Hoàn thiện pháp luật về quản lý nội dung thông tin trên mạng

01/01/2019

TS.PHẠM THỊ DUYÊN THẢO

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

TS. PHAN THỊ LAN PHƯƠNG

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tóm tắt: Các quy định của pháp luật về quản lý nội dung thông tin trên internet hiện đang nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật. Việc pháp điển hóa, xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất về quản lý nội dung thông tin trên internet phù hợp với yêu cầu của thực tiễn là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Từ khóa: pháp luật Việt Nam, quản lý, nội dung thông tin, internet
Abstract: The legal provisions on management of information contents on internet are scatterly defined in several legal documents. The legalization and development of a unified legal system for management of information contents on internet in accordance with the requirements of practice is very necessary in the current context.
Keywords: law of Vietnam; management, information content; internet
Untitled_94.jpg
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Đánh giá quy định hiện hành về quản lý nội dung thông tin trên internet
Những ưu điểm
Các quy định về quản lý nội dung thông tin trên internet tuy chưa mang tính chuyên biệt, nhưng bước đầu đã định hình được những khía cạnh cơ bản trong quản lý nội dung thông tin trên mạng internet như: nguyên tắc, chủ thể, lĩnh vực quản lý, những điều cấm, xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến các thao tác với thông tin trên internet. Điều này đã tạo cơ sở pháp lý cơ bản  cho hoạt động quản lý thông tin trên mạng Internet.  
Cụ thể, nguyên tắc xử lý sự cố an toàn thông tin mạng phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, không xâm phạm đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của cá nhân, thông tin riêng của tổ chức quy định trong Luật An toàn thông tin 2015; nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng được quy định trong Luật An ninh mạng năm 2018. Những nguyên tắc này sẽ là cơ sở cho việc thiết lập một cơ chế quản lý nhà nước về thông tin trên mạng Internet.
Hệ thống những quy định cấm liên quan đến các thao tác với thông tin trên internet được tiếp cận khá đa diện, là cần thiết nhằm ngăn chặn các hành vi xâm hại đến quyền tự do báo chí, an toàn thông tin, an ninh mạng, trật tự xã hội, quyền con người, lợi ích chính đáng của cộng đồng. Những quy định đó, về tổng thể, cũng là sự giới hạn cần có của Nhà nước với việc đảm bảo tự do internet trong tương quan với các lợi ích khác.
Việc kiểm tra, giám sát để đảm bảo tính hợp pháp, phù hợp nội dung thông tin trên mạng của Nhà nước để bảo vệ những nhóm đối tượng thụ hưởng các thông tin liên quan đến không gian mạng là hợp lý, điển hình như quy định cấm đăng, phát thông tin có nội dung "ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của trẻ em" trong Luật Báo chí 2016 (Khoản 9 Điều 9), cũng như quy định riêng về việc bảo vệ trẻ em trên không gian mạng tại Luật An ninh mạng (Điều 30): “trẻ em có quyền được bảo vệ, quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội, quyền vui chơi, giải trí, quyền bí mật đời sống riêng tư và các quyền trẻ em khác khi tham gia trên môi trường mạng”. Các quy định như: thông tin trên internet phải được kiểm soát; "cơ quan, tổ chức, cha mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em và cá nhân khác liên quan có trách nhiệm bảo đảm quyền của trẻ em" khi tham gia không gian mạng đã thể trách nhiệm của nhà nước trong quản lý nội dung thông tin liên quan đến sự phát triển của thế hệ tương lai của dân tộc.
Những hạn chế
Thứ nhất, nguyên tắc quản lý nội dung thông tin trên internet hiện mới được đưa ra theo dưới dạng quy định chung cho các vấn đề liên quan, chưa trực tiếp, thống nhất và đầy đủ. Đơn cử, Nguyên tắc quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng (Điều 21 Nghị định 72/2013/NĐ-CP) là một nguyên tắc tổng hợp, dẫn chiếu đến các nguyên tắc khác: "việc quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng dưới hình thức báo điện tử, xuất bản điện tử và quảng cáo trên mạng phải tuân theo các quy định của pháp luật về báo chí, xuất bản và quảng cáo; việc quản lý, cung cấp, sử dụng nội dung thông tin trên trang thông tin điện tử ứng dụng chuyên ngành phải tuân theo quy định của pháp luật chuyên ngành...". Quy định này gây phức tạp, dễ tạo nên sự thiếu nhất quán, trùng lắp hoặc mâu thuẫn.
Quản lý nhà nước là hoạt động thể hiện quyền lực công đặc thù mà không chủ thể nào khác trong xã hội có được, nó hàm chứa nguy cơ lạm quyền, xâm phạm đến các quyền con người trong tương quan với thẩm quyền của Nhà nước. Một nguyên tắc đặc biệt quan trọng hiện còn thiếu là nguyên tắc giới hạn quyền của Nhà nước trong quá trình quản lý nội dung thông tin trên internet. Đây là nguyên tắc sẽ đảm bảo hiệu quả của hoạt động quản lý, liên quan mật thiết đến nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Nguyên tắc chủ thể quản lý nội dung thông tin trên internet phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm của mình trong quá trình quản lý cũng chưa được quy định. Sự khuyết thiếu này sẽ góp phần tạo nên một "vùng an toàn" lớn cho chủ thể có thẩm quyền quản lý, ảnh hưởng đến nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ hai, hình thức quản lý nhà nước nội dung thông tin trên mạng mới chỉ tập trung vào: ban hành văn bản quy phạm và áp dụng pháp luật; hoạt động pháp lý và nghiệp vụ kỹ thuật liên quan đến thông tin trên internet. Các hoạt động liên quan đến biện pháp tổ chức trực tiếp cho việc bảo đảm nội dung thông tin trên internet như: động viên các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước; phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội; tiến hành hoạt động tổ chức quần chúng; giải thích nội dung và mục đích của các quyết định quản lý; thăm dò, hướng dẫn dư luận xã hội trong quản lý nội dung thông tin trên internet… thì chưa được quy định. Điều này dẫn đến việc không đảm bảo sự phù hợp giữa nội dung, tính chất với mục đích cụ thể, đặc điểm của đối tượng quản lý.
Thứ ba, ở góc độ tương thích với pháp luật quốc tế về quyền con người, pháp luật quản lý nội dung thông tin trên internet chưa thực sự có độ tương thích cao. Pháp luật quốc tế khuyến khích đảm bảo quyền tự do internet, khuyến cáo các quốc gia trong quá trình giới hạn các quyền con người nhằm bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ quyền riêng tư, cần nhận thức đầy đủ tính mục đích của việc quản lý internet nói chung và quản lý nội dung thông tin trên internet nói riêng, đó là: quản lý để tạo lập một môi trường internet, mà ở đó, con người được tự do, được tạo điều kiện thuận lợi cho các mục tiêu phát triển bản thân và xã hội, từ đó đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của quốc gia. Trong khi đó, pháp luật quản lý nội dung thông tin trên internet của nước ta chủ yếu thiên về bảo vệ an ninh mạng, an toàn thông tin, phòng, chống hoặc xử lý những hành vi có thể gây mất an ninh, an toàn trên không gian mạng mà chưa tập trung vào mục tiêu bảo vệ và gia tăng các quyền tự do cho con người, trong đó có quyền tự do biểu đạt trên internet, chưa coi đó là phương tiện để hoàn thành thành mục tiêu phát triển bền vững.
Thứ tư, cách tiếp cận của pháp luật hiện hành về quản lý thông tin trên mạng chủ yếu xuất phát từ mục tiêu đảm bảo hoạt động quản lý của nhà nước được diễn ra suôn sẻ, tạo thuận tiện cho Nhà nước trong việc đảm bảo an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng. Trong khi đó, lại thiếu vắng các quy định mang tính ràng buộc cơ quan quản lý nhà nước trong việc đảm bảo các quyền con người tương ứng, cũng như hoạt động trong khuôn khổ giới hạn quyền lực theo nguyên tắc pháp quyền và pháp chế XHCN.
Các quy định của Luật An ninh mạng và các Dự thảo văn bản hướng dẫn thi hành cho thấy, các chính sách hầu như chỉ ưu tiên xây dựng lực lượng chuyên trách của Nhà nước trong bảo vệ an ninh mạng, ưu tiên từ thẩm quyền, quy mô, đến kinh phí duy trì hoạt động... trong khi đó, việc bảo vệ các quyền riêng tư, bảo vệ sự an ninh liên quan đến tất cả các quyền con người ngoại tuyến cũng như trực tuyến lại hầu như chưa được đề cập. Việc bảo vệ an ninh, an toàn cho công dân trước những bất cập do không gian kỹ thuật số mang lại gần như để trống. Các chủ thể có thẩm quyền liên quan đến bảo vệ an ninh mạng hầu hết là các cơ quan nhà nước mà không đề cập đến vai trò của các bên liên quan với vị thế là những chủ thể tham gia, giám sát và phản biện hữu hiệu đối với việc bảo vệ, bảo đảm các quyền con người trong tương quan với giới hạn tự do internet để bảo vệ quyền con người như các quy định của pháp luật nhân quyền quốc tế.
Thứ năm, trách nhiệm liên quan đến nội dung thông tin trên internet đang được quy về cho chủ quản hệ thống thông tin. Điều này tạo nên sự nửa chừng về trách nhiệm của cả cơ quan có thẩm quyền trong quản lý nội dung thông tin trên mạng và các doanh nghiệp kinh doanh mạng. Các doanh nghiệp chỉ hành động và có trách nhiệm hành động bảo vệ, bảo đảm thông tin trên mạng khi có yêu cầu của chủ thể có thẩm quyền, và ngược lại, các chủ thể có thẩm quyền chỉ thực hiện chức năng điều phối việc xử lý các vi phạm liên quan đến thông tin trên mạng. Thành ra, không có chủ thể nào phải chịu trách nhiệm chính và trách nhiệm thực sự trong quá trình xử lý vi phạm liên quan đến nội dung thông tin trên mạng. Chủ thể này phải triển khai biện pháp quản lý, kỹ thuật nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin có nội dung vi phạm khi có yêu cầu của lực lượng chuyên trách. Khi phát hiện thông tin trên mạng có nội dung vi phạm, lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng và cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện các công việc theo thẩm quyền của họ, nhằm ngăn chặn, xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật.
Cùng với đó, các quy định về xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến nội dung thông tin trên internet mới chỉ dừng ở việc xử lý các hành vi vi phạm với các đối tượng thuộc phạm vi quản lý, như người sử dụng, người kinh doanh mà không có quy định về xử lý vi phạm với chủ thể có thẩm quyền nếu như thực hiện không đúng hoặc không hiệu quả thẩm quyền quản lý của mình.
Luật An ninh mạng quy định chủ yếu là các ứng xử của Nhà nước khi có nguy cơ về an toàn, an ninh thông tin trên mạng internet, gồm hàng loạt các biện pháp nghiệp vụ an ninh mạng, trong đó có những biện pháp hạn chế, giới hạn tự do internet, có khả năng ảnh hưởng tới quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như giám sát, kiểm tra an ninh mạng, ngăn chặn, hạn chế thông tin mạng với tất cả các chủ thể khác ngoài công quyền. Việc xử lý các vi phạm an ninh mạng chủ yếu được quy định cho các trường hợp chống phá Nhà nước, đi ngược lại với Nhà nước. Trong tương quan với việc bảo vệ tự do biểu đạt trên internet, hay quyền riêng tư trong thời đại kỹ thuật số, thì cơ chế xử lý vi phạm này là thiếu tương thích.
Thứ sáu, pháp luật hiện hành mới điều chỉnh nhóm thông tin trên loại mạng xã hội do doanh nghiệp trong nước (được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép hoạt động), mà chưa điều chỉnh đối với các mạng xã hội do doanh nghiệp nước ngoài cung cấp mang tính đa và xuyên quốc gia. Đây là một khoảng trống lớn ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý.
Pháp luật cũng mới quy định trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng dưới góc độ đảm bảo về kỹ thuật để an toàn cho người sử dụng chứ chưa có một cơ chế pháp lý đồng bộ để đảm bảo an toàn nội dung thông tin trên mạng cho người sử dụng, thụ hưởng.
Quy định về quản lý nội dung thông tin trên internet trong Luật An toàn thông tin mạng chủ yếu nặng về quản lý kỹ thuật, đảm bảo nội dung thông tin gốc không bị xuyên tạc chứ chưa quy định đến tận cùng việc xử lý thông tin có trung thực, đúng sự thực và hợp pháp hay không.
Thứ bảy, quy định về xử lý hình sự với trường hợp đưa thông tin trái quy định, mua bán, trao đổi, tặng cho, thay đổi hoặc tự ý công khai thông tin riêng hợp pháp của các chủ thể khác trong Bộ luật Hình sự 2015, hiện chỉ đặt ra khi có hành vi "thu lợi bất chính" với những mức tiền cụ thể là thiếu tính toàn diện và thực tế, dẫn đến bỏ lọt vi phạm pháp luật. Bởi, việc vi phạm không phải lúc nào cũng nhằm thu lợi bất chính, mà còn xuất phát từ nhiều động cơ khác như thù tức, đê hèn.
Bên cạnh đó, trong các quy định cấm liên quan đến các thao tác với thông tin trên mạng, có quy định mang tính trừu tượng như quy định về các hành vi bị cấm (tại khoản 1, điểm d Điều 8) Luật An ninh mạng liên quan đến phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội. Hay quy định về các trường hợp thuộc phạm vi hoạt động phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế... Nếu không có sự giải thích, quy định chi tiết, thì dễ tạo sự lạm quyền trong quá trình thực thi nhiệm vụ của các chủ thể quản lý khi xác định nội hàm của các khái niệm đó và các trường hợp liên quan.
2. Kiến nghị
Nhìn tổng thể, cơ sở pháp lý về quản lý nội dung thông tin trên internet đang nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật, một số được quy định trực tiếp, phần lớn được quy định chung trong các khía cạnh quản lý liên quan. Thực trạng này đã dẫn tới sự phức tạp, trùng lặp, vừa thiếu lại vừa thừa các quy định thuộc phạm vi điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật này.
Do đó, hoàn thiện pháp luật về quản lý nội dung thông tin trên internet là yêu cầu khách quan, bởi đây còn là lĩnh vực pháp luật có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định mục tiêu, hiệu quả quản lý nhà nước, năng lực phát triển và hiện thực hóa các quyền con người liên quan đến không gian mạng. Chúng tôi cho rằng, để tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về quản lý thông tin mạng, trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục triển khai pháp điển hóa các quy định pháp luật về quản lý nội dung thông tin trên internet để tạo sự thống nhất, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật này; cần xem xét để ban hành một đạo luật riêng về đảm bảo nội dung thông tin trên internet, trong đó quy định từ nguyên tắc, mục tiêu, phạm vi, chủ thể, đối tượng quản lý, cơ chế xử lý vi phạm, hệ thống quyền, nghĩa vụ cùng các vấn đề liên quan khác. Nội dung các quy phạm pháp luật trong đạo luật này có thể theo cách dẫn chiếu đến các quy phạm pháp luật hiện hành liên quan cùng với việc bổ sung những quy định còn thiếu để có được một sự nhất quán, hợp lý các quy định pháp luật hiện hành. Tất nhiên, giải pháp này phải được đặt trong tương quan với lộ trình pháp điển hóa hệ thống pháp luật khi hiện có khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật đang cùng điều chỉnh vấn đề này.
Để khắc phục được những bất cập trong quy định về chủ thể có trách nhiệm xử lý vi phạm liên quan đến nội dung thông tin trên mạng, Việt Nam có thể chọn lọc để học tập các quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới như Đức, Anh. Pháp luật những nước này đều quy định các doanh nghiệp kinh doanh mạng phải chịu trách nhiệm chính về nội dung của thông tin trên internet. Khi có vi phạm, họ phải là chủ thể chủ động phát hiện, xử lý và khắc phục hậu quả.
CHLB Đức đã ban hành một đạo luật có tên là Luật Cải tiến Chấp pháp trên mạng (viết tắt là NetzDG) vào tháng 6/2017. Luật NetzDG được ban hành nhằm thúc đẩy thực thi những quy định sẵn có của pháp luật Đức liên quan đến thi hành pháp luật trên không gian mạng, còn những nội dung cụ thể đã được quy định tại Bộ luật Hình sự Đức hoặc Luật Truyền thông Điện tử. Luật NetzDG chỉ liệt kê theo cách dẫn chiếu chứ không quy định thêm một vi phạm mới nào. Luật hướng đến mục tiêu hạn chế hậu quả mà nội dung vi phạm pháp luật bị phát tán trên mạng xã hội có thể gây ra. Luật quy định bên bị hại có thể khiếu nại trực tiếp với nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội, để có thể ngăn chặn sớm hơn các tác hại nảy sinh do thời gian xử lý được rút ngắn. Một điểm đặc biệt ở Luật NetzDG là tập trung bảo vệ bên bị hại, tức là khi nội dung vi phạm pháp luật đã được xóa xong hoặc ngăn chặn, thì coi như việc điều chỉnh của Luật đã hoàn thành. Luật NetzDG cũng giới hạn phạm vi điều chỉnh về nội dung thông tin trên mạng chỉ đặt ra với những mạng xã hội. Các quy định trong luật chủ yếu thiết lập cơ chế cho việc xử lý vi phạm của các doanh nghiệp hoặc nhà mạng, cơ chế báo cáo việc xử lý vi phạm, không có sự can thiệp của chính quyền vào quy trình báo cáo và xử lý báo cáo khiếu nại. Hệ thống tư pháp nhà nước chỉ vào cuộc khi tranh chấp giữa doanh nghiệp và người dùng mạng xã hội trong quá trình xử lý khiếu nại cần đến sự phân xử của tòa án.
Ở Anh, Chính phủ dự định thành lập một cơ quan quản lý nội dung trên mạng Internet. Cơ quan nhà nước này sẽ giám sát hoạt động của các hãng phát thanh, truyền hình, bưu chính, viễn thông, đồng thời buộc các doanh nghiệp, các mạng xã hội phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin trên internet do người dùng đăng tải trên trang thông tin của họ. Các chủ thể này phải gỡ bỏ nhanh chóng trong thời gian ngắn nhất (có thể chỉ là vài giờ) những phát biểu gây thù địch hoặc nội dung bất hợp pháp, nếu không, các công ty này sẽ bị xử phạt vi phạm.
Việc học tập có tính toán kinh nghiệm trên thế giới là cần thiết, tuy vậy, để xây dựng được một mô hình phù hợp, cần nhận thức và xuất phát từ đặc thù đời sống pháp lý của Việt Nam. Hiện vị thế của các cơ quan quản lý nhà nước và các nhà kinh doanh mạng trong việc đảm bảo nội dung thông tin trên internet theo pháp luật Việt Nam đang cần có sự hoán đổi. Cụ thể, các nhà mạng phải là chủ thể trực tiếp và chủ động xử lý vi phạm, yêu cầu xử lý có thể đến từ bất cứ ai liên quan đến các nội dung thông tin đó, mà không cần phải chờ yêu cầu từ phía Nhà nước. Tức là, trách nhiệm đảm bảo nội dung thông tin trên mạng phải thuộc về nhà kinh doanh mạng. Còn trách nhiệm đảm bảo cho nhà mạng thực hiện có hiệu quả cơ chế đảm bảo nội dung thông tin trên mạng phải thuộc về Nhà nước, các cơ quan quản lý nội dung thông tin trên mạng. Nhà nước phải giám sát, kiểm tra hoạt động của nhà mạng trong quá trình xử lý vi phạm. Muốn nhà mạng và Nhà nước thực hiện được đúng trách nhiệm của mình, thì phải có quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm pháp lý tương ứng.
Đây là một giải pháp mang tính nguyên tắc, nhất là trong bối cảnh ngày càng có quá nhiều những vi phạm từ việc "không hành động" của các chủ thể công quyền trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Bởi, ngoài việc quy định trách nhiệm trực tiếp cho các nhà mạng, thì công quyền cũng phải trở thành đối tượng chịu sự giám sát, chịu trách nhiệm về kết quả công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin trên mạng, bảo đảm quyền tự do internet của người dân. Pháp luật chỉ thực sự có hiệu lực và hiệu quả khi trách nhiệm pháp lý được xác định đến cùng. Nếu chỉ quy định trách nhiệm thuộc về chủ thể kinh doanh các trang mạng, thì mới chỉ được một nửa của vấn đề. Chỉ khi nào Nhà nước đảm bảo được hiệu quả giải quyết vi phạm nội dung thông tin trên mạng của các doanh nghiệp, nhà mạng, khi đó mới hoàn thành chu trình quản lý nhà nước.
Mặc dù, pháp luật về quản lý nội dung thông tin trên internet còn có những hạn chế và đánh giá khác nhau, nhưng phải khẳng định rằng, sự hiện diện của các quy định pháp luật này là cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang đứng trước những thách thức của cuộc cách mạng 4.0 hiện nay. Vấn đề là, trong quá trình thực hiện cũng như tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật, cần có nhận thức và ứng xử phù hợp: "an ninh thông tin, an ninh mạng chỉ là phương tiện, không phải là đích đến" để có thể đạt đến sự hài hòa giữa việc đảm bảo an ninh mạng với đảm bảo quyền tự do biểu đạt trên iternet của con người, và, hơn cả là đạt đến các ưu tiên quan trọng nhất của đất nước: "phát triển kinh tế, khai phóng con người, bảo vệ môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống"./. 

(Nguồn tin: bài viết đăng trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 1(377)- kỳ 1, tháng 1/2019)