Pháp luật về phòng ngừa và ứng phó bạo lực, can thiệp giảm hại và hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm

05/08/2020

TS. PHAN THỊ LAN HƯƠNG

Trường Đại học Luật Hà Nội.

Tóm tắt: Mại dâm là hoạt động trái pháp luật ở Việt Nam, nhưng người bán dâm là đối tượng chịu nhiều rủi ro về bạo lực, có nguy cơ bị mắc bệnh truyền nhiễm cao. Bên cạnh việc ban hành các chế tài xử lý đối với hoạt động mại dâm, pháp luật cần được tiếp cận dưới góc độ quyền con người, xóa bỏ các hình thức bạo lực đối với phụ nữ là một trong các yêu cầu để đảm bảo quyền của phụ nữ nói chung và quyền của người bán dâm nói riêng. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam còn tồn tại nhiều khoảng trống trong phòng ngừa và ứng phó bạo lực, can thiệp giảm hại và hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm.
Từ khóa: Người bán dâm; hòa nhập cộng đồng; pháp luật về phòng ngừa và ứng phó bạo lực.
Abstract: Prostitution is an illegal activity in Viet Nam, but sex workers are subject to high risks of violence and infectious diseases. Along with issuance of legal sanctions against prostitution activity, the legal regulations need to be approached on the perspective of the human rights, elimination of violence against women is one of requirements to ensure the rights of women in general and the rights of female sex workers in particular. However, there are still gaps in legal regulations of Vietnam on prevention and response to violence, interventions for harm reduction and community integration supports for sex workers.
Keywords: Sex workers; community integration; legal regulations on prevention and response to violation.
 
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 161.000 cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm với số lượng lớn người lao động làm việc và đối diện với các nguy cơ cao bị vi phạm quyền của người lao động[1]. Hoạt động mại dâm ở Việt Nam được coi là bất hợp pháp, do đó người bán dâm phải đối diện với những nguy cơ cao bị bạo lực, bị xâm hại về quyền, và thực tiễn cho thấy họ thường không tìm kiếm các biện pháp pháp lý bảo vệ chính thức. Người bán dâm là nhóm có nguy cơ cao mắc HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục và chính nhóm đối tượng này có nguy cơ làm lây lan các bệnh ra cộng đồng. Tỷ lệ người bán dâm nhiễm HIV là từ 2,6-4,5% và tỷ lệ nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục là từ 2-10%[2]. Tuy nhiên, người bán dâm thường khó tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ (dịch vụ chăm sóc y tế, dịch vụ trợ giúp pháp lý), các chương trình can thiệp hỗ trợ hòa nhập cộng đồng. Thực tiễn cho thấy, sau 16 năm thực hiện, Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003 (Pháp lệnh năm 2003) đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập gây ảnh hưởng đến công tác phòng, chống mại dâm ở nước ta hiện nay; chưa có chính sách, biện pháp toàn diện để bảo vệ người bán dâm trước nguy cơ bị bạo lực; và các hiện pháp can thiệp, hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm chưa có hiệu quả.TÁI-HÒA-NHẬP-MẠI-DÂM.png
Trong những năm qua, Việt Nam đã thực hiện nhiều chương trình có liên quan đến phòng, chống mại dâm, can thiệp giảm hại và hỗ trợ người bán dâm tái hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, với tình hình gia tăng tỷ lệ người bán dâm, gia tăng số lượng các cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm, thì việc đánh giá quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện các hoạt động, chương trình có liên quan đến phòng, chống mại dâm, can thiệp giảm hại và hỗ trợ hòa nhập cộng đồng, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền của người bán dâm, hỗ trợ họ hòa nhập cộng đồng, góp phần thay đổi quan niệm, xóa bỏ định kiến về người bán dâm.
1. Quy định hiện hành về phòng ngừa và ứng phó bạo lực, can thiệp giảm hại và hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm
1.1. Về phòng ngừa và ứng phó bạo lực đối với người bán dâm
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 (BLHS năm 2015), những người bán dâm có thể là nạn nhân của các tội phạm như: Tội hiếp dâm (Điều 141); Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); Tội cưỡng dâm (Điều 143); Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); Tội mua bán người (Điều 150). Tuy nhiên, do xuất phát từ quan điểm hành vi bán dâm là hành vi trái pháp luật và không có tính chất ép buộc, hay cưỡng ép trong quan hệ tình dục nên người bán dâm thường không được cho là nạn nhân của các tội hiếp dâm và cưỡng dâm. Đặc biệt, người bán dâm thường có tâm lý mặc cảm, xấu hổ và không dám tố cáo với cơ quan có thẩm quyền về các vụ việc bạo lực có liên quan đến họ.
Người bán dâm có thể là bị bạo lực về kinh tế hay tinh thần từ người mua dâm, cá nhân, tổ chức bảo kê mại dâm, môi giới mại dâm hay lợi dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ để kinh doanh mại dâm. Hiến pháp năm 2013 khẳng định mọi công dân có quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể, danh dự, nhân phẩm. Các quyền hiến định này đã được cụ thể hóa trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, trên thực tế có những hành vi như gây áp lực về kinh tế, ví dụ cho vay tiền và gây áp lực khiến họ phải bán dâm để trả nợ và lãi, thì hành vi đó có được coi là bạo lực kinh tế không và có quyền yêu cầu bảo vệ theo Bộ luật Dân sự không?
Trong trường hợp người bán dâm bị bạo lực về thể chất và mức độ của thương tích có thể yêu cầu pháp luật bảo vệ theo quy định của Điều 134 BLHS năm 2015: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
1.2. Về hỗ trợ giảm hại cho người bán dâm
Các quy định hiện hành liên quan đến can thiệp giảm hại cho người bán dâmcũng chưa được đầy đủ và toàn diện. Trước năm 2011, người bán dâm được áp dụng theo biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh để điều trị và phục hồi nhân phẩm theo quy định tại Nghị định số 135/2004/NĐ-CP. Trong thời gian chữa bệnh và phục hồi nhân phẩm ở Trung tâm, người bán dâm được trợ cấp về y tế, học nghề, học văn hoá, mua sắm vật dụng cá nhân cần thiết và tham gia lao động được hưởng tiền công lao động theo định mức lao động cùng kết quả công việc hoàn thành khi tham gia lao động.
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Luật Xử lý VPHC) đã bỏ biện pháp buộc đưa vào cơ sở chữa bệnh để áp dụng đối với người bán dâm. Đặc biệt, Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm cũng không quy định bất kỳ biện pháp can thiệp giảm hại áp dụng cho người bán dâm, ví dụ như biện pháp hỗ trợ, chăm sóc y tế, trợ giúp pháp lý cho người bán dâm.
- Quyền được trợ giúp pháp lý của người bán dâm cũng chưa được đảm bảo. Theo quy định của Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, người bán dâm chỉ có thể được trợ giúp pháp lý nếu thuộc hộ nghèo (khoản 2); người bị nhiễm HIV có khó khăn về tài chính (khoản 7). Như vậy, nếu người bán dâm không thuộc diện hộ nghèo hoặc không bị nhiễm HIV sẽ không thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí.
- Quyền được chăm sóc y tế là một trong những quyền cơ bản của con người cần phải được bảo vệ mà không có sự phân biệt đối xử hay kỳ thị. Hiện nay, chưa có một văn bản nào quy định cụ thể về chính sách chăm sóc y tế và tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ khác cho người bán dâm, mặc dù, về nguyên tắc, "người hành nghề mại dâm hoặc bất kỳ phụ nữ làm việc tại các cơ sở vui chơi giải trí có quyền được nhà nước bảo vệ, sống một cuộc sống không có bạo lực, và được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và dịch vụ xã hội"[3].
1.3. Về hỗ trợ hòa nhập cộng đồng
Chính sách tín dụng ưu đãi
Quyết định số 29/2014/QĐ-TTg ngày 26/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ gia đình và người nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người bán dâm hoàn lương (Quyết định số 29). Trên cơ sở đó, Ngân hàng Chính sách xã hội đã xây dựng hướng dẫn số 3337/NHCS-TDSV ngày 30/9/2014 về nghiệp vụ cho vay đối với hộ gia đình và người nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người bán dâm hoàn lương theo Quyết định số 29. Giai đoạn 2014-2016 là thời gian thực hiện thí điểm Quyết định này trên phạm vi 15 tỉnh/thành phố.
Thực tế cho thấy, do những rào cản trong quy định tại Điều 3 Quyết định số 29 nên có rất ít số lượng người bán dâm có thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Những rào cản đó là quy định về điều kiện vay vốn như sau: 
+ Người bán dâm hoàn lương phải có xác nhận về việc không còn bán dâm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người đứng đầu một trong các Tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương hoặc Chủ nhiệm Câu lạc bộ, Trưởng nhóm, Trưởng mạng lưới do các Tổ chức chính trị - xã hội hoặc Tổ chức xã hội có tư cách pháp nhân thành lập;
+ Cư trú hợp pháp và sinh sống ổn định tại địa phương nơi vay vốn;
+ Có phương án sản xuất, kinh doanh và có khả năng trả nợ vay theo cam kết;
+ Là thành viên Tổ Tiết kiệm và vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội;
+ Sống một mình hoặc sống cùng con chưa đến tuổi lao động hoặc sống cùng bố, mẹ, vợ, chồng, con, ông, bà, anh, chị, em ruột nhưng những người này đã quá tuổi lao động hoặc không còn khả năng lao động theo quy định của pháp luật.
Chính sách đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm
Điều 14 Pháp lệnh năm 2003 quy định biện pháp kinh tế - xã hội hỗ trợ người bán dâm hoàn lương như sau: 
- Dạy nghề, tạo việc làm để có thu nhập, xóa đói giảm nghèo là những biện pháp kinh tế - xã hội quan trọng nhằm ngăn ngừa sự phát sinh, phát triển tệ nạn mại dâm.
- Tổ chức chữa bệnh, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm giúp người bán dâm hoà nhập cộng đồng.
Quyết định số 361/QĐ-TTg ngày 7/3/2016 đã đặt ra mục tiêu đẩy mạnh thực hiện các hoạt động phòng ngừa mại dâm thông qua lồng ghép các chương trình kinh tế - xã hội tại địa bàn cơ sở. Mục tiêu cụ thể đó là: “Đến năm 2017: 50%, năm 2020: 100% các tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch lồng ghép và tổ chức, thực hiện nhiệm vụ phòng, chống mại dâm với các chương trình kinh tế - xã hội tại địa phương như chương trình giảm nghèo, dạy nghề cho lao động nông thôn, chương trình việc làm, phòng, chống HIV/AIDS, phòng, chống tội phạm mua bán người”. Một số địa phương, ví dụ như thành phố Hà Nội đã có Dự án “Xây dựng chính sách và thí điểm mô hình tái hòa nhập cộng đồng cho nữ thanh niên bị bóc lột tình dục tại Hà Nội”; thành phố Hồ Chí Minh cũng thực hiện thí điểm mô hình hỗ trợ hoà nhập cộng đồng cho người mại dâm trên địa bàn năm 2014 thông qua việc hỗ trợ kinh phí học nghề cho 15 chị em với tổng kinh phí là 45 triệu đồng và hỗ trợ cho 10 người tham gia học nghề miễn phí tại một trung tâm đào tạo nghề tóc có uy tín[4].
Các mô hình hỗ trợ chủ yếu được thực hiện thí điểm ở các địa phương đó là đào tạo nghề (tóc, làm móng, kinh doanh nhỏ) và vay vốn từ các chương trình tín dụng theo hướng dẫn số 3337/NHCS-TDSV của Ngân hàng Chính sách xã hội. Tuy nhiên, việc đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho người bán dâm còn chưa đạt hiệu quả và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương; số lượng người bán dâm được hỗ trợ học nghề và có được việc làm ổn định không cao.
Những phân tích trên đây cho thấy, quy định của pháp luật hiện hành về phòng ngừa và ứng phó bạo lực, can thiệp giảm hại và hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm còn một số hạn chế, bất cập sau:
Thứ nhất, pháp luật còn thiếu các quy định để bảo vệ người bán dâm khi bị bạo lực.
- Pháp luật hiện hành còn thiếu các quy định về các hành vi bao lực đối với người bán dâm như: hành vi quấy rối tình dục, bạo lực tình dục, bạo lực kinh tế do các cá nhân, tổ chức thực hiện đối với người bán dâm.
- Pháp luật hiện hành chưa quy định toàn diện về các biện pháp chế tài áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức thực hiện các hình thức bạo lực (thể chất, tinh thần, kinh tế và tình dục) đối với người bán dâm. Ví dụ như người bán dâm bị bạo lực tình dục do người mua dâm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì không có biện pháp chế tài nào được áp dụng để xử lý đối với những người thực hiện hành vi bạo lực đối với người bán dâm. Ngoài ra, pháp luật cũng chưa quy định các biện pháp xử lý hành chính đối với các hành vi vi phạm như: khiêu dâm, kích dục; thiếu quy định về xử phạt hành chính đối với người mua dâm khi không trả tiền hay lừa dối phụ nữ bán dâm để đạt được mục đích thỏa mãn về tình dục; hay lừa dối để phục vụ nhiều người (Điều 22 và 24 Nghị định 167/2013 chưa có quy định về hành vi này); thiếu quy định về xử phạt đối với hành vi bạo lực tình dục như: khẩu dâm (các lời nói thô tục); sử dụng các dụng cụ nguy hiểm để quan hệ tình dục không có sự đồng của nạn nhân. Một số hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội cao như tổ chức, bảo kê cho hoạt động mại dâm chưa được quy định thành tội danh trong Bộ luật Hình sự.
Thứ hai, pháp luật hiện hành chưa bao hàm các quy định bảo vệ người bán dâm trong tố tụng hình sự.
Điều 86 Bộ luật Tố tụng Hình sự (TTHS) quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.” Những trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại thì người bị hại phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Tuy nhiên, các quy định về chứng cứ và sử dụng chứng cứ có thể gây khó khăn cho nạn nhân của bạo lực tình dục, đặc biệt là người bán dâm do Bộ luật TTHS không có quy định về cách áp dụng chứng cứ riêng trong các vụ án bạo lực tình dục đối với phụ nữ (có thể dẫn đến tình trạng phân biệt đối xử nếu sử dụng quá khứ của nạn nhân để bào chữa cho hành vi bạo lực tình dục). Lời khai của nạn nhân và nhân chứng là chứng cứ để xét xử vụ án hình sự nhưng không đủ để tiến hành buộc tội. Tuy nhiên, các vụ án bạo lực tình dục khó thu thấp chứng cứ để chứng minh lời khai của nạn nhân (nạn nhân thường e ngại, xấu hổ trong cung cấp lời khai). Nạn nhân của bạo lực tình dục thường phải trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung vụ việc với nhiều người tiến hành tố tụng khác nhau (công an, viện kiểm sát, tòa án, luật sư), điều này có thể gây tổn thương về tinh thần cho nạn nhân của bạo lực tình dục. Ngoài ra, chưa có hướng dẫn cụ thể dành cho các cơ quan điều tra về thu thập chứng cứ trong các vụ án bạo lực tình dục đối với phụ nữ, và những người này tiếp tục đóng vai trò diễn giải pháp luật về chứng cứ trong các trường hợp nữ giới bị bạo lực tình dục là do lỗi của nạn nhân là người bán dâm (kỳ thị, phân biệt đối xử).
2. Yêu cầu bảo vệ quyền của người bán dâm phù hợp với Công ước quốc tế
Xóa bỏ các hình thức bạo lực đối với phụ nữ là một trong các yêu cầu để đảm bảo quyền của phụ nữ nói chung và quyền của người bán dâm nói riêng. Điều 6 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979 đã yêu cầu các quốc gia thành viên chấm dứt các hình thức mua bán phụ nữ và bóc lột mại dâm. Việc xóa bỏ mại dâm, thông qua việc bảo vệ nạn nhân và hình sự hóa người mua dâm là cách hiệu quả duy nhất để loại bỏ mại dâm và các hình thức bóc lột mại dâm và bảo đảm tôn trọng quyền con người.
Người bán dâm thường bị xã hội kỳ thị, do đó họ buộc phải làm việc ở những nơi khuất hoặc tối, và phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn nhất định mà không có bất kỳ biện pháp bảo vệ nào; người bán dâm có thể được xem là nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội. An toàn về thể chất, sức khỏe và tinh thần của người bán dâm và nhân phẩm của người bán dâm đã bị đe dọa từ lâu[5]. Những người hành nghề mại dâm nữ, nam và chuyển giới phải đối mặt với mức độ bạo lực, kỳ thị, phân biệt đối xử và các vi phạm khác về quyền con người. Bạo lực đối với người bán dâm có liên quan đến việc sử dụng bao cao su không phù hợp hoặc không sử dụng bao cao su và tăng nguy cơ nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục (STI) nói chung và HIV. Bạo lực cũng ngăn người bán dâm tiếp cận thông tin và dịch vụ điều trị HIV[6].
Do đó, xử lý các hành vi bạo lực, áp dụng các biện pháp can thiệp giảm hại, hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm là yêu cầu cần thiết đối với các quốc gia để bảo vệ quyền của người bán dâm nói chung, xóa bỏ kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người bán dâm, đồng thời góp phần kiểm soát được sự lây nhiễm các dịch bệnh.
Mặc dù pháp luật của các quốc gia có sự khác biệt về phòng, chống mại dâm, nhưng có thể chia thành các nhóm chính như sau: (1) Nhóm các nước hình sự hóa hành vi mại dâm bao gồm cả bán dâm, mua dâm, và tổ chức hoạt động mại dâm. Nghĩa là người bán dâm, mua dâm, các tổ chức thực hiện hoạt động mại dâm đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp, ví dụ như ở các quốc gia Mỹ (trừ bang Nevada), Hàn Quốc, và Ai cập; (2) Nhóm các quốc gia không hình sự hóa hành vi mại dâm như New Zealand, Bang New South Wales (Úc) và Slovenia; (3) Nhóm các quốc gia quy định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người bán dâm ví dụ như Romania, Moldova, Lithuania, Nga, và Việt Nam; (4) Nhóm các quốc gia quy định hợp pháp hóa mại dâm nghĩa là hành vi bán dâm sẽ không bị áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính hay hình sự, ví dụ như ở Úc, Hy Lạp, Lebanon, Peru, Uruguay và Senegal[7].
Tuy nhiên, người bán dâm ở hầu hết các quốc gia đều phải đối mặt với các nguy cơ bị bạo lực và nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm (HIV) cao, dẫn đến bị vi phạm quyền con người như không được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế, trợ giúp pháp lý, tư vấn cũng như được hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng.
Bảo vệ quyền của người bán dâm đã được cộng đồng quốc tế quan tâm, Công ước quốc tế về quyền con người và Công ước CEDAW đóng vai trò quan trọng để các quốc gia ban hành các chính sách bảo vệ nạn nhân của bạo lực giới, đặc biệt là nhóm người bán dâm có nguy cơ cao bị bạo lực, bóc lột và vi phạm quyền con người.
Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã đưa ra các giải pháp chủ yếu để phòng ngừa bạo lực và can thiệp giảm hại cho người bán dâm cụ thể là: (1) trao quyền cho cộng đồng thông qua việc huy động cộng đồng tham gia vào công tác phòng ngừa và ứng phó với bạo lực; áp dụng các chương trình chăm sóc và can thiệp ban đầu; quản lý giám sát các chương trình phòng ngừa và ứng phó từ trung ương đến địa phương; (2) ứng phó với các hình thức bạo lực; (3) các dịch vụ được cung cấp bởi cộng đồng; (4) thực hiện các chương trình bao cao su; (5) Các dịch vụ chăm sóc và điều trị y tế; (6) Nâng cao năng lực của các tổ chức quản lý và thực hiện chương trình[8]. Phòng ngừa và ứng phó đối với bạo lực đối với người bán dâm là biện pháp phòng ngừa HIV có hiệu quả, đồng thời bảo đảm cho người bán dâm dễ dàng tiếp cận các dịch vụ và đưa ra các quyết định có liên quan đến sức khỏe và phúc lợi xã hội lâu dài của họ.
3.  Một số khuyến nghị
Để thực hiện tốt hơn công tác phòng ngừa và ứng phó bạo lực, can thiệp giảm hại và hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm, chúng tôi cho rằng, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần ban hành Luật Phòng, chống mại dâm thay thế cho Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm hiện nay. Luật Phòng, chống mại dâm cần được ban hành dựa trên cách tiếp cận quyền con người, xóa bỏ các khoảng trống pháp lý giữa pháp luật Việt Nam so với các chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế, phù hợp với công ước quốc tế về quyền con người, công ước CEDAW. Luật này cần có những quy định cụ thể các biện pháp bảo đảm quyền được bảo vệ trước các hình thức bạo lực và quyền tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ một cách bình đẳng, không có sự kỳ thị, phân biệt đối xử, hạn chế việc bóc lột, vi phạm quyền của người bán dâm.
Thứ hai, cần quy định cụ thể các hành vi bạo lực đối với người bán dâm trong Luật Phòng, chống mại dâm. Các quy định này sẽ tạo cơ sở cho việc thiết lập cơ chế bảo vệ người bán dâm, tạo điều kiện cho người bán dâm (đặc biệt là phụ nữ bán dâm) xóa bỏ mặc cảm tự ti, e ngại, sẵn sàng tiếp cận các cơ quan để yêu cầu bảo vệ họ trong các tình huống xảy ra.
Thứ ba, pháp luật cần quy định rõ những người bán dâm là nạn nhân của bạo lực có quyền tiếp cận sử dụng các dịch vụ chăm sóc y tế, trợ giúp pháp lý của Nhà nước. Người bán dâm là nhóm yếu thế trong xã hội, cần được trợ giúp về các vấn đề y tế để bảo vệ sực khỏe của bản thân họ và nâng cao việc phòng ngừa, lây lan các bệnh xã hội; giúp họ giải quyết các vấn đề về pháp lý trong cuộc sống để họ dễ dàng tháo gỡ các vấn đề khó khăn, sớm tìm được các giải pháp thoát khỏi tình trạng bán dâm, nâng cao hiểu biết về các quyền và các biện pháp phòng vệ, bảo vệ quyền của bản thân họ, chống lại các hành vi xâm hại.
Thứ tư, bổ sung các quy định hỗ trợ người bán dâm như hỗ trợ học nghề, giới thiệu việc làm và vay vốn tín dụng. Người bán dâm sẽ có cơ hội chuẩn bị cho việc thay đổi việc làm và thay đổi cuộc sống của mình; người bán dâm không phải chứng minh mình có mong muốn bỏ nghề để được tiếp cận và hưởng các chính sách này./.

 


* Bài viết này được thực hiện với sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phát triển cộng đồng (SCDI) và Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội – Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
[1] “Giảm Thiểu Tác Hại Trong Mại Dâm - Bảo Đảm an Toàn, Sức Khỏe và Quyền Con Người,” accessed November 17, 2018; http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/ChiTiet.aspx?IDNews=25327.
[2] Theo Báo cáo giám sát trọng điểm của Cục Phòng, chống HIV/AIDS và Viện Da liễu Trung ương,
[3] Ritsu Nacken, Quyền trưởng đại diện UNFPA, Người hành nghề mại dâm có quyền được chăm sóc sức khỏe; https://suckhoedoisong.vn/nguoi-hanh-nghe-mai-dam-co-quyen-duoc-cham-soc-suc-khoe-n99981.html, truy cập ngày 10/12/2018. 
[4] Hiệu quả mô hình thí điểm hỗ trợ hoà nhập cộng đồng cho người mại dâm, http://tiengchuong.vn/Mai-dam/Hieu-qua-mo-hinh-thi-diem-ho-tro-hoa-nhap-cong-dong-cho-nguoi-mai-dam/12891.vgp, truy cập ngày 10/12/2018.
[5] Genevieve Fuji Johnson, “Governing Sex Work: An Agonistic Policy Community and Its Relational Dynamics,” Critical Policy Studies 9, no. 3 (July 3, 2015): 259–77, https://doi.org/10.1080/19460171.2014.968602.
[6] “Addressing violence against sex worker,” 4, accessed December 7, 2018, World Health Oganization, accessed 13 December 2018, https://www.who.int/hiv/pub/sti/sex_worker_implementation/swit_chpt2.pdf.
[7] “Framework_on_rights_of_sex_workers_cedaw.Pdf,” 23, accessed December 14, 2018, https://law.yale.edu/ system/files/area/center/ghjp/documents/framework_on_rights_of_sex_workers_cedaw.pdf.
[8] “Addressing violence against sex worker,” 4, accessed December 7, 2018, World Health Oganization, accessed 13 December 2018, https://www.who.int/hiv/pub/sti/sex_worker_implementation/swit_chpt2.pdf.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 10 (410), tháng 5/2020.)


Ý kiến bạn đọc