Nguyên tắc “quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”

01/10/2020

PGS.TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ

Trường Đại học Luật Hà Nội

THS. VŨ HOÀNG ANH

Trường Đại học Luật Hà Nội.

Tóm tắt:Nguyên tắc “Quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” là một trong các nguyên tắc cơ bản và đặc trưng của pháp luật tố tụng dân sự. Khi xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015), nguyên tắc này đã được sửa đổi, bổ sung, trong đó có những nội dung chứa đựng triết lý pháp luật mới ảnh hưởng sâu sắc tới việc xây dựng và thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả tập trung trình bày về nội dung quy định của pháp luật về nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo BLTTDS năm 2015 và từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện.
Từ khoá:Nguyên tắc, yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, Bộ luật Tố tụng dân sự.
Abstract:The principle of “Right to request courts to protect legitimate rights and interests of the involved parties" is one of the basic and characteristic principles of the civil procedure law. This principle was amended with new legal philosophies that have profoundly influenced the development and enforcement of the legal regulations on of civil procedure when the Civil Procedure Code of 2015 was developed. Within the scope of this article, the author put focus on discussions on the legal contents on the principle of the right to request the court to protect the legitimate rights and interests of the involved parties in accordance with the Civil Procedure Code of 2015 and also provide recommendations for further improvements.
Keywords: Principles; right to request courts to protect legitimate rights and interests, Civil Procedure Code
 
Theo Giáo sư Nguyễn Huy Đẩu: “Một quyền lợi được luật pháp công nhận nhiều khi không đủ bảo đảm cho người có chủ quyền hưởng dụng: quyền lợi có thể bị phủ nhận, bị xâm phạm”; vì vậy, “chủ thể quyền lợi bị tổn thương có quyền buộc tha nhân phải tôn trọng quyền lợi bị đe dọa bằng những phương tiện hợp pháp”[1]. Nói cách khác, khi xây dựng một hệ thống pháp luật, song song với việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ, Nhà nước cần phải xây dựng các cơ chế để đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Pháp luật dân sự Việt Nam trù liệu nhiều phương thức giải quyết tranh chấp dân sự, trong đó có phương thức yêu cầu tòa án bảo vệ[2]. Quyền yêu cầu tòa án bảo vệ đã được ghi nhận thành một nguyên tắc trong BLTTDS năm 2015. Việc ghi nhận nguyên tắc này là bước đầu nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý.nguyen-tac-quyen-tu-bao-ve-cua-duong-su-trong-to-tung-dan-su.jpg
 1. Nội dung của nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
1.1. Quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Muốn làm rõ nội dung của nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, trước hết cần phân biệt khái niệm bảo vệ với khái niệm bảo đảm và bảo hộ.
Thứ nhất, phân biệt khái niệm bảo vệ và bảo đảm: Xét về ngôn ngữ học, “bảo vệ” được hiểu là chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn[3]. Theo đó, nội dung của việc bảo vệ gồm hai hoạt động: một là, chống lại các hành vi xâm phạm; hai là, giữ gìn cho luôn được nguyên vẹn. Còn bảo đảm là, “làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”[4]; hoặc là “hứa chịu trách nhiệm về điều gì”, “cam đoan giữ được, làm được đầy đủ”[5]. Bảo đảm là điều kiện cần phải có để thực hiện một điều gì, công việc gì. Như vậy, bảo đảm và bảo vệ là hai vấn đề khác nhau nhưng có nội dung tiếp giáp nhau và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Bảo vệ chỉ đặt ra khi các quyền lợi hợp pháp bị xâm phạm, còn bảo đảm là tạo ra các điều kiện cần thiết để chủ thể thực hiện được các quyền lợi hợp pháp ngay cả khi không có sự xâm phạm[6]. Phân tích rõ hơn, tiếp cận theo sự tương hỗ, bảo đảm và bảo vệ là hai khâu tiếp giáp, liền kề nhau trong hoạt động giữ gìn nguyên vẹn các quyền lợi hợp pháp. Pháp luật bảo đảm quyền lợi bằng cách tạo ra các điều kiện thuận lợi để chủ thể của quyền lợi luôn luôn được thụ hưởng quyền lợi và hạn chế các hành vi xâm phạm. Tuy nhiên, pháp luật không thể đảm bảo tuyệt đối quyền lợi sẽ luôn luôn không bị xâm phạm, lúc này các biện pháp bảo đảm quyền lợi không còn tỏ ra hữu hiệu trong việc giữ gìn nguyên vẹn giá trị của quyền lợi. Khi đó, cần có biện pháp mạnh hơn để giữ nguyên giá trị của quyền lợi, lúc này, các cơ chế, biện pháp bảo vệ quyền lợi tỏ ra hữu hiệu nhằm mục đích ngăn chặn ngay lập tức hoặc trong tương lai gần các hành vi xâm phạm quyền lợi.
Thứ hai, phân biệt khái niệm bảo vệ và bảo hộ: Bảo hộ theo nghĩa chung nhất là sự che chở, không để bị hư hỏng, tổn thất[7]. Trong khoa học pháp lý, bảo hộ thường được hiểu là tất cả những hành vi mà Nhà nước thực hiện nhằm công nhận và bảo vệ một quyền lợi nhất định[8]. Đối chiếu với khái niệm bảo vệ đã được phân tích ở trên, có thể nhận thấy bảo hộ và bảo vệ đều giống nhau ở mục đích đó là chống lại các hành vi xâm phạm quyền. Tuy nhiên, ở góc độ tổng quát, bảo hộ có các điểm khác so với bảo vệ đó là: một là, chủ thể thực hiện việc bảo hộ chỉ là Nhà nước, trong khi chủ thể thực hiện hoạt động bảo vệ ngoài Nhà nước, còn có thể là chính cá nhân bị xâm phạm; hai là, bảo hộ cũng có những điểm chung với bảo đảm, cụ thể là việc Nhà nước nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi để thực hiện một quyền nào đó – nói cách khác, bảo hộ có một phần tính chất giống bảo đảm và một phần tính chất giống bảo vệ. Trong nghiên cứu khoa học luật, thuật ngữ bảo hộ thường được sử dụng trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, ví dụ như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, vấn đề bảo vệ quyền chỉ đặt ra khi có hành vi xâm phạm tới quyền. Quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là năng lực pháp luật tố tụng dân sự của các chủ thể và mọi chủ thể đều được bình đẳng về quyền. Điểm giống nhau của quyền yêu cầu tòa án bảo vệ với các quyền khác là ở chỗ quyền này đã được trao sẵn cho các chủ thể khi sinh ra (đối với cá nhân) hoặc khi thành lập (đối với cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân). Tuy nhiên, điểm khác nhau giữa quyền yêu cầu tòa án bảo vệ so với các quyền khác là ở chỗ quyền này chỉ có thể sử dụng với điều kiện là có hành vi xâm phạm tới quyền.
Trong tố tụng dân sự, dựa vào tính chất của từng loại quan hệ dân sự mà nhà lập pháp xây dựng các thủ tục phù hợp để giải quyết các quan hệ đó. Việc xây dựng các thủ tục tố tụng phù hợp giúp cho việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp được nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm. Hiện nay, có hai thủ tục được sử dụng để giải quyết các quan hệ dân sự bao gồm thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự[9]. Theo đó, các tranh chấp dân sự được giải quyết bởi thủ tục giải quyết vụ án dân sự và được bắt đầu bằng hành vi nộp đơn khởi kiện tại tòa án; các yêu cầu dân sự được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự và được bắt đầu bằng hành vi nộp đơn yêu cầu tại tòa án. Như vậy, quyền yêu cầu tòa án bảo vệ được thể hiện dưới hai hình thức là khởi kiện vụ án dân sự hoặc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Điều này được cụ thể hóa tại khoản 1 Điều 4 BLTTDS năm 2015: Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. So với BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013.
Thêm nữa, thuật ngữ “dân sự” được sử dụng tại Điều 4 BLTTDS năm 2015 phải được hiểu theo nghĩa rộng. Thuật ngữ “dân sự” ở đây được sử dụng để đại diện cho các nhóm quan hệ xã hội có tính chất tư bao gồm: dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Tư duy của các nhà lập pháp từ năm 2004 đến nay là giữ nguyên quan điểm, các quan hệ pháp luật có tính chất giống nhau sẽ được bảo vệ theo những trình tự, thủ tục giống nhau. Nội dung của khoản 1 Điều 4 BLTTDS năm 2015 có thể làm rõ như sau:
Thứ nhất, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức muốn có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì người khởi kiện, yêu cầu phải có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc có quyền và lợi ích hợp pháp cần được bảo vệ. Quyền khởi kiện, yêu cầu ở đây có thể hình thành trong hai trường hợp: một là trường hợp chủ thể đã tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự; hai là trường hợp chủ thể không tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự nhưng được thế quyền, kế quyền hoặc có quyền đối với người thứ ba. Kế quyền được hiểu là việc được tiếp nối, chuyển giao quyền từ chủ thể khác. Ví dụ, trong các trường hợp hợp nhất, chia, tách pháp nhân thì pháp nhân mới được kế thừa quyền và nghĩa vụ của pháp nhân trước đó, trong đó có quyền khởi kiện[10] hoặc người thừa kế hàng thứ nhất của người cho vay tiền có quyền khởi kiện để yêu cầu người vay tiền thực hiện nghĩa vụ[11]. Thế quyền được hiểu là việc thay thế để thừa hưởng quyền từ chủ thể khác. Ví dụ, bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015).
Thứ hai, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Không phải bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào cũng có quyền khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người khác. Quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp này được xác định căn cứ vào quy định của pháp luật nội dung, cụ thể:
- Theo quy định của BLDS năm 2015 thì người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên trừ người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình; người mất năng lực hành vi dân sự; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi của mình có quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.
- Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện, yêu cầu vụ việc về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 2 Điều 10, khoản 5 Điều 84, khoản 2 Điều 86, khoản 3 Điều 102, khoản 2 Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, các cơ quan này có quyền khởi kiện, yêu cầu về huỷ việc kết hôn trái pháp luật, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, tranh chấp xác định cha, mẹ, con, tranh chấp về nghĩa vụ cấp dưỡng.
- Cơ quan lao động, thương binh và xã hội, hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo Điều 26 Luật Nuôi con nuôi.
- Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động.
- Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định tại khoản 2 Điều 10, khoản 5 Điều 84, khoản 2 Điều 86, khoản 3 Điều 102, khoản 2 Điều 119, khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 26 Luật Nuôi con nuôi. Trong trường hợp này thì các cá nhân sau đây có quyền khởi kiện:
+ Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật.
+ Người thân thích có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
+ Người thân thích có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
+ Cha, mẹ, con, người giám hộ có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật Hôn nhân gia đình.
+ Người thân thích có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
+ Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
+ Cha mẹ nuôi, con nuôi đã thành niên, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Thứ ba, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng:
Cũng giống như trường hợp thứ hai, không phải bất kỳ cơ quan, tổ chức nào cũng có quyền để khởi kiện vì lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Những cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện trong trường hợp này phải được Nhà nước trao quyền quản lý trong phạm vi lĩnh vực nhất định. Ví dụ: cơ quan Tài nguyên và Môi trường có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố gây ô nhiễm môi trường. Ở đây, cơ quan, tổ chức khởi kiện không có quyền lợi hợp pháp bị xâm phạm nhưng vẫn được xác định tư cách là nguyên đơn trong vụ án dân sự[12]. Hiện nay, không có quy định cho phép cá nhân được khởi kiện vì lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Có lẽ xuất phát từ sự phức tạp trong những vụ án liên quan đến lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng và những khó khăn, hạn chế trong hoạt động chứng minh của cá nhân đi kiện cho lợi ích chung nên pháp luật chỉ ghi nhận quyền khởi kiện của cơ quan, tổ chức trong trường hợp này.
1.2. Trách nhiệm giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng
Muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền và hình thành tư duy sống, làm việc theo pháp luật thì đòi hỏi đặt ra là phải bảo đảm cho xã hội luôn có đủ pháp luật để tuân theo. Quan điểm triết học Mác-Lênin cho rằng, nhận thức là cái có sau thực tại[13]. Theo đó, dễ nhận thấy, pháp luật cũng có những hạn chế về tầm nhìn nên không thể dự liệu trước mọi tình huống pháp lý có thể xảy ra trong đời sống. Thêm vào đó, quan hệ dân sự là một trong những quan hệ phong phú, đa dạng và phổ biến nhất của đời sống. Dưới tác động của hội nhập, đổi mới và phát triển, các quan hệ dân sự luôn vận động, thay đổi càng đặt ra nhiều thách thức đối với pháp luật. Việc mong muốn pháp luật thành văn (hay luật viết) có thể điều chỉnh mọi quan hệ dân sự là điều bất khả thi. Cũng như bất kỳ sự tồn tại khách quan nào, luật viết luôn ở trong tình trạng vận động hướng tới sự hoàn thiện nhưng không bao giờ đạt đến sự tuyệt đối[14]. Chính vì vậy, việc đặt ra nguyên tắc giải quyết các quan hệ dân sự khi chưa có luật áp dụng là điều rất quan trọng.
Để giải quyết các hạn chế của việc thiếu luật điều chỉnh, nhiều quốc gia trên thế giới đã ghi nhận nguyên tắc tòa án không được từ chối thụ lý hay còn được gọi là nguyên tắc “bắt khẳng thụ lý” trong Hiến pháp và các bộ luật của mình. Nguyên tắc này đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để người dân bước đầu được tiếp cận công lý tại Tòa án và hạn chế được tình trạng Tòa án trả lại đơn khởi kiện thiếu căn cứ. Kế thừa sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự trên thế giới, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của Nhà nước ta, quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có luật áp dụng đã được ghi nhận. Cụ thể, khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015 quy định: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng”. Việc bổ sung quy định này làm kết cấu của Điều 4 trở nên chặt chẽ. Nếu khoản 1 Điều 4 ghi nhận quyền của người dân trong việc “cầu viện” công lý thì khoản 2 Điều 4 đặt ra trách nhiệm và cách ứng xử của Tòa án trước sự “thỉnh cầu” của người dân. Quy định trên vừa đặt ra thách thức để các thẩm phán phải luôn trau dồi năng lực chuyên môn của mình, vừa là cơ hội để thẩm phán thể hiện đúng vai trò là “đại diện công lý”, là “đỉnh cao của nghề luật”.
Bên cạnh đó, quy định của khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015 cần được hiểu ở phạm vi rộng hơn như sau:
Thứ nhất, về điều kiện tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự:
Không phải tất cả các trường hợp khi người dân có đơn khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là Tòa án đều thụ lý giải quyết. Tòa án chỉ có trách nhiệm thụ lý vụ việc dân sự nếu vụ việc dân sự đó thoả mãn đồng thời các điều kiện sau đây: (i) quan hệ được yêu cầu giải quyết thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự tức là các quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm; (ii) quan hệ được yêu cầu giải quyết thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo thủ tục tố tụng dân sự, tức là quan hệ đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, tổ chức khác hoặc không được giải quyết ở Tòa án theo thủ tục khác như thủ tục tố tụng hành chính, thủ tục tố tụng hình sự, thủ tục tuyên bố phá sản; (iii) quan hệ được yêu cầu giải quyết chưa có điều luật áp dụng.
Ví dụ, các bên trong quan hệ hôn nhân yêu cầu tòa án giải quyết ly thân. Đây được coi là quan hệ dân sự chưa có điều luật áp dụng vì hiện nay ly thân chưa được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình. Ly thân là vấn đề pháp lý có ảnh hưởng đến các quan hệ nhân thân và tài sản là đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự và không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác nên tòa án có trách nhiệm thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Thứ hai, nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng: Một trong những nguyên tắc chung được ghi nhận trong pháp luật tố tụng của Việt Nam là nguyên tắc thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để việc giải quyết các vụ việc dân sự chưa có luật điều chỉnh không vi phạm nguyên tắc trên. Giải pháp đặt ra là phải xác định được nguyên tắc giải quyết quan hệ dân sự khi chưa có luật. Điều này giúp áp dụng thống nhất pháp luật và tránh sự lạm quyền của thẩm phán. Theo Điều 45 BLTTDS năm 2015, việc giải quyết vụ việc dân sự chưa có luật áp dụng được thực hiện theo thứ tự sau: (1) Áp dụng tập quán; (2) Áp dụng tương tự pháp luật; (3) Áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng. Với quy định này, nhận thức về nguồn pháp luật có sự thay đổi mang tính đột phá chứ không chỉ bó hẹp trong luật thành văn và tập quán như tư duy cũ.
Thứ ba, ảnh hưởng của nguyên tắc tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng tới các quy định của BLTTDS năm 2015: Một trong những vai trò của nguyên tắc là định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Tinh thần của khoản 2 Điều 4 có ảnh hưởng sâu sắc tới các quy định về thẩm quyền dân sự của tòa án. Trước đây, khoản cuối cùng của mỗi điều luật trong phần thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc đều quy định: “Các tranh chấp hoặc yêu cầu khác mà pháp luật có quy định”[15]. Theo quy định này, với những tranh chấp phát sinh sau khi BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) được ban hành, nếu không có văn bản pháp luật khác quy định tranh chấp đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Tòa án không có thẩm quyền giải quyết. Hiện nay, để phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS 2015, khoản cuối cùng của các điều luật về thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc trong BLTTDS 2015 đã sửa đổi như sau: “Các tranh chấp, yêu cầu khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”[16]. Với quy định này, trừ những tranh chấp dân sự đã được ghi nhận rõ là thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, tổ chức khác thì các tranh chấp dân sự còn lại thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Như vậy, quy định của khoản 2 Điều 4 đã mở rộng thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án.
Ngoài ra, khi Toà án giải quyết vụ việc chưa có điều luật áp dụng thì bắt buộc phải có sự tham gia của Viện kiểm sát theo quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS năm 2015 nhằm đảm bảo Toà án giải quyết vụ việc dân sự này đúng đắn, chính xác. Hoặc để có căn cứ cho Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn án lệ thì trong các phán quyết của Toà án khi giải quyết các vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng, hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm ngoài việc phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để phân tích, đánh giá, nhận định về yêu cầu, các tình tiết của vụ án, những căn cứ pháp luật mà Tòa án áp dụng, thì còn phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu và giải quyết các vấn đề khác có liên quan (Điều 266, 313 BLTTDS năm 2015).  
Thứ tư, chế tài pháp lý áp dụng cho thẩm phán vi phạm nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có luật áp dụng: Một quy định dẫu có giá trị đến đâu cũng trở thành vô nghĩa nếu không đặt ra chế tài phù hợp dành cho nó. Việc xử lý trách nhiệm đối với thẩm phán một cách công bằng, kịp thời, khách quan và nghiêm minh là một đòi hỏi quan trọng để bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc trên. Nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự một số nước, có thể thấy chế tài áp dụng cho thẩm phán từ chối công lý được áp dụng khác nhau. Tùy theo mức độ vi phạm mà thẩm phán có thể bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc chịu hình phạt tù[17]. Ở Việt Nam, Tòa án Nhân dân tối cao đã ban hành quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/06/2017 quy định về xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Toà án nhân dân. Theo đó, Điều 9 và Điều 10 của Quyết định này quy định, thẩm phán sẽ bị xử lý trách nhiệm bằng hình thức kiểm điểm trước cơ quan, đơn vị khi: “Trả lại đơn khởi kiện không đúng quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc gây dư luận xấu, ảnh hưởng đến uy tín của TAND”. Nếu vẫn tiếp tục vi phạm, thẩm phán có thể bị tạm dừng thực hiện nhiệm vụ được giao trong 30 ngày. Để người dân bảo vệ tốt quyền lợi của mình, khoản 2 Điều 192 BLTTDS năm 2015 quy định: khi trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, thẩm phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn. Văn bản này là cơ sở để đương sự thực hiện quyền khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án nếu cho rằng hành vi đó là không đúng quy định của pháp luật.
 2. Những bất cập trong quy định của pháp luật về nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Thứ nhất, việc sử dụng thuật ngữ “vụ việc dân sự” tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015 là chưa phù hợp về logic. Xét về trình tự tố tụng, trước khi vào sổ thụ lý vụ việc dân sự, thẩm phán phải thực hiện thủ tục tiền thụ lý. Thủ tục tiền thụ lý bao gồm các công việc như xem xét quyền của chủ thể khởi kiện, năng lực hành vi tố tụng dân sự của chủ thể khởi kiện, thẩm quyền của Tòa án… Nếu tranh chấp hoặc yêu cầu dân sự không đáp ứng các điều kiện thụ lý thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Một tranh chấp dân sự hoặc một yêu cầu dân sự chỉ trở thành một vụ án dân sự hoặc một việc dân sự nếu Tòa án chấp nhận thụ lý quan hệ đó. Khi Tòa án từ chối giải quyết một quan hệ pháp luật chính là việc Tòa án từ chối thụ lý giải quyết quan hệ đó, việc từ chối lúc này được diễn ra ở giai đoạn tiền thụ lý nên vụ việc dân sự chưa thể được hình thành.
Thứ hai, khoản 1 Điều 4 BLTTDS năm 2015 quy định chủ thể có quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự bao gồm cơ quan, tổ chức, cá nhân. Điều này dẫn đến các cách hiểu khác nhau về chủ thể khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là tổ chức. Cách hiểu thứ nhất cho rằng, khi BLTTDS năm 2015 dùng từ tổ chức thì cần hiểu là sẽ có tổ chức có tư cách pháp nhân nhưng cũng có những tổ chức không có tư cách pháp nhân và cả hai tổ chức này đều có quyền khởi kiện, yêu cầu nhân danh cho chính tổ chức đó và có thể là đương sự trong vụ việc dân sự. Cách hiểu thứ hai cho rằng, chủ thể được gắn với từ “tổ chức” sẽ luôn có tư cách pháp nhân để độc lập tham gia tố tụng tại toà án[18].
Ngoài ra, quy định tại khoản 1 Điều 4 BLTTDS năm 2015 còn mâu thuẫn với quy định của BLDS năm 2015. Theo quy định của BLDS năm 2015, chỉ còn hai loại chủ thể tham gia quan hệ dân sự là cá nhân và pháp nhân; các chủ thể như hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, văn phòng luật sư và các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân, không được coi là chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Vì vậy, khi tham gia quan hệ dân sự, tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức khác sẽ tham gia với tư cách là cá nhân hoặc nhóm cá nhân. Điều 101 BLDS năm 2015 quy định, “hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự... Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện”. Điều này có nghĩa là, khi tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân không có năng lực chủ thể độc lập tham gia vào các quan hệ pháp luật nội dung thì cũng không thể trở thành chủ thể độc lập nhân danh chính tổ chức trong các quan hệ tố tụng. Hay nói cách khác, tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với tư cách là cá nhân hoặc nhóm cá nhân thì khi xẩy ra tranh chấp liên quan đến các giao dịch dân sự do các thành viên của tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức không có tư cách pháp nhân thực hiện thì các thành viên của tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức không có tư cách pháp nhân sẽ là người khởi kiện và được xác định là đương sự trong vụ án dân sự chứ hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân không phải là đương sự. Điều này cũng tương thích với Luật doanh nghiệp năm 2014 khi quy định chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp (khoản 3 Điều 185 Luật doanh nghiệp năm 2014).
Thứ ba, Theo quy định tại Điều 266 và Điều 313 BLTTDS năm 2015 thì trong bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm đều có quy định rõ Hội đồng xét xử cần có phân tích, lý giải, lập luận về cách áp dụng pháp luật khi ra phán quyết để giải quyết vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng. Tuy nhiên, đối với quyết định giám đốc thẩm thì lại chỉ đề cập chung chung là phải phân tích quan điểm về việc giải quyết vụ án và những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng nghị (khoản 2 Điều 348 BLTTDS năm 2015) hoặc chỉ đề cập đến trường hợp quy định của pháp luật chưa rõ ràng, còn có cách hiểu khác nhau thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên nhân, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng nếu có (khoản 3 Điều 348 BLTTDS năm 2015). Trong quyết định giám đốc thẩm chưa đề cập đến trường hợp vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015 thì hội đồng xét xử giám đốc thẩm dựa trên căn cứ pháp lý nào để giải quyết.
Thứ tư, theo quy định của Điều 44 BLTTDS năm 2015, thủ tục thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng được thực hiện theo quy định của BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng có những điểm khác biệt so với các vụ việc dân sự thông thường khác, thường là phức tạp hơn. Vì vậy, ngoài việc pháp luật quy định Tòa án thụ lý giải quyết vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng theo các quy định chung về thụ lý, giải quyết các loại vụ việc dân sự khác thì pháp luật cần phải có những quy định riêng về thụ lý, giải quyết loại vụ việc dân sự này.
 3. Kiến nghị
Thứ nhất, cần sửa đổi quy định của khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015 như sau: 2. Tòa án không được từ chối giải quyết tranh chấp, yêu cầu dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Tranh chấp, yêu cầu dân sự chưa có điều luật để áp dụng là tranh chấp, yêu cầu dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm tranh chấp, yêu cầu dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng.
Thứ hai, sửa đổi quy định của khoản 1 Điều 4 BLTTDS năm 2015 về chủ thể có quyền khởi kiện, yêu cầu và các điều có liên quan trong Bộ luật này cho phù hợp với BLDS năm 2015; theo đó, chỉ có cá nhân, pháp nhân có quyền khởi kiện, yêu cầu và được xác định là đương sự trong vụ việc dân sự. Đồng thời, Toà án nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn về quyền khởi kiện và việc xác định tư cách đương sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân theo hướng: tranh chấp liên quan đến tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân thì thành viên của tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức không có tư cách pháp nhân là người khởi kiện và được xác định là đương sự trong vụ án dân sự.
Thứ ba, sửa đổi Điều 348 BLTTDS năm 2015 theo hướng, khi giải quyết vụ việc dân sự thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015, Hội đồng xét xử cần căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng nghị và giải quyết các vấn đề khác có liên quan.
Thứ tư, sửa đổi BLTTDS năm 2015 theo hướng, bổ sung quy định không áp dụng các quy định về thủ tục rút gọn để giải quyết các vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng đồng thời có quy định riêng về trình tự, thủ tục thụ lý và giải quyết các vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng./.
 
  

[1] Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật Dân sự - Tố tụng Việt Nam, Xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư pháp, Sài Gòn, tr.3.
[2] Ngoài phương thức yêu cầu tòa án bảo vệ, các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự hiện nay gồm có: tự bảo vệ, hòa giải, thương lượng và trọng tài.
[3] Viện Ngôn ngữ học (2011), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb. Phương Đông, tr. 34.
[4] Hoàng Phê (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 36.
[5] Nguyễn Lân (2002), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.40.
[6] Võ Khánh Vinh (2003), Lợi ích xã hội và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, tr. 196; trích trong Nguyễn Công Bình (2006), Bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự, Luận án Tiễn sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 23.
[7] Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Từ điển tiếng Việt; trích trong: Nguyễn Văn Luật (2005), Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam, Luận án Tiễn sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 39.
[8] Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ (2013), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tr. 243.
[9] Đối với thủ tục giải quyết vụ án dân sự lại được xây dựng thành hai thủ tục đó là thủ tục thông thường và thủ tục rút gọn, những vụ án dân sự đáp ứng Điều 316, 317 BLTTDS năm 2015 được áp dụng giải quyết theo thủ tục rút gọn.
[10] Xem Điều 88 đến Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[11] Xem thêm Điều 590, Điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015, người thừa kế của người bị xâm phạm về nhân thân có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
[12] Xem Điều 68 BLTTDS năm 2015.
[13] Nguyễn Văn Tuân, Mở rộng nguồn pháp luật đảm bảo quyền tiếp cạn công lý tại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17/2018, tr.15.
[14] Nguyễn Ngọc Điện, Một số vấn đề lý luận về các phương pháp phân tích luật viết, Nxb. Tư pháp, Hà Nội năm 2016, tr.11.
[15] Xem khoản 12 Điều 25, khoản 8 Điều 26, khoản 6 Điều 27, khoản 7 Điều 28, khoản 4 Điều 29, khoản 4 Điều 30, khoản 3 Điều 31, khoản 3 Điều 32 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
[16] Xem khoản 14 Điều 26, khoản 10 Điều 27, khoản 8 Điều 28, khoản 11 Điều 29, khoản 6 Điều 30, khoản 6 Điều 31, khoản 5 Điều 32, khoản 5 Điều 33 BLTTDS năm 2015.
[17] BLTTDS Pháp quy định: “Thẩm phán nào từ chối xét xử, với lý do pháp luật không có quy định, quy định không rõ ràng hoặc không đầy đủ thì có thể bị truy tố tội từ chối công lý”. Nhằm cụ thể quy định này, Điều 434-7-15 Bộ luật hình sự Pháp ngày 01/03/1994 quy định: Nếu Thẩm phán từ chối công lý khi đã được yêu cầu và tiếp tục từ chối công lý mặc dù đã được cảnh báo hoặc cấp trên ra lệnh thì bị phạt tiền 7 500 Franc và cấm đảm nhiệm các chức vụ công quyền từ 5 đến 20 năm. Tại Bỉ, khi Thẩm phán từ chối công lý sẽ bị phạt tiền từ 200 euro đến 500 Euro hoặc có thể cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc công việc trong lĩnh vực công quyền. Hay trong Luật hình sự của Luxembourg có quy định: nếu Thẩm phán xâm phạm các quyền tự do và các quyền hiến định khác sẽ bị phạt tù từ 15 ngày đến 1 năm. Xem: Ngô Quốc Chiến (2016), “Quyền tiếp cận công lý của công dân và nghĩa vụ xét xử của Tòa án”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (03), tr. 15 - 16.
[18] Nguyễn Thị Hương, Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2019, tr. 89. 

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 13 (413), tháng 7/2020.)