Việt Nam không phải quốc gia thao túng tiền tệ

06/01/2021

THS. NGUYỄN TRẦN MINH TRÍ

Viện Kinh tế & Chính trị thế giới, Viện Hàm lâm KHXH Việt Nam

Tóm tắt: Vừa qua, dư luận khá quan ngại việc Việt Nam bị Hoa Kỳ cáo buộc là quốc gia thao túng tiền tệ với những hệ lụy tiêu cực có thể phát sinh. Trong phạm vi bài viết này, tác giả làm rõ căn cứ mà Hoa Kỳ đưa ra cáo buộc, các lập luận và luận chứng phản biện và đề xuất một số giải pháp thích ứng để tháo gỡ cáo buộc đó.
Từ khóa: Thao túng tiền tệ; quốc gia thao túng tiền tệ.
Abstract: Recently, it has got public concerns that Vietnam has been labeled by the US Government as a currency manipulator, which may lead to potential negative consequences. Under the scope of this article, the author provides clarifications of the ground on which the US Government has provided its manipulation designation to Vietnam, also the critical arguments and arguments and proposes some adaptive solutions to disassemble the US’s designation.
Keywords: Currency manipulation; currency manipulator.
thao-túng-tiền-tệ.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Căn cứ để Mỹ cáo buộc quốc gia bị thao túng tiền tệ
Thao túng tiền tệ (currency manipulation) là vấn đề chính thức được luật pháp Hoa Kỳ đưa thành Đạo luật Cạnh tranh và thương mại quốc tế (Omnibus) năm 1988; theo đó, Hoa Kỳ yêu cầu Bộ Tài chính (BTC) của nước này theo dõi và báo cáo hàng năm về tình hình tỷ giá hối đoái giữa Hoa Kỳ và những đối tác thương mại lớn của Hoa Kỳ; phát hiện và thương lượng loại bỏ việc thao túng tiền tệ của các quốc gia khác dẫn đến trao đổi thương mại không công bằng đối với Hoa Kỳ. Đạo luật Xúc tiến và tăng cường thương mại năm 2015 (The Trade Facilitation and Trade Enforcement Act of 2015) tiến thêm một bước là yêu cầu BTC Hoa Kỳ phát hiện và công bố danh sách giám sát những quốc gia tiềm tàng khả năng thao túng tiền tệ; thực hiện phân tích nâng cao về chính sách tỷ giá và kinh tế đối ngoại của các đối tác thương mại lớn và cáo buộc thao túng tiền tệ đối với các quốc gia nào thỏa mãn các tiêu chí về thặng dự thương mại song phương với Hoa Kỳ, thặng dư cán cân vãng lai và can thiệp ngoại tệ. Các tiêu chí này được lượng hóa cụ thể, gồm: (i) Thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Hoa Kỳ ít nhất 20 tỷ USD; (ii) Thặng dư cán cân vãng lai tương đương ít nhất 2% GDP; (iii) Can thiệp một chiều và kéo dài trên thị trường ngoại tệ, thể hiện qua việc mua ròng ngoại tệ trong ít nhất 6 tháng trên giai đoạn 12 tháng với tổng lượng ngoại tệ mua ròng tương đương ít nhất 2% GDP trong giai đoạn 12 tháng.
Dưới thời của Tổng thống Trump, Hoa Kỳ ban hành một quy định mới, theo đó các quốc gia có đồng tiền bị định giá thấp sẽ được coi là một khoản trợ cấp có lợi cho các doanh nghiệp nước đó. Chính thức kể từ ngày 6/4/2020, luật mới của Hoa Kỳ cho phép các công ty Hoa Kỳ được phép nộp đơn khiếu nại lên Chính phủ Hoa Kỳ nhằm đạt được một biện pháp khắc chế thương mại không công bằng như là một kiểu thuế đối kháng với sự trợ cấp.
Ngày 16/12/2020, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã ban hành Báo cáo về “Chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Hoa Kỳ"; trong đó, BTC Hoa Kỳ đã đưa vào Danh sách giám sát gồm 10 nền kinh tế: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Ý, Singapore, Malaysia, Đài Loan (Trung Quốc), Thái Lan và Ấn Độ. Đồng thời, Việt Nam và Thuỵ Sỹ bị BTC Hoa Kỳ xác định là thao túng tiền tệ.
Việc BTC Hoa Kỳ xếp hay không xếp Việt Nam vào nhóm nước thao túng tiền tệ là quyết định và tiêu chí đơn phương từ phía Hoa Kỳ. Hành động này không phải lần đầu:
Tại Báo cáo của BTC Hoa Kỳ tháng 5/2019, lần đầu tiên Việt Nam trở thành một trong 9 quốc gia nằm trong danh sách giám sát do đáp ứng hai tiêu chí về thặng dư thương mại song phương với Hoa Kỳ và thặng dư cán cân vãng lai. Báo cáo tháng 5-2019 cũng nêu một quốc gia vào danh sách giám sát sẽ tiếp tục được theo dõi trong hai kỳ báo cáo tiếp theo.
Do đó, tại Báo cáo 14/1/2020, BTC Hoa Kỳ tiếp tục đưa Việt Nam vào danh sách giám sát (dù chỉ đáp ứng một tiêu chí về thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Hoa Kỳ 47 tỷ USD, còn thặng dư cán cân vãng lai chỉ tương đương 1,7% GDP; can thiệp mua ròng trên thị trường ngoại tệ tương đương 0,8% GDP) gồm 10 nước: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Ý, Ireland, Singapore, Malaysia, Thụy Sĩ và Việt Nam. Báo cáo cũng kết luận không có đối tác thương mại nào thao túng tiền tệ.
Hệ lụy từ việc Việt Nam bị dán nhãn thao túng tiền tệ thường là tiêu cực. Bởi lẽ, với tuyên bố Việt Nam là quốc gia thao túng tiền tệ, chính phủ Hoa Kỳ đã có bước đệm để áp các lệnh trừng phạt thương mại đối với Việt Nam như đánh thuế lên các mặt hàng xuất khẩu. Từ đó, lợi nhuận xuất khẩu, quy mô xuất khẩu, cũng như sự định vị rời đi hay tiếp tục ở lại Việt Nam của doanh nghiệp nước ngoài có thể bị tác động, tùy thuộc mức thuế trừng phạt, cũng như thời gian áp dụng mà Hoa Kỳ đặt ra và gỡ bỏ cáo buộc.
Ví dụ, số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết, với nhóm 3 mặt hàng Việt Nam có thế mạnh là dệt may, da giày, gỗ… 9 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ là 20 tỷ USD, nếu bị áp thuế 5-25%, ở kịch bản tươi sáng nhất là giữ nguyên được lượng hàng xuất khẩu, giả định giá không đổi, doanh nghiệp tối thiểu lỗ ngay 1-5 tỷ USD[1]. Tuy nhiên, giới doanh nghiệp cho rằng, thực tế sẽ không chỉ dừng lại ở các con số nêu trên, do họ có thể bị giảm sản xuất, mất thị trường, cũng như hỗn loạn chuỗi cung ứng. Tác động của chuỗi cung ứng không chỉ tác động đến doanh nghiệp Việt Nam, mà ngay cả với các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang sản xuất hàng hoá tại thị trường này. Để xây dựng một chuỗi cung ứng, trung bình doanh nghiệp cần 2-3 năm.
2. Việt Nam không thao túng tiền tệ
Xét cả về tiêu chí của Hoa Kỳ nêu trên, cũng như thực tế kinh doanh và điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam nhiều năm qua, có thể khẳng định: Việt Nam không thao túng tiền tệ, bởi các lẽ sau:
Thứ nhất, Việt Nam không chủ trương phá giá tiền tệ, trong cả các tuyên bố chính thức, cũng như trong chỉ đạo điều hành thực tế.
Những năm qua, Việt Nam thực hiện chính sách tỷ giá trung tâm trong khuôn khổ chính sách tiền tệ chung với mục tiêu nhất quán là kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, chứ không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế không công bằng. Tỷ giá trung tâm VND/USD cuối năm thường không vượt quá 1,5-2 % so với đầu năm, bất chấp những biến động mạnh mẽ tỷ giá nhiều đồng tiền khu vực và quốc tế, thậm chí ngay cả đồng USD.
Việt Nam không có động lực phá giá tiền tệ nhằm lợi thế xuất khẩu, bởi xuất khẩu và xuất siêu chủ yếu do các công ty FDI ở Việt Nam là động lực và hưởng lợi chính, trong khi cộng đồng DN trong nước thường nhập siêu. Hơn nữa, Việt Nam cũng không có lợi khi phá giá đồng tiền do phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu đầu vào và nợ chính phủ cao.
Thứ hai, Việt Nam không can thiệp một chiều vào thị trường ngoại hối.
Cần khẳng định, trong thời gian qua, hoạt động mua ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về mặt bản chất là quá trình chuyển đổi ngoại tệ sang tiền VND từ các nhà đầu tư, xuất khẩu và người nhận kiều hối, để bảo đảm người có ngoại tệ không dùng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trong nước. Hoạt động này theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam, cũng phù hợp thông lệ như nhiều nước khác.
Việc NHNN mua ngoại tệ còn nhằm đảm bảo hoạt động thông suốt của thị trường ngoại tệ trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ dồi dào, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời củng cố dự trữ ngoại hối nhà nước vốn ở mức thấp (hiện chỉ đáp ứng khoảng 3,5 tháng nhập khẩu) so với các nước trong khu vực, cũng như so với các khuyến cáo và thông lệ chung (cần đáp ứng khoảng 5 tháng nhập khẩu) trên thế giới về mức dự trữ ngoại hối so với chi phí cho số tuần nhập khẩu, để tăng cường an ninh tài chính tiền tệ quốc gia. Từ góc độ kiểm soát khủng hoảng, việc tăng tích trữ ngoại hối thông qua hoạt động thu mua đô-la Mỹ - đồng tiền thống trị trong dự trữ và thanh toán quốc tế - của Việt Nam là một động thái phòng ngừa khủng hoảng điển hình trong điều hành chính sách tiền tệ của bất kỳ quốc gia nào.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, lạm phát bình quân của Việt Nam là 4% trong khi lạm phát của Hoa Kỳ chưa đến 2%, do đó, việc tiền đồng mất giá 1-1,5% là bình thường; có nhiều năm lạm phát Việt Nam cao 5-6%, nhưng VND chỉ mất giá 1-2%. Nói cách khác, việc NHNN mua vào ngoại tệ là thực hiện chức năng chuyển hoá các đồng ngoại tệ để giúp người dân tại lãnh thổ Việt Nam có thể dùng tiền đồng, tức việc mua vào này là bắt buộc. Hơn nữa, Việt Nam không chỉ mua vào ngoại tệ một chiều, mà trên thực tế, NHNN chỉ mua vào khi thị trường dư ngoại tệ; đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng luôn chủ động bán ra để ổn định tỷ giá VND/USD và duy trì trạng thái kinh tế vĩ mô mục tiêu.
Ngoài ra, thặng dư cán cân vãng lai ở Việt Nam (bao gồm cán cân thương mại và các khoản chuyển tiền) thường chủ yếu do nhận tiền kiều hối từ nước ngoài về. Đây là những khoản tiền của người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về để trợ cấp cho người thân trong nước. Kiều hối là yếu tố khách quan, không phải vì tỷ giá cao hay thấp. Hơn nữa, đã nhiều năm nay, Việt Nam hạ mức gửi tiền USD của cả cá nhân và tổ chức, doanh nghiệp bằng 0%, nên tỷ giá không phải là yếu tố làm cán cân vãng lai thặng dư vượt quá tiêu chí của Hoa Kỳ quy định là 2% GDP. Nói cách khác, thặng dư cán cân vãng lai của Việt Nam phần lớn do nhận tiền kiều hối từ nước ngoài về. Nếu loại trừ kiều hối chuyển về hàng năm, cán cân vãng lai của Việt Nam còn thâm hụt hoặc thặng dư không lớn.
Thứ ba, thặng dư thương mại song phương với Hoa Kỳ và thặng dư cán cân vãng lai là kết quả của hàng loạt các yếu tố liên quan tới các đặc thù của nền kinh tế Việt Nam.
Xuất siêu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chỉ là do tương quan cơ cấu kinh tế đặc thù giữa hai nước và Việt Nam đã khai thác thành công khoảng trống trong nhu cầu tiêu dùng của người dân Hoa Kỳ để đẩy mạnh xuất khẩu, ngày càng gia tăng khả năng đáp ứng cho thị trường tiêu thụ của Hoa Kỳ.
 Dữ liệu của Bộ Tài chính Hoa Kỳ cho thấy, thặng dư thương mại của Việt Nam với Hoa Kỳ đã tăng mạnh trong 4 năm qua: từ 38,3 tỷ USD năm 2017, tăng lên 39,4 tỷ USD năm 2018; 55,7 tỷ USD năm 2019 và hướng đến đà kỷ lục 65 tỷ USD trong năm 2020[2].
Theo số liệu thống kê trong Cơ sở Thống kê dữ liệu Thương mại của Cơ quan Thống kê Liên hợp quốc (UNCOMTRADE), tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ trong năm 2017 đạt 1.784 tỷ USD ra thị trường thế giới; trong đó Việt Nam là nước nhập khẩu hàng hóa lớn thứ 31 của Hoa Kỳ, chiếm 0,5% trong tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ. Cũng theo nguồn số liệu này, trong năm 2017, Hoa Kỳ nhập khẩu hàng hóa trị giá lên đến 2.407 tỷ USD từ tất cả đối tác thương mại, trong đó hàng hóa từ Việt Nam xếp vị trí thứ 12, chiếm tỷ trọng 2% trong tổng trị giá nhập khẩu của Hoa Kỳ[3].
Số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy, trong 25 năm qua, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam-Hoa Kỳ đã tăng gấp 168 lần, từ 450 triệu USD vào năm 1995 (xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 169,7 triệu USD; kim ngạch nhập khẩu đạt 130,4 triệu USD), tăng lên gần 76 tỷ USD năm 2019. Trong chín tháng năm 2020, dù chịu tác động tiêu cực của dịch COVID-19, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ vẫn đạt hơn 65 tỷ USD, tăng gần 18% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó xuất khẩu của Việt Nam đạt gần 55 tỷ USD; nhập khẩu từ Hoa Kỳ đạt hơn 10 tỷ USD. Hiện, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và Việt Nam là đối tác kinh tế lớn thứ 16 của Mỹ. Trong năm 2018, có gần 7,2 nghìn doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa ra thị trường lớn nhất thế giới này, tăng 7,6% so với năm 2017. Trong khi đó, ở chiều ngược lại, có nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu hàng hóa từ Hoa Kỳ hơn số lượng doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này. Cụ thể, trong năm 2018, trên phạm vi cả nước có đến 13,2 nghìn doanh nghiệp đã nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ từ Hoa Kỳ, tăng 6,3% so với một năm trước đó[4].
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, tổng trị giá 10 nhóm mặt hàng lớn nhất của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trong năm 2018 đạt 40,58 tỷ USD, chiếm 85,4% trong tổng trị giá xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Hàng dệt may là nhóm mặt hàng có trị giá xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ với trị giá trong năm 2018 đạt 13,7 tỷ USD, tăng 11,6% so với năm 2017. Các nhóm mặt hàng lớn tiếp theo: giày dép các loại đạt 5,82 tỷ USD, tăng 13,9%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 5,41 tỷ USD, tăng 46,1%; gỗ và sản phẩm gỗ  đạt 3,9 tỷ USD, tăng 19,3%; máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng đạt 3,4 tỷ USD, tăng 40,3%... Tổng trị giá nhập khẩu của 10 nhóm mặt hàng lớn nhất có xuất xứ từ Hoa Kỳ năm 2018 đạt hơn 8,97 tỷ USD, chiếm 70,4% trong tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ Hoa Kỳ[5].
Theo Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 11 tháng 2020 của Việt Nam ước tính đạt 489,1 tỷ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó xuất khẩu đạt 254,6 tỷ USD, tăng 5,3% và nhập khẩu đạt 234,5 tỷ USD, tăng 1,5%; có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong đó có 6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 64,3%). Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 138 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 90,2 tỷ USD, tăng 1,5%; nhóm hàng nông, lâm sản đạt 18,7 tỷ USD, giảm 0,1%; nhóm hàng thủy sản đạt 7,7 tỷ USD, giảm 0,9%. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong 11 tháng với kim ngạch đạt 69,9 tỷ USD, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Trung Quốc đạt 43,1 tỷ USD, tăng 16%. Thị trường EU đạt 32,2 tỷ USD, giảm 2,4%. Thị trường ASEAN đạt 20,9 tỷ USD, giảm 10,6%. Hàn Quốc đạt 17,7 tỷ USD, giảm 2,7%. Nhật Bản đạt 17,3 tỷ USD, giảm 6,5%. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 73,9 tỷ USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc đạt 42 tỷ USD, giảm 2,9%; thị trường ASEAN đạt 27,3 tỷ USD, giảm 6,9%; Nhật Bản đạt 18,6 tỷ USD, tăng 4,8%; thị trường EU đạt 13,2 tỷ USD, tăng 4,3%; Hoa Kỳ đạt 12,6 tỷ USD, giảm 3,6%. Cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu kỷ lục 20,1 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 10,8 tỷ USD); trong đó khu vực trong nước nhập siêu 12,4 tỷ USD; khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 32,5 tỷ USD[6].
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã thay đổi theo hướng tăng dần nhóm hàng chế biến, chế tạo, từng bước nâng cao giá trị gia tăng và tạo đà tăng trưởng bền vững. Theo Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, kể từ khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết vào năm 2000, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã thay đổi đáng kể. Nếu trước đây, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu vào Hoa Kỳ là các nhóm hàng như: Dệt may, da giày… thì nay đã có thêm nhóm hàng nông - thủy - hải sản tham gia vào danh mục các nhóm hàng xuất khẩu quan trọng.  Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn có nhu cầu nhập khẩu những mặt hàng mà Hoa Kỳ có nguồn cung dồi dào như: Các loại máy móc, thiết bị công nghệ cao, thiết bị hàng không, viễn thông và nông sản nguyên liệu…
Sự tăng vọt thặng dư thương mại với Hoa Kỳ năm 2020 là do Việt Nam khống chế thành công dịch Covid-19 hơn Hoa Kỳ. Ngoài 15 ngày đầu tháng 4 năm 2020 cả nước buộc phải thực hiện giãn cách xã hội trên diện rộng, còn lại các hoạt động kinh tế nội địa của Việt Nam diễn ra gần như bình thường trong suốt cả năm. Hơn nữa, Việt Nam vẫn duy trì hoạt động xuất khẩu phục vụ các thị trường quốc tế, trong đó có Hoa Kỳ. Đồng thời, khi các nước cần nhập khẩu các thiết bị và hàng tiêu dùng y tế để phục vụ công tác chống dịch, ứng phó dịch, Việt Nam cũng nằm trong số ít nước có thể đáp ứng được nhu cầu.
Ngoài ra, cần nhìn nhận khách quan rằng, Việt Nam chỉ xuất siêu hàng hóa chủ yếu sang Hoa Kỳ và EU, còn hầu hết nhập siêu hàng hóa từ các thị trường khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Việt Nam có nhân lực đông, trẻ, rẻ và dễ đào tạo nên có lợi thế nhất định trong cạnh tranh thị trường quốc tế nói chung, với Hoa Kỳ nói riêng. Hơn nữa, cơ cấu kinh tế của hai nước là bổ sung cho nhau, chứ không cạnh tranh trực tiếp, nên các dòng hàng xuất-nhập giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là mang tính thị trường cao. Điều này thể hiện rõ trong việc Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh của Việt Nam như dệt may, đồ gỗ, da giày, thủy sản, đồ điện tử… trong khi Việt Nam có nhu cầu lớn nhập khẩu các sản phẩm máy móc, nguyên vật liệu, công nghệ nguồn...
Đặc biệt, trong quá trình hợp tác, Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp hai nước đã nỗ lực phối hợp, tập trung giải quyết kịp thời và hiệu quả vấn đề thương mại ưu tiên, bao gồm việc mở cửa thị trường cho nông sản, hàng công nghiệp, hàng hóa và dịch vụ công nghệ thông tin của nhau, kiến tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy ký kết nhiều dự án, hợp đồng thương mại lớn. Hai nước cũng đang triển khai có hiệu quả hoạt động hợp tác thông qua cơ chế đối thoại của Hiệp định khung về thương mại và đầu tư (TIFA) trên tinh thần hợp tác, xây dựng, công bằng, đáp ứng lợi ích chính đáng của mỗi bên. Đây là lý do kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước liên tục tăng trưởng với tốc độ ấn tượng trong suốt 25 năm qua.
Mặt khác, phần thặng dư thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không ngừng tăng lên trong các năm gần đây còn chịu tác động của cuộc chiến tranh thương mại Hoa Kỳ-Trung, khiến nhiều doanh nghiệp phải di dời, tìm nguồn cung ứng mới tại các nước, trong đó có Việt Nam và Việt Nam đã ít nhiều nắm bắt được cơ hội này.
3. Giải pháp tháo gỡ cáo buộc thao túng tiền tệ
Để giải quyết cáo buộc thao túng tiền tệ mà Hoa Kỳ áp đặt, chúng tôi cho rằng, Việt Nam cần thực hiện những giải pháp sau đây:
Thứ nhất, chủ động cung cấp thông tin giải trình, khách quan, chi tiết và minh bạch để Hoa Kỳ hiểu đầy dủ và đúng đắn hơn về chính sách và thực tế kinh tế của Việt Nam. Đồng thời, cần chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng Hoa Kỳ sớm triển khai tiến trình đàm phán trao đổi, thương lượng giải quyết vấn đề giữa hai bên trong năm 2021.
Thứ hai, đẩy mạnh xúc tiến các biện pháp khác như tăng nhập khẩu hàng hoá từ nước này (như đã từng ký một số hợp đồng tỷ đô mua máy bay của Hoa Kỳ hoặc thúc đẩy các dự án lớn thuộc lĩnh vực năng lượng, điện khí LNG là mặt hàng Việt Nam có nhu cầu lớn trong khi nguồn cung từ Hoa Kỳ dồi dào, giá cả cạnh tranh); Việt Nam cũng cần thể hiện sự tôn trọng chính kiến của Hoa Kỳ và nhất quán thể hiện thành ý Việt Nam luôn coi trọng mối quan hệ kinh tế-thương mại ổn định và bền vững với Hoa Kỳ.
Thứ ba, khuyến khích các doanh nghiệp chủ động nghiên cứu sản xuất và xuất khẩu đi Hoa Kỳ bằng chính công nghệ và nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ Hoa Kỳ, gắn với xây dựng chuỗi cung ứng khép kín tạo ra hiệu quả chắc chắn cho cộng đồng doanh nghiệp hai nước.
Thứ tư, tăng cường trao đổi, thảo luận tìm kiếm các giải pháp xử lý thỏa đáng những vấn đề còn tồn tại đáp ứng cao nhất lợi ích của cả hai nước. Đặc biệt, tập trung tháo gỡ khó khăn về dịch vụ công nghệ, quảng bá, quảng cáo, thương mại dịch vụ; giới thiệu, mở rộng các cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận hàng hóa Hoa Kỳ. Hai nước đang tích cực trao đổi, rà soát vướng mắc và thúc đẩy giải quyết các quan tâm của Hoa Kỳ, trong đó có triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động hướng tới cán cân thương mại hài hòa, bền vững, giảm thâm hụt thương mại. Với những hành động thiết thực tin tưởng rằng quan hệ thương mại giữa hai nước sẽ tiếp tục phát triển lên tầm cao mới...
Thay cho lời kết: Xu hướng xuất siêu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ sớm có điều chỉnh hướng tới cân bằng trong thời gian tới, do những diễn biến bất ổn của thương mại toàn cầu và nguy cơ đình trệ gây ra bởi đại dịch COVID-19 thời gian qua đã thúc đẩy các công ty lớn; trong đó, nhiều tập đoàn của Hoa Kỳ quan tâm hơn đến việc đầu tư vào Việt Nam để phát triển mô hình chuỗi cung ứng mới với các hệ thống cung ứng dự phòng đặt tại nhiều địa điểm khác nhau để đảm bảo sự bền vững và tính liên tục. Nhiều nhà đầu tư Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam sẽ trở thành địa điểm đầu tư lý tưởng, quan trọng và an toàn của chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong khi đó, đây là thời điểm Việt Nam đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, tăng cường đầu tư, quảng bá về cơ hội, tiềm năng để thu hút dòng vốn đầu tư từ Hoa Kỳ, đặc biệt là những lĩnh vực có hàm lượng giá trị gia tăng cao, tập trung vào các lĩnh vực như năng lượng, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, y tế, tài chính, hàng không, bán lẻ, giáo dục… Đó sẽ là nền tảng vững chắc để hai nước thúc đẩy trao đổi về những vấn đề chiến lược quan trọng trong tương lai./.
  

[1]http://www.moit.gov.vn/CmsView-EcoIT-portlet/html/print_cms.jsp?articleId=20698.
[2] http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Viet-Nam-khong-thao-tung-tien-te/417779.vgp.
[3] http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Viet-Nam-khong-thao-tung-tien-te/417779.vgp.
[4]https://www.customs.gov.vn/Lists/TinHoatDong/ViewDetails.aspx?List=d46d405b%2D6620%2D4748%2Daee7%2D07b0233fdae6&ID=28392&Web=c00daeed%2D988b%2D468d%2Db27c%2D717ca31ae3ff.
[5]https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?ID=1891&Category=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20k%E1%BB%B3&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADchB.
[6] http://baochinhphu.vn/Thi-truong/Xuat-sieu-ky-luc-hang-chuc-mat-hang-vuot-moc-1-ty-USD/415471.vgp.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 01 (425), tháng 01/2021.)


Ý kiến bạn đọc