Thuế thuốc lá ở Việt Nam: Cải cách là rất cần thiết để đạt được mục tiêu sức khỏe

01/11/2018

KIDONG PARK

Trưởng đại diện Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam.

Tóm tắt: Bài viết thảo luận về những hạn chế của hệ thống thuế thuốc lá ở Việt Nam, bao gồm phương pháp đánh thuế và thuế suất trong tương quan so sánh với các quốc gia khác và đưa ra các khuyến nghị về cải cách thuế thuốc lá cho những năm tiếp theo.
Từ khoá: thuốc lá, thuế thuốc lá, cải cách thuế thuốc lá
Abstract: The article provides discussions of the limitations of the tobacco taxation system in Vietnam, which includes the taxation method and taxation rates in a comparison with those with a number of countries, and also provides recommendations to the tobacco taxation reform for the coming years.
Keywords: tobacco; tobacco taxation; tobacco taxation reform
Untitled_141.jpg
Ảnh minh họa: nguồn internet
Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể về kinh tế và y tế trong những thập niên gần đây. Tuy nhiên, hiện cũng đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng do sự gia tăng nhanh chóng của các bệnh không lây nhiễm (NCD)[1], gây ra tổn thất kinh tế to lớn từ chi phí điều trị y tế và mất năng suất lao động do ốm đau và tử vong sớm, đe dọa khả năng phát triển bền vững của đất nước.
Việc sử dụng thuốc lá ở Việt Nam, một trong những yếu tố nguy cơ chính của các bệnh không lây nhiễm, đã bắt đầu giảm nhưng vẫn ở mức cao với gần một phần hai số nam giới trưởng thành hiện đang hút thuốc lá. Một trong những lý do chính cho việc sử dụng thuốc lá cao ở Việt Nam là do giá thuốc lá thấp và những bất cập trong hệ thống thuế thuốc lá hiện hành.
Chiến lược quốc gia Phòng, chống tác hại của thuốc lá đến năm 2020 được Chính phủ phê duyệt đặt mục tiêu giảm tỷ lệ hút thuốc ở nam giới trưởng thành xuống còn 39% vào năm 2020. Mục tiêu này sẽ không đạt được, trừ khi thuế thuốc lá được tăng mạnh và phương pháp đánh thuế được cải cách trong những năm tới.
Phương pháp đánh thuế thuốc lá hiện hành của Việt Nam tồn tại nhiều hạn chế
Trên toàn cầu, có ba phương pháp đánh thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) với thuốc lá bao gồm: thuế tuyệt đối, thuế theo tỷ lệ phần trăm và thuế hỗn hợp với khái niệm cụ thể như sau:
Thuế “tuyệt đối” là loại thuế thu một khoản tiền thuế nhất định trên mỗi đơn vị của sản phẩm như theo bao thuốc, theo trọng lượng, theo tút, theo điếu. Ví dụ, Singapore thu thuế tuyệt đối ở mức 8 đô la Singapore trên mỗi bao thuốc lá 20 điếu.
Thuế “tỷ lệ phần trăm” được tính là tỷ lệ % theo giá của sản phẩm tại một thời điểm nhất định trong chuỗi cung ứng như giá xuất xưởng, giá bán buôn, hay giá bán lẻ. Ở Việt Nam, thuế thuốc lá được thu theo tỷ lệ phần trăm trên giá xuất xưởng của sản phẩm thuốc lá.
Phương pháp đánh thuế tuyệt đối có những ưu thế rõ rệt như: 1) giúp giảm các sản phẩm thuốc lá giá rẻ trên thị trường, qua đó làm giảm sự tiếp cận và sử dụng thuốc lá ở trẻ em và thanh thiếu niên; 2) làm giảm nguy cơ chuyển giá giữa các nhà sản xuất và các công ty phân phối; và 3) dễ quản lý và dễ dự đoán mức thu ngân sách từ thuế hơn.
Phương pháp đánh thuế thuốc lá theo tỷ lệ phần trăm hiện đang được sử dụng ở Việt Nam có một số nhược điểm như: 1) làm tăng nguy cơ chuyển giá của các nhà sản xuất; 2) khuyến khích sự sẵn có của thuốc lá giá rẻ - qua đó tăng khả năng tiếp cận và sử dụng thuốc lá ở trẻ em và thanh thiếu niên; và 3) làm giảm hiệu quả của việc tăng thuế, vì người tiêu dùng dễ chuyển sang các thương hiệu giá rẻ hơn khi thuế tăng thay vì bỏ thuốc lá.
Trên toàn cầu, số lượng các quốc gia áp dụng hệ thống đánh thuế theo tỷ lệ đang ngày càng giảm xuống và có xu hướng chuyển đổi sang hệ thống thuế tuyệt đối hoặc thuế hỗn hợp. Số quốc gia áp dụng thuế theo tỷ lệ đã giảm từ 57 quốc gia năm 2008 xuống còn 46 quốc gia năm 2016. Trong khi đó, số quốc gia áp dụng thuế hỗn hợp đã tăng từ 48 lên 61 quốc gia trong cùng giai đoạn. Số quốc gia áp dụng thuế tuyệt đối cũng tăng từ 48 lên 66 quốc gia (Hình 1).
Tại khu vực Đông Nam Á, hầu hết các quốc gia cũng đang áp dụng thuế tuyệt đối hoặc hỗn hợp. Hiện có 5 quốc gia đang áp dụng hệ thống thuế tuyệt đối (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore), 2 quốc gia áp dụng thuế hỗn hợp (Lào, Thái Lan) và chỉ có duy nhất 3 quốc gia còn đang áp dụng thuế theo tỷ lệ (Việt Nam, Campuchia và Myanmar).
Ở các quốc gia hiện đang áp dụng hệ thống thuế hỗn hợp thì xu hướng là sẽ dựa vào phần thuế tuyệt đối nhiều hơn (tức là tăng mức thuế tuyệt đối).
Hình 1: Ba cách đánh thuế TTĐB áp dụng trên thế giới
1_5.png
(Nguồn: Số liệu từ báo cáo của WHO về Nạn dịch thuốc lá toàn cầu, 2017)
Mức thuế và giá thuốc lá ở Việt Nam còn thấp
Không chỉ sử dụng hệ thống thuế thuốc lá với nhiều bất cập, mức thuế thuốc lá ở Việt Nam cũng đang rất thấp. Hiện nay, chuẩn quốc tế để đo lường mức thuế thuốc lá là tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ.
Thuế thuốc lá ở Việt Nam theo Luật thuế hiện hành là bằng 70% giá xuất xưởng, tuy nhiên khi tính theo chuẩn quốc tế, là tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ, thì tỷ lệ thuế ở Việt Nam (bao gồm cả thuế VAT) chỉ chiếm khoảng 36% giá bán lẻ. Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với trung bình thế giới, ước tính khoảng 56% trên giá bán lẻ.
So sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á, thuế thuốc lá ở Việt Nam cũng ở mức thấp, đứng thứ 7 trong tổng số 10 quốc gia trong khu vực, xem Hình 2 dưới đây.
Hình 2: Tỷ trọng thuế thuốc lá trong giá bán lẻ của các nước trong khu vực (2016)
2_4.png
(Nguồn: Số liệu từ báo cáo của WHO về Nạn dịch thuốc lá toàn cầu, 2017)
Chính vì thuế thấp, nên giá thuốc lá ở Việt Nam cũng thuộc loại rất rẻ so với các nước trên thế giới.
Để so sánh công bằng giá thuốc lá giữa các quốc gia có mức thu nhập khác nhau, giá được tính bằng đồng đô la PPP (còn gọi là đô la ngang giá sức mua hay là đô la quốc tế), trong đó đã tính đến sự khác biệt về thu nhập ở các quốc gia khác nhau. Kết quả cho thấy, khi so sánh giá của thương hiệu thuốc lá phổ biến nhất trong số 20 quốc gia có dữ liệu, giá thuốc lá ở Việt Nam xếp thứ 19, gần thấp nhất, trong số 20 nước (Hình 3). Giá nguyên bản tính theo đô la Mỹ (USD) cũng được cung cấp (cột màu đỏ) để tham khảo.
Hình 3: Giá một bao thuốc lá nhãn phổ biến nhất ở Việt Nam, tính theo đô la quốc tế (PPP), so với các nước khác trong khu vực Tây Thái Bình Dương (2014)
3_3.png
(Nguồn: Số liệu từ báo cáo của WHO về Nạn dịch thuốc lá toàn cầu, 2015)
Khuyến nghị
Tóm lại, có thể kết luận thuế thuốc lá ở Việt Nam hiện ở mức rất thấp, đồng thời hệ thống đánh thuế còn nhiều bất cập.
Nhằm giảm sử dụng thuốc lá, đem lại lợi ích cho sức khỏe của người dân Việt Nam, thuế thuốc lá ở Việt Nam cần được tăng mạnh và đều đặn cho tới khi đạt tỷ lệ thuế ở mức 70% trên giá bán lẻ, theo như khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam cần bắt đầu bổ sung một phần thuế tuyệt đối vào cơ cấu thuế để làm giảm bớt những bất cập của hệ thống thuế hoàn toàn dựa vào tỷ lệ phần trăm như hiện hành.
Việc tăng thuế bằng cách áp thuế tuyệt đối ở mức 5.000 đồng trên mỗi bao thuốc lá ở Việt Nam sẽ giúp giảm 1,8 triệu người hút thuốc và ngăn ngừa gần 1 triệu ca tử vong sớm do các bệnh liên quan đến thuốc lá gây ra trong tương lai. Mức tăng thuế này cũng sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu giảm hút thuốc đặt ra trong Chiến lược quốc gia Phòng, chống tác hại của thuốc lá đến năm 2020.

 


[1] Bệnh không lây nhiễm bao gồm các bệnh ung thư, bệnh tim mạch, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản và các bệnh không lây nhiễm khác (theo Bộ Y tế, Chiến lược quốc gia Phòng chống bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2015-2025)

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 21(373)-tháng 11/2018)