Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của chiến sĩ, trạm trưởng, đội trưởng bộ đội biên phòng đang thi hành công vụ

10/06/2020

TS. PHẠM THỊ THANH HUẾ

Chủ nhiệm bộ môn, Khoa Pháp luật, Học viện Biên phòng

THS. NGUYỄN VĂN TIẾN

Phòng Khoa học Quân sự, Học viện Biên phòng.

Tóm tắt: Hiện nay, các quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng, Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sỹ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ còn tồn tại một số điểm bất cập, làm ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính nói riêng và công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính nói chung. Bài viết phân tích, chỉ rõ những hạn chế đó và đồng thời đề xuất hướng hoàn thiện.
Từ khóa:Bộ đội Biên phòng, vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Abstract: The applicable regulations on the competence of fining administrative violations conducted by the soldiers on duty, the commander of the checkpoint on duty, the captain of the border guard force on duty are inadequate, which in turn provides negative impacts on the effectiveness of fining administrative violations in particular and the performance of preventing and fighting against the administration violations in general. This article is not only to review the inadequacies but also put forward recommendations for further improvements.
Keywords:The Border Guard Force, administrative violations, fines to administrative violations, competence of fining administrative violations.
BỘ-ĐỘI-BIÊN-PHÒNG.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của chiến sĩ, Trạm trưởng, Đội trưởng Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ
- Thẩm quyền theo luật định
Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Luật Xử lý VPHC), các chức danh có thẩm quyền xử phạt VPHC trong Bộ đội Biên phòng (BĐBP) bao gồm 04 nhóm với 09 chức danh cụ thể: Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ; Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ; Đồn trưởng Đồn biên phòng, Hải đội trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng biên phòng Cửa khẩu cảng; Chỉ huy trưởng BĐBP cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh BĐBP[1]. Trong đó, Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ có thẩm quyền xử phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 1% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 Luật Xử lý VPHC, nhưng không quá 500.000 đồng[2]; Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sỹ BĐBP đang thi hành công vụ có thẩm quyền xử phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 5% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 Luật Xử lý VPHC nhưng không quá 2.500.000 đồng[3].
-Thẩm quyền được cụ thể hóa, chi tiết hóa trong các Nghị định
Căn cứ Luật Xử lý VPHC, Chính phủ quy định cụ thể, chi tiết về hành vi VPHC, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi VPHC; thẩm quyền xử phạt VPHC, mức tiền phạt cụ thể theo từng chức danh[4]. Trong đó, thẩm quyền xử phạt VPHC của BĐBP nói chung , Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ, Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ được quy định tại 50 nghị định, với 57 lĩnh vực theo các phương thức sau:
Thứ nhất, xác định cụ thể thẩm quyền xử phạt của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ, Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụtại khoản riêng; đồng thời, có phân định thẩm quyền xử phạt của ba chức danh đối với các hành vi VPHC quy định tại các điểm, khoản, điều luật trong nghị định cụ thể. Phương thức này được thực hiện ở 08 lĩnh vực, quy định tại 03 nghị định, bao gồm: lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử[5]; thủy sản[6]; hóa chất và vật liệu nổ công nghiệp[7].
Thứ hai, xác định cụ thể thẩm quyền xử phạt của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ, Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụtại khoản riêng; nhưng không phân định thẩm quyền xử phạt của ba chức danh đối với các hành vi VPHC quy định tại các điểm, khoản, điều luật trong nghị định cụ thể mà chỉ phân định thẩm quyền của BĐBP nói chung. Phương thức này được thực hiện ở 25 lĩnh vực, quy định tại 23 nghị định, bao gồm: lĩnh vực An toàn thực phẩm[8]; giống cây trồng; bảo vệ và kiểm dịch thực vật[9]; hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng[10]; tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm, hàng hóa[11]; du lịch[12]; dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí[13]; phòng, chống thiên tai; khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi; đê điều[14]; giao thông đường thủy nội địa[15]; giống vật nuôi[16]; tài nguyên nước và khoáng sản[17]; lâm nghiệp[18]; phânbón[19]; quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia[20]; quốc phòng[21]; thú y[22]; thể thao[23].
Thứ ba, không xác định cụ thể thẩm quyền xử phạt của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ, Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụtại khoản riêng; nhưng có phân định thẩm quyền xử phạt của ba chức danh đối với các hành vi VPHC quy định tại các điểm, khoản, điều luật trong nghị định cụ thể hoặc tại các điều, chương trong nghị định. Phương thức này được thực hiện ở 01 lĩnh vực, quy định tại 01 nghị định, bao gồm: lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng[24].
Thứ tư, không xác định cụ thể thẩm quyền xử phạt của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ, Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụtại khoản riêng; đồng thời, không phân định thẩm quyền xử phạt của ba chức danh đối với các hành vi VPHC quy định trong nghị định mà chỉ phân định thẩm quyền của BĐBP nói chung hoặc viện dẫn khái quát là dựa vào quy định của Luật Xử lý VPHC. Phương thức này được thực hiện ở 19 lĩnh vực, quy định tại 21 nghị định, bao gồm: lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội;phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình[25]; bảo vệ môi trường[26]; bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã[27]; báo chí, xuất bản[28]; hàng hải[29]; hải quan[30]; khí tượng, thủy văn[31]; kinh doanh xổ số[32]; kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài[33]; phí, lệ phí[34]; y tế[35].
Thứ năm, không xác định thẩm quyền xử phạt VPHC cho Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ mà chỉ xác định thẩm quyền từ chức danh Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sỹ BĐBP đang thi hành công vụ trở lên, gồm 01 lĩnh vực: xử phạt VPHC trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam[36].
2. Nhận xét, kiến nghị
2.1. Nhận xét
Quy định hiện hành của pháp luật về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ, Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ bên cạnh những điểm tích cực còn bộc lộ một số bất cập sau:
Thứ nhất, quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính không thống nhất trong phương thức xác định và phân định thẩm quyền xử phạt VPHC của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ, Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ.
Nội dung quy định thẩm quyền xử phạt của ba chức danh trong các nghị định nêu trên thể hiện trong 05 phương thức cơ bản. Trong đó, chỉ có phương thức thứ nhất là đáp ứng yêu cầu cụ thể hóa, chi tiết hóa mà Điều 4 Luật Xử lý VPHC giao cho Chính phủ quy định, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người có thẩm quyền áp dụng trong xử phạt vi phạt VPHC. Đối với các phương thức khác, các chủ thể có thẩm quyền xử phạt phải tra cứu, phân loại hành vi, xác định tỉ lệ % mức tiền phạt đối với các chức danh cụ thể để vận dụng cho phù hợp, đúng đắn. Điều này không những tạo ra sự phức tạp trong quy định của pháp luật, chưa phản ánh đúng yêu cầu chi tiết hóa, cụ thể hóa của Luật Xử lý VPHC mà còn gây nên sự tốn kém khi thực hiện các hoạt động hướng dẫn, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Thứ hai, thuật ngữ pháp lý để chỉ các chức danh này không được sử dụng thống nhất.
Luật Xử lý VPHC ghi nhận chức danh và điều kiện trở thành chủ thể của chức danh này trong xử phạt VPHC: Đối với Chiến sĩ BĐBP phải có điều kiện “đang thi hành công vụ”, đối với Trạm trưởng, Đội trưởng phải có điều kiện là “của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ”. Tuy nhiên, ở một số nghị định việc sử dụng thuật ngữ chỉ chức danh và điều kiện lại không thống nhất. Cụ thể, tại Điều 54 Nghị định số 42/2019/NĐ-CP ngày 16/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực thủy sản chỉ nêu “Chiến sĩ BĐBP” và “Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP” mà không xác định điều kiện “đang thi hành công vụ”; tương tự ở khoản 2 Điều 63 Nghị định số 71/2019/NĐ-CP ngày 30/8/2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực hóa chất và vật liệu nổ công nghiệp xác định “Trạm trưởng, Đội trưởng của chiến sĩ BĐBP” mà không nêu điều kiện “Trạm trưởng, Đội trưởng của chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ”. Trong khi đó, ở hầu hết các nghị định còn lại đều nêu rõ cả hai yếu tố này hoặc theo phương thức nêu khái quát nhưng bao hàm đủ nghĩa “Người có thẩm quyền xử phạt của BĐBP”; “BĐBP có thẩm quyền xử phạt”. Trong đó, để bảo đảm yếu tố “đang thi hành công vụ” cần phải có kế hoạch thực hiện nhiệm vụ, công vụ có liên quan đến quá trình giải quyết vụ việc VPHC, ghi nhận việc thực hiện công vụ của chiến sĩ BĐBP.
Bên cạnh đó, quy định “Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP” và “Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ” sẽ dẫn đến hai cách hiểu: Nếu là “Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP” thì theo cơ cấu tổ chức của BĐBP, đó là Đội trưởng các Đội (Vũ trang, Trinh sát, Phòng, chống tội phạm ma túy hoặc Đội phòng, chống tội phạm), Vận động quần chúng, Tổng hợp đảm bảo, Thủ tục (Đồn có cửa khẩu), Trạm trưởng Trạm Kiểm soát biên phòng và chiến sĩ BĐBP (sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp không giữ chức vụ) thuộc các Đội, Trạm trên. Tuy nhiên, nếu là “Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ” thì chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ thuộc bất kỳ đội nào nêu trên và Đội trưởng cũng có thể là bất kỳ đội nào; nhưng cần thỏa mãn điều kiện “đang thi hành công vụ” (được hiểu là đang thi hành nhiệm vụ, công vụ theo văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản hành chính do cơ quan, người có thẩm quyền ban hành).
Thứ ba, chưa có sự giải thích rõ ràng thuật ngữ “chiến sĩ BĐBP” trong văn bản quy phạm pháp luật.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan chưa có sự giải thích chính thức, rõ ràng về thuật ngữ này; vì thế, gây khó khăn trong việc xác định nhóm người thuộc chức danh này. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, trên cơ sở đánh giá năng lực, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ trong quá trình xử phạt VPHC, Bộ Tư lệnh BĐBP đã có hướng dẫn giải thích “Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp không giữ chức vụ đang thi hành công vụ”. Tuy rằng sự giải thích này là cần thiết, nhưng đó vẫn là giải thích mang tính nghiệp vụ, chưa phải là giải thích chính thức trong văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ tư, nhiều nghị định xác định và phân định thẩm quyền xử phạt của ba chức danh mang tính hình thức, không khả thi.
Quy định mang tính hình thức, không khả thi về thẩm quyền xử phạt của ba chức danh nêu trên thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Có Nghị định xác định và phân định thẩm quyền xử phạt của ba chức danh, nhưng khi đối chiếu với từng hành vi vi phạm cụ thể thì cả ba chức danh đều không có thẩm quyền xử phạt, bao gồm: lĩnh vực an toàn thực phẩm[37]; giống cây trồng[38]; hoạt động thương mại; sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng[39]; giống vật nuôi[40]; hải quan[41]; khí tượng, thủyvăn[42]; kinh doanh trò chơi điện tửcó thưởng dành cho người nước ngoài[43]; tài nguyên nước[44]; phân bón[45]; thú y[46]; thể thao[47].
- Có Nghị định xác định và phân định thẩm quyền xử phạt của ba chức danh nhưng khi đối chiếu hành vi thì chỉ có chức danh Trạm trưởng, Đội trưởng của chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ là có thẩm quyền, còn chức danh chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ không có thẩm quyền, bao gồm: lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã[48]; lâm nghiệp[49].
- Có Nghị định xác định thẩm quyền xử phạt của các chức danh gắn liền với lĩnh vực, song thực tế đối chiếu hành vi vi phạm thì một hoặc một số chức danh trong ba chức danh lại không có thẩm quyền xử phạt trên lĩnh vực đó, bao gồm: Nghị định nêu ba chức danh có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm thuộc cả 05 lĩnh vực (viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin, bưu chính, giao dịch điện tử)[50]; nhưng quy định cụ thể thì hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt chỉ liên quan đến 01 lĩnh vực là tần số vô tuyến điện[51].
Thứ năm, một số quy định về thẩm quyền của ba chức danh chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.
Có Nghị định[52] bao hàm một số điều quy định về xử phạt VPHC đối với người nước ngoài “có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[53], dẫn đến hai cách hiểu: Một là, đối với việc xử phạt người nước ngoài VPHC, nếu áp dụng hình thức xử phạt trục xuất thì BĐBP không có thẩm quyền; nếu không áp dụng hình thức xử phạt trục xuất thì việc xử phạt người nước ngoài vẫn thuộc thẩm quyền của BĐBP. Hai là, chỉ cần trong điều luật quy định “có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất” thì thẩm quyền không thuộc BĐBP, vì chỉ khi BĐBP có quyền xử phạt trục xuất thì mới cân nhắc được việc có áp dụng hay không, trong khi đó, BĐBP không có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt này. Các cách hiểu khác nhau này bắt nguồn từ cụm từ “có thể” mà không nêu rõ hành vi nào của người nước ngoài bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất. Tương tự như vậy, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình quy định việc xử phạt VPHC “khi nạn nhân có yêu cầu[54], cũng dẫn đến hai cách hiểu sau: một là, nếu nạn nhân có yêu cầu thì ba chức danh trên không có thẩm quyền xử phạt, nếu họ không có yêu cầu thì các chức danh này vẫn có quyền xử phạt (vì cả ba chức danh không có thẩm quyền áp dụng bất kỳ biện pháp khắc phục hậu quả nào); hai là, trong điều luật đã nêu biện pháp khắc phục hậu quả thì dù có áp dụng hay không, cả ba chức danh đều không có thẩm quyền xử phạt.
Ngoài ra, còn có những quy định chưa phù hợp, chưa chính xác hoặc lỗi kỹ thuật. Ví dụ, khoản 1 Điều 75 Nghị định số 67/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí đã không dựa trên cách tính tỉ lệ % được Luật Xử lý VPHC quy định tại Điều 24 và Điều 40; khoản 4 Điều 35 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC về an toàn thực phẩm có nêu “điểm b khoản 1, các điểm b và c khoản 6 Điều 22” nhưng trong Nghị định này không có điểm b khoản 1 Điều 22; Điều 66 Nghị định số 142/2017/NĐ-CPngày 11/12/2017 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực hàng hải, quy định thẩm quyền của Cảnh sát biển nhưng trong khoản 1 lại ghi là lực lượng BĐBP.
2.2. Kiến nghị
            Để khắc phục những bất cập nêu trên trong quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt VPHC của Chiến sỹ BĐBP đang thi hành công vụ, Trạm trưởng, Đội trưởng của chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất,các nghị định cần thống nhất phương thức xác định và phân định thẩm quyền xử phạt VPHC của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ, Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ theo hướng xác định cụ thể thẩm quyền xử phạt của từng chức danh, gắn liền với từng hành vi VPHC, quy định tại các điểm, khoản, điều trong nghị định. Điều này phù hợp với quy định của Luật Xử lý VPHC và rất thuận lợi cho người áp dụng pháp luật.
Thứ hai, sửa đổi Điều 54 Nghị định số 42/2019/NĐ-CP, khoản 2 Điều 63 Nghị định số 71/2019/NĐ-CP bằng cách bổ sung thêm nội dung “đang thi hành công vụ” vào các chức danh “Chiến sĩ BĐBP” và “Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP”. Điều này vừa thống nhất với quy định tại Điều 40 Luật Xử lý VPHC, vừa phù hợp với thực tiễn công tác của BĐBP khi thành lập các Tổ, Đội công tác gồm thành phần là chiến sĩ BĐBP ở các Đội công tác khác nhau.
Thứ ba, các nội dung có liên quan đến chức danh có thẩm quyền xử phạt nói chung và chiến sĩ BĐBP nói riêng cần được giải thích trong chính nghị định hoặc thông tư, để bảo đảm yếu tố công khai, thống nhất trong áp dụng pháp luật.
Thứ tư, sửa đổi Nghị định số 15/2020/NĐ-CP theo hướng ba chức danh chỉ có thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực tần số vô tuyến điện; bỏ thẩm quyền xử phạt của các chức danh này trong lĩnh vực viễn thông, công nghệ thông tin, bưu chính, giao dịch điện tử.
Sửa đổi Nghị định số 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ; Nghị định số 31/2016/NĐ-CP ngày 06/5/2016 của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 90/2017/NĐ-CP, Nghị định số 04/2020/NĐ-CP); Nghị định số 64/2018/NĐ-CP ngày 07/5/2018 của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 42/2019/NĐ-CP) theo hướng bỏ chức danh có thẩm quyền xử phạt là Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ, Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ.
 Thứ năm, sửa đổi Nghị định số 167/2013/NĐ-CP theo hướng chuẩn hóa các thuật ngữ pháp lý, bỏ cụm từ “có thể” trong quy định về việc áp dụng hình thức xử phạt trục xuất mà cần nêu rõ trường hợp vi phạm nào áp dụng hình thức này, nhằm tránh các cách hiểu khác nhau. Đối với quy định xử phạt trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình tại Nghị định này, khi xác định và phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm của từng chức danh sẽ khắc phục được hai cách hiểu đối với việc xử phạt VPHC “khi nạn nhân có yêu cầu”; trong đó, cần khẳng định thẩm quyền xử phạt không thể thuộc về chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ, trạm trưởng, đội trưởng của chiến sĩ BĐBP đang thi hành công vụ vì cả ba chức danh này đều không có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
Thứ sáu, sửa đổi các lỗi kỹ thuật tại khoản 1 Điều 75 Nghị định số 67/2017/NĐ-CP;   khoản 4 Điều 35 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP; Điều 66 Nghị định số 142/2017/NĐ-CP./. 
 
 

 


[1] Điều 40 Luật Xử lý VPHC năm 2012.
[2] Điều 24, Khoản 1 Điều 40 Luật Xử lý VPHC năm 2012.
[3] Điều 24, khoản 2 Điều 40 Luật Xử lý VPHC năm 2012.
[4] Điều 4 Luật Xử lý VPHC năm 2012.
[5] Điều 117, điểm a khoản 3 Điều 120 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP 03/02/2020 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử.
[6] Nghị định số 42/2019/NĐ-CP ngày 16/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực thủy sản.
[7] Nghị định số 71/2019/NĐ-CP ngày 30/8/2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực hóa chất và vật liệu nổ công nghiệp.
[8] Khoản 1, khoản 2 Điều 31, khoản 4 Điều 35 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC về an toàn thực phẩm.
[9] Nghị định số 31/2016/NĐ-CP ngày 06/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật; Nghị định số 04/2020/NĐ-CP ngày 03/01/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 31/2016/NĐ-CP ngày 06/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật; Nghị định số 90/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực thú y.
[10] Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Nghị định số 141/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp.
[11] Nghị định số 119/2017/NĐ-CP ngày 01/11/2017 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Nghị định số 42/2019/NĐ-CP ngày 16/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực thủy sản.
[12] Nghị định số 45/2019/NĐ-CP ngày 21/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực du lịch.
[13] Nghị định số 67/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí.
[14] Nghị định số 104/2017/NĐ-CP ngày 14/9/2017 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực phòng, chống thiên tai; khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi; đê điều; Nghị định số 65/2019/NĐ-CP ngày 18/7/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 104/2017/NĐ-CP ngày 14/9/2017 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực phòng, chống thiên tai; khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi; đê điều.
[15] Nghị định số 132/2015/NĐ-CP ngày 25/12/2015 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.
[16] Nghị định số 64/2018/NĐ-CP ngày 07/5/2018 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, thủy sản; Nghị định số 42/2019/NĐ-CP ngày 16/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực thủy sản.
[17] Nghị định số 36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản.
[18] Nghị định số 35/2019/NĐ-CP ngày 25/04/2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực lâm nghiệp.
[19] Nghị định số 55/2018/NĐ-CP ngày 16/4/2018 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực phân bón.
[20] Nghị định số 169/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.
[21] Nghị định số 120/2013/NĐ-CP ngày 09/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu.
[22] Nghị định số 90/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực thú y; Nghị định số 04/2020/NĐ-CP ngày 03/01/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 31/2016/NĐ-CP ngày 06/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
[23] Nghị định số46/2019/NĐ-CP ngày 27/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực thể thao.
[24] Nghị định số88/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
[25] Điều 68 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
[26] Điều 51, điểm d khoản 1 Điều 52 Nghị địnhsố 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
[27] Điều 73 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
[28] Nghị định số 159/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong hoạt động báo chí, xuất bản.
[29] Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11/12/2017 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực hàng hải.
[30] Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan; Nghị định số 45/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan.
[31] Nghị định số 173/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ; Nghị định số 65/2015/NĐ-CP ngày 07/8/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về xử phạt VPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước liên quan đến hành vi đăng, phát, cung cấp, đưa tin, công bố thông tin sai sự thật; Nghị định 84/2017/NĐ-CP ngày 18/7/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 173/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ.
[32] Nghị định số 98/2013/NĐ-CP ngày 28/8/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số; Nghị định số 48/2018/NĐ-CP ngày 21/3/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2013/NĐ-CP ngày 28/8/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số; Nghị định số 80/2019/NĐ-CP ngày 01/11/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm.
[33] Nghị định số 86/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài; Nghị định số 175/2016/NĐ-CP ngày 30/12/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều quy định tại Nghị định số 86/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài; Nghị định số 151/2018/NĐ-CP ngày 07/11/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính.
[34] Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn; Nghị định số 49/2016/NĐ-CP ngày 27/5/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn.
[35] Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế; Nghị định số 65/2015/NĐ-CP ngày 07/8/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về xử phạt VPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước liên quan đến hành vi đăng, phát, cung cấp, đưa tin, công bố thông tin sai sự thật.
[36] Nghị định số 162/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Nghị định số 23/2017/NĐ-CP ngày 13/3/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 162/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
[37] Nghị định số 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC về an toàn thực phẩm.
[38] Điều 17, khoản 1 Điều 18, Điều 39 Nghị định số 31/2016/NĐ-CP ngày 06/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 04/2020/NĐ-CP và Nghị định số 90/2017/NĐ-CP).
[39] Điều 17, 21, 25, 55, 91, 103, 103c Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP, Nghị định số 141/2018/NĐ-CP.
[40] Điều 21, khoản 1, 2 Điều 30, khoản 6 Điều 34 Nghị định số 64/2018/NĐ-CP ngày 07/5/2018 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, thủy sản, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 42/2019/NĐ-CP.
[41] Điều 12, Điều 19, Điều 21 Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 45/2016/NĐ-CP.
[42] Điều 5, 5a, 6, 7, 7a, 8, 8a, 9, 9a, 9b, 9c, 19 Nghị định số173/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 65/2015/NĐ-CP và Nghị định số 84/2017/NĐ-CP).
[43] Từ Điều 37 đến Điều 48; khoản 6 Điều 49 Nghị định số 86/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 175/2016/NĐ-CP, Nghị định số 151/2018/NĐ-CP.
[44] Điều 8, 9, 10, 20, 21, 24, 26, 27, 67 Nghị định số 36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản.
[45] Điều 7, Điều 8, khoản 1 và khoản 2 Điều 17, Điều 19 Nghị định số 55/2018/NĐ-CP ngày 16/4/2018 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực phân bón.
[46] Nghị định số 90/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực thú y, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 04/2020/NĐ-CP.
[47] Khoản 3 Điều 18, khoản 3 Điều 19, khoản 1 và khoản 2 Điều 25, Điều 27 Nghị định số46/2019/NĐ-CP ngày 27 tháng 5 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực thể thao.
[48] Ví dụ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, xem khoản 1 Điều 47; khoản 1 Điều 49; khoản 1 Điều 50; Điều 73 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 67/2015/NĐ-CP).
[49] Điều 24; khoản 1, khoản 2 Điều 30; khoản 2 Điều 34 Nghị định số35/2019/NĐ-CP ngày 25/4/2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực lâm nghiệp.
[50] Điều 117 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP 03/02/2020 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử.
[51] Khoản 1 Điều 57; khoản 1 Điều 58; điểm a, điểm b khoản 3 Điều 120 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP 03/02/2020 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử.
[53] Điều 15, Điều 17 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
[54] Khoản 1, khoản 2 Điều 49; Điều 52; Điều 58 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 09 (409), tháng 5/2020.)


Ý kiến bạn đọc