác của Mặt trận, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với một vị trí trang trọng, tại Điều 4, Hiến pháp tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam; làm rõ và sâu sắc hơn bản chất tiên phong, bản chất nhân dân của Đảng. Khẳng định Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác Lê- nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Chính do bản chất và nền tảng tư tưởng của Đảng như vậy nên Nhân dân ta thừa nhận vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng và ghi nhận vào Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước. Đồng thời, Hiến pháp bổ sung một điểm mới rất quan trọng đó là Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Đây là điều mà Đảng ta ngay từ khi mới thành lập, trong suốt quá trình cách mạng, lãnh đạo đất nước và mãi sau này Đảng ta luôn thực hiện. Đó là quy luật tồn tại, sức sống và sự phát triển tất yếu của Đảng. Đồng thời, Hiến pháp quy định các tổ chức của Đảng và đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Trong Nhà nước pháp quyền, các tổ chức của Đảng và đảng viên cũng phải thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.
Thể chế hóa cương lĩnh, tổng kết thực tiễn hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đối ngoại nhân dân, trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế hiện đại, Hiến pháp đã xác định rõ ràng đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đó là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Phát huy đầy đủ nhân tố con người, Hiến pháp thể hiện sâu sắc và đầy đủ hơn quan điểm tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội phải do Hiến pháp quy định. Mọi sự hạn chế quyền công dân phải do luật định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; Hiến pháp quy định rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; bổ sung một số quyền mới như quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, quyền được bảo đảm về an sinh xã hội, quyền được sống trong môi trường trong lành… Các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân của Hiến pháp bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế, xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân.
Hiến pháp đã xác định tính chất, mô hình kinh tế tổng thể (Điều 5 và Điều 31), vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (Điều 52). Kế thừa Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp quy định nước Cộng hòa XHCN Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quy định như vậy vừa thể hiện được mục đích, bản chất, động lực phát triển bền vững, lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta.
Về các thành phần kinh tế, Hiến pháp tiếp tục khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Lần đầu tiên, vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp được ghi nhận trong Hiến pháp là lực lượng nòng cốt làm ra của cải vật chất cho đất nước và xã hội, tham gia tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải hoạt động theo cơ chế thị trường, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, xóa bỏ các cơ chế, chính sách tạo ra bất bình đẳng. Kế thừa Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp khẳng định đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên khác đều thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Việc thu hồi đất là nội dung mới của Hiến pháp, quy định rõ trong trường hợp thật cần thiết phải do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, phải công khai, minh bạch và phải được bồi thường để tránh việc thu hồi đất tùy tiện, tràn lan. Những trường hợp thật cần thiết Nhà nước có quyền trưng dụng đất để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai.
Với quan điểm phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; quy định về giáo dục, khoa học và công nghệ trong cùng một chương trong Hiến pháp (sửa đổi) với những mục tiêu và chính sách cơ bản ở tầm hiến định, bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Hiến pháp bổ sung một điều mới rất quan trọng về chính sách tài chính công (Điều 55) nhằm khẳng định vai trò của tài chính công, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức sử dụng tài chính công, tạo cơ sở hiến định cho việc quản lý, sử dụng hiệu quả tài chính công, nguồn lực quan trọng để xây dựng, phát triển đất nước. Theo đó, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật.
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, là sự nghiệp của toàn dân. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng, quyền cao quý của công dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Hiến pháp tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Hiến pháp định danh và làm rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; xác định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này, bổ sung một số thiết chế hiến định độc lập như Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước. Về Quốc hội, Hiến pháp tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Hiến pháp quy định rõ và hợp lý hơn việc Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ, quyết định mức giới hạn an toàn về nợ công, nợ quốc gia, nợ chính phủ; phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; quy định hợp lý hơn thẩm quyền phê chuẩn, bãi bỏ các điều ước quốc tế… Hiến pháp khẳng định Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, có nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp quy định; bổ sung thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc điều chỉnh đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thẩm quyền phê chuẩn Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Phó Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội, các ủy viên Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban, Ban của Quốc hội; phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam ở nước ngoài…
Hiến pháp tiếp tục giữ các quy định của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, vai trò của Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, quy định Chủ tịch nước phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng Cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm Thẩm phán của các Tòa án khác…
Hiến pháp quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp. Hiến pháp đã sắp xếp, cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ phù hợp với chức năng cơ quan hành pháp để phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Chính phủ trong quản lý, điều hành. Hiến pháp quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sửa đổi, bổ sung một số nguyên tắc hoạt động của Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của các cơ quan tư pháp; nghiêm cấm việc can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án, thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử, chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.
Hiến pháp lần này xác định và quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước, bảo đảm sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực có hiệu lực và hiệu quả trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Về chính quyền địa phương, Hiến pháp giữ quy định về các đơn vị hành chính như Hiến pháp năm 1992, có bổ sung đơn vị hành chính tương đương cấp quận, huyện, thành phố trực thuộc trung ương; quy định đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định, tạo cơ sở hiến định cho việc xây dựng luật chính quyền địa phương. Hiến pháp quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Lần đầu tiên trong Hiến pháp quy định về Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước là những thiết chế hiến định độc lập thể hiện rõ tính dân chủ và pháp quyền của Nhà nước ta. Hội đồng Bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
Hiến pháp quy định thẩm quyền, thủ tục, trình tự của việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp; quy định thời hạn công bố và thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp; việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định. Là đạo luật cơ bản, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất; mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều phải bị xử lý. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.
Với bố cục 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) và kỹ thuật lập hiến chặt chẽ, hiện đại, chọn lọc ý tứ, từ ngữ trong toàn bộ các chương, điều, khoản của Hiến pháp, bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng tầm là đạo luật cơ bản, có tính ổn định lâu dài.
Để sớm đưa Hiến pháp vào cuộc sống, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã  thông qua Nghị quyết về việc thi hành Hiến pháp, trong đó xác định rõ các công việc phải làm và trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn dân tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 4(260), tháng 2/2014)