Quyền tác giả đối với tác phẩm trong môi trường công nghiệp 4.0 tại các cơ sở giáo dục đại học

24/02/2020

PGS.TS. VŨ THỊ HỒNG YẾN

Phó trưởng Khoa Luật, Trường Đại học Sài Gòn

Tóm tắt:Quyền tác giả đối với tác phẩm trong môi trường công nghiệp 4.0 tại các cơ sở giáo dục đại học đang là một vấn đề được quan tâm không chỉ trong giới luật học mà còn ảnh hưởng đến giới công nghệ, truyền thông… Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung vào phân tích sự ảnh hưởng mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 đến việc bảo vệ quyền tác giả nói chung và bảo vệ quyền tác giả đối với các tác phẩm tại các cơ sở giáo dục đại học nói riêng. Bài viết nhận diện các loại tác phẩm thuộc quyền sở hữu của nhà trường, xác định phạm vi quyền tác giả của nhà trường với người học; chỉ rõ những đặc thù và giới hạn của hành vi trích dẫn, sao chép tác phẩm để tránh tình trạng “đạo văn”, phân tích các hành vi quản trị quyền tác giả đối với tác phẩm của nhà trường và cuối cùng bài viết rút ra các bài học cho cơ sở giáo dục đại học trong việc bảo vệ tốt nhất quyền tác giả đối với tác phẩm trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0.
Từ khóa: quyền tác giả; cách mạng công nghiệp lần thứ tư; giáo dục đại học; trí tuệ nhân tạo; dự liệu lớn
Abstract: The copyrights to the works in the environment of 4.0 Industrial Revolution in the higher education institutions are a matter of concerns not only in jurisprudence but also in technology, media ... In this article, the author focuses on analyzing the strong impacts of the 4.0 Industrial Revolution on the protection of copyright in general and copyright protection on the works at educational institutions, in higher education in particular. The article also provides identification of the types of works owned by the education institution, the scope of copyright between the education institution and the learners; specification of the characteristics and scope of the act of quoting, copying the works to avoid "plagiarism" act, analysis of the copyright management on the school's works and finally, the article is drawn to provide lessons for higher education institutions in the most appropriate manner of copyright protection to the works in the context of 4.0 Industrial Revolution.
Keywords: Copyright; the Fourth Industrial Revolution; higher education; artificial intelligence; big data
 
1. Khái quát về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và ảnh hưởng của nó đếnquyền tác giả đối với tác phẩm
CMCN 4.0 hay còn gọi là cuộc CMCN lần thứ 4 đang diễn ra và ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam – là một trong những nước có tốc độ phát triển Internet hàng đầu khu vực và trên thế giới. Bằng sự xóa nhòa mọi giới hạn, ranh giới về không gian, thời gian, CMCN 4.0 mở ra một bước ngoặt mới về tốc độ chia sẻ và lan tỏa thông tin, trong đó có các tác phẩm. CMCN 4.0 được phát triển trên 3 trụ cột chính đó là kỹ thuật số, công nghệ sinh học và vật lý, có khả năng kết nối vạn vật lại với nhau và ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, nền kinh tế, các ngành kinh tế và ngành công nghiệp.KỶ-NGUYÊN-4.0.jpg
Trọng tâm của các ngành công nghiệp này bao gồm: sự đột phá công nghệ trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo AI, Robots, Internet vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3D, công nghệ Nano. Trong đó, các yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI)Vạn vật kết nối – Internet of Things (IoT) và Dữ liệu lớn (Big Data)[1].
Có thể nói, công nghệ đang và sẽ tiếp tục làm thay đổi hoàn toàn cách chúng ta sống, làm việc và hưởng thụ; đặc biệt trong lĩnh vực quyền tác giả, cụ thể:
Thứ nhất, về cách thức mà độc giả thưởng thức các tác phẩm: nếu trước đây khán giả phải đi mua vé xem phim, kịch, tuồng … ở rạp, phải đến triển lãm xem tranh hay phải chờ chương trình truyền hình phát sóng mới có thể thưởng thức được các tác phẩm nghệ thuật; hoặc người đọc phải đi mua sách và đọc sách giấy thì nay với hệ thống giải trí đa phương tiện kỹ thuật số, mọi người đều có thể ngồi ở nhà để xem, để đọc, để nghe các tác phẩm thông qua ipad hoặc smartphone (điện thoại thông minh). Điều này luôn là xu hướng lựa chọn tối ưu bởi tính giản tiện, tiết kiệm và nhanh chóng của chúng.
Thứ hai, về phương thức xuất bản các tác phẩm: Các nhà xuất bản không chỉ in ấn, cung cấp các ấn phẩm truyền thống mà còn đóng vai trò là nhà cung cấp dịch vụ nội dung, thông tin để kết nối giữa tác giả và người đọc. Không những thế, nhà xuất bản còn đóng vai trò chủ động đặt hàng đối với các tác giả trên cơ sở khảo sát, đánh giá nhu cầu của độc giả. Một số những công ty truyền thông lớn với ưu thế nắm giữ dữ liệu lớn (big data) sẽ cung cấp và chia sẻ thông tin tác phẩm trực tiếp cho các độc giả online nhanh nhất và hiệu quả nhất thông qua phần mềm quét và lọc dữ liệu.
Thứ ba, xuất hiện hình thức xuất bản trực tiếp từ các cá nhân: Không cần qua thao tác biên tập, giới thiệu, quảng bá của nhà xuất bản truyền thống; các tác giả hiện nay đưa “đứa con tinh thần” của mình đến thẳng người đọc qua Internet. Lúc này, các tập đoàn truyền thông nắm giữ hạ tầng big data sẽ thay thế vai trò của nhà xuất bản.
Thứ tư, xuất hiện các sách điện tử cùng tồn tại song song với các sách in giấy truyền thống. Ebook (sách điện tử) với các thiết bị, phần mềm hỗ trợ đọc, trao đổi, mua bán sách trực tuyến đã tạo ra một cuộc cách mạng thật sự trong giới xuất bản. Các sách điện tử được tích hợp trên nhiều hệ điều hành: Window, Mac, Linux, iOS, Android, Blackberry, WebOS….  Với hình ảnh, audio, video được tích hợp vào Ebook trên tương tác thời gian thực nên rất trực quan, sống động; và tất nhiên sẽ là lựa chọn tối ưu của người đọc.
Thứ năm, về cách thức biên tập: Sự phát triển của trí thông minh nhân tạo sẽ hỗ trợ tối đa biên tập viên trong một số khâu công việc chẳng hạn như tổng hợp tất cả các nguồn thông tin về cùng một chủ đề trên toàn cầu, giúp biên tập viên kiểm định được chất lượng bản thảo, kiểm soát được tình trạng “đạo văn” và tiếp cận được sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học và công nghệ... Biên tập viên cần có kiến thức cơ bản về lập trình, tổ chức xuất bản qua thiết bị di động (mobile publishing), bằng các phương tiện truyền thông xã hội (social publishing) và xây dựng dữ liệu (data book)... 
2. Quyền tác giả đối với tác phẩm tại các cơ sở giáo dục đại học
Quyền tác giả là quyền của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật khoa học, bao gồm các quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền tác giả có đặc điểm: các tác phẩm bảo hộ phải có tính nguyên gốc (có sự độc lập trong việc tạo ra tác phẩm); chỉ bảo hộ hình thức mà không bảo hộ nội dung của tác phẩm.
Tác phẩm tại các cơ sở giáo dục đại học được hiểu là các tác phẩm có nội dung chủ yếu phục vụ cho hoạt động đào tạo của nhà trường và lĩnh vực nghiên cứu của Viện. Các tác phẩm này được chia thành 2 mảng: các tác phẩm phục vụ trực tiếp hay được phát sinh từ hoạt động đào tạo của nhà trường (như giáo trình, bài giảng, sách hướng dẫn học, khoá luận, luận văn, luận án…) và những tác phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường do các doanh nghiệp hay các nhà xuất bản, đơn vị khác đặt hàng. Tìm hiểu về quyền tác giả tại các cơ sở giáo dục đại học làm phát sinh những vấn đề như: những chủ thể nào được xác lập quyền trên các tác phẩm này, phạm vi quyền đến đâu và cách quản trị, khai thác thương mại các tác phẩm này.
2.1. Các chủ thể liên quan đến các tác phẩmđược tạo ra trong các cơ sở giáo dục và đào tạo
Thứ nhất, giảng viên (gồm giảng viên cơ hữu thuộc diện biên chế theo hình thức viên chức hay giảng viên ký hợp đồng lao động với nhà trường; và giảng viên thỉnh giảng), cán bộ trong các phòng, ban, khoa của nhà trường: Thông thường giảng viên cơ hữu hoặc cán bộ trong các phòng ban sẽ đăng ký đề tài nghiên cứu khoa học với nhà trường (cá nhân giảng viên làm chủ nhiệm đề tài), sau đó nhà trường ra quyết định giao nhiệm vụ cùng với việc ký hợp đồng nghiên cứu sáng tạo với giảng viên đó và với các tác giả khác cộng tác thực hiện đề tài.
Thứ hai, học viên, sinh viên theo các hệ và chương trình đào tạo của nhà trường:
- Nếu học viên, sinh viên thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học theo nhiệm vụ thuộc chương trình đào tạo (khoá luận, luận văn, luận án) để được cấp bằng thì cần phải có: quyết định của nhà trường phê duyệt tên đề tài và quyết định cử người hướng dẫn khoa học cho sinh viên, học viên;
- Nếu học viên, sinh viên tự nguyện đăng ký làm đề tài nghiên cứu khoa học với nhà trường thì cũng cần có quyết định giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của nhà trường (nhằm phát động phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học của sinh viên).
Thứ ba, các cá nhân, pháp nhân khác có quan hệ hợp tác nghiên cứu với nhà trường: Đó là nhà trường ký hợp đồng nghiên cứu với các cá nhân, pháp nhân này (hợp đồng thuê viết phần mềm quản lý dữ liệu thông tin, hợp đồng thuê thiết kế lô gô…).
Thứ tư, thư viện: một trong những chức năng của thư viện là cung cấp thông tin về các tác phẩm mà nhà trường nắm quyền sở hữu quyền tác giả. Có những thư viện đã thực hiện việc số hoá tất cả các tài liệu trên - đây chính là hành vi thực hiện việc phân phối tác phẩm thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả nên thư viện cần có sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả[2]. Nếu việc cung cấp thông tin dưới dạng số hoá làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác phẩm hoặc có mục đích thương mại thì phải có sự cho phép và trả mức thù lao hợp lý theo thoả thuận với chủ sở hữu quyền tác giả.
2.2. Xác lập quyền sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm tại cơ sở giáo dục đại học
Cơ sở giáo dục đại học là pháp nhân, không thể trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm mà phải thông qua các cá nhân, nhóm cá nhân cụ thể. Sẽ có những trường hợp sau đây:
(i) Trường hợp nhà trường ký hợp đồng thuê sáng tạo với các tác giả hoặc giao nhiệm vụ cho các tác giả thì nhà trường là chủ sở hữu của quyền tác giả đối với tác phẩm, nghĩa là nhà trường có đầy đủ các quyền tài sản của chủ sở hữu quyền tác giả; các cá nhân trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm được ghi nhận là tác giả của tác phẩm. Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả có các quyền nhân thân và quyền được nhận tiền thù lao.
(ii) Trường hợp học viên, sinh viên viết khoá luận, luận văn, luận án theo nhiệm vụ học tập thì họ có quyền sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm đó. Vì học viên, sinh viên tạo ra tác phẩm không phải theo hợp đồng thuê nghiên cứu sáng tạo với nhà trường. Nếu họ tự ý sử dụng cơ sở vật chất, nguyên vật liệu của nhà trường thì nhà trường có thể yêu cầu hoàn trả các chi phí vật chất đó. Nếu có cá nhân, tổ chức đầu tư nguồn lực cho việc làm khoá luận, luận văn, luận án của người học thì họ có quyền sở hữu quyền tài sản đối với các tác phẩm này, nếu không có thoả thuận khác. Tuy nhiên, theo Quy chế đào tạo hiện hành thì người học phải nộp một bản (1 bản cứng và 1 bản mềm) vào thư viện của nhà trường để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu và đào tạo của nhà trường.
2.3. Quản lý và khai thác quyền tác giả đối với các tác phẩmtrong các cơ sở giáo dục và đào tạo
2.3.1. Quản lý và khai thác quyền tác giả đối với các tác phẩm
Quản lý quyền tác giả là thực hiện các biện pháp kiểm soát đối với tác phẩm để xác lập quyền, khai thác, bảo vệ và phát triển giá trị của tác phẩm đó. Khai thác quyền tác giả là việc thực hiện các biện pháp kinh tế để thu được lợi nhuận từ việc sử dụng các tác phẩm đó. Khai thác quyền tác giả là một hoạt động thuộc quản lý quyền tác giả. Các hoạt động đó bao gồm:
ªCông bố tác phẩm: Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT), quyền công bố thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả. Tuy nhiên, đối với các khoá luận, luận văn, luận án được thực hiện theo nhiệm vụ đào tạo thì quyền công bố thuộc về nhà trường[3]. Cũng cần lưu ý trường hợp: nếu cơ sở giáo dục đào tạo không thực hiện việc công bố trong một thời gian hợp lý do cơ sở giáo dục đào tạo quy định mà không có lý do thoả đáng thì tác giả của tác phẩm được quyền công bố.
ªQuản lý tác phẩm: Lưu giữ và bảo vệ các chứng cứ về quá trình sáng tạo ra tác phẩm hoặc căn cứ xác lập quyền sở hữu tác phẩm; có thể thực hiện việc đăng ký bản quyền để giảm thiểu nghĩa vụ chứng minh quyền nếu có tranh chấp xảy ra.
ªKhai thác thương mại quyền tác giả đối với tác phẩm: Lựa chọn hình thức khai thác thương mại khả thi (xuất bản sách, dịch sang ngôn ngữ khác); lựa chọn cách thức phân phối tác phẩm (số hóa và xuất bản sách điện tử, sách nói…), lập danh sách, phân tích và đánh giá đối tác tiềm năng có nhu cầu sử dụng tác phẩm (cơ quan lập pháp, toà án, cơ quan công chứng, các cơ sở đào tạo khác). Thông thường các cơ sở giáo dục đại học, nhà trường sẽ tạo lập, khai thác và quản lý các tác phẩm thông qua các loại hợp đồng như sau:
(i) Hợp đồng nghiên cứu/giao việc: được áp dụng cho tất cả các dự án nghiên cứu giữa nhà trường với các thành viên, cán bộ nghiên cứu của nhà trường. Nhà trường cấp kinh phí và cơ sở vật chất cho nhân viên thực hiện việc nghiên cứu theo yêu cầu của dự án;
(ii) Hợp đồng dịch vụ nghiên cứu/ hợp đồng nghiên cứu theo yêu cầu: là hợp đồng được ký kết giữa nhà trường với các doanh nghiệp trong đó nhà trường thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu theo yêu cầu của doanh nghiệp;
(iii) Hợp đồng hợp tác phát triển/hợp đồng hợp tác nghiên cứu chung: được áp dụng khi nhà trường cần có sự kết hợp với các chủ thể có vốn, nhân lực với các chuyên môn cụ thể;
(iv) Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng (li-xăng) hoặc hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả: được ký kết giữa nhà trường với các chủ thể có nhu cầu khai thác, sử dụng hoặc sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm này.
ªBảo vệ quyền và giải quyết tranh chấp về quyền tác giả đối với tác phẩm trên nguyên tắc ưu tiên hoà giải; nắm được các quy định tố tụng về khởi kiện tại toà án.
2.4. Hành vi sao chép, trích dẫn tác phẩm tại các cơ sở giáo dục đại học
Luật SHTT có quy định về hành vi sao chép, trích dẫn tác phẩm của người khác không bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả[4]. Tuy nhiên, vẫn cần phải giải thích về một số từ ngữ được sử dụng trong điều luật để có hướng giải quyết khi có tranh chấp xảy ra:
Một là, cần có sự giải thích về tính “hợp lý” của hành vi trích dẫn tác phẩm được quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 25 Luật SHTT. Dựa trên nguyên tắc chung bảo vệ quyền tác giả thì hành vi trích dẫn tác phẩm của người khác được coi là hợp lý nếu thoả mãn 3 điều kiện như sau: (i) việc sao chép, trích dẫn phải hướng đến mục đích minh chứng hay bình luận cho tác phẩm của mình. Khi trình bày quan điểm cá nhân của mình, tác giả lấy thông tin từ các tác phẩm khác như là những nguồn tin phụ, là chứng cứ để làm sáng tỏ cho quan điểm của tác giả;  hoặc các thông tin được trích dẫn chỉ là nguồn tư liệu để tác giả đưa ra những quan điểm bình luận (có thể ủng hộ hoặc phản đối). Do đó, nếu thông tin trích dẫn mà không phải để chứng minh hay không có những bình luận của tác giả hoặc hàm ý các thông tin được trích dẫn xem như là quan điểm chính của tác giả thì không phải là sự trích dẫn “hợp lý”; (ii) việc trích dẫn, sao chép các thông tin không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác phẩm được sao chép, trích dẫn. Nếu tác giả trích dẫn, sao chép toàn bộ tác phẩm hoặc phần cơ bản tác phẩm của người khác để tạo nên tác phẩm của mình thì vô hình chung đã “triệt tiêu” tác phẩm được trích dẫn, sao chép. Bởi lẽ, người đọc sẽ không cần phải tìm đọc tác phẩm được trích dẫn, sao chép nữa vì nó đã có sẵn trong tác phẩm này rồi. Hậu quả là ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác phẩm bị sao chép, trích dẫn; (iii) tỷ lệ phần trăm của phần sao chép, trích dẫn so với dung lượng của tác phẩm được tạo thành cần phải được cân nhắc để bảo đảm hàm lượng khoa học và tính sáng tạo của tác giả tác phẩm đó. Nếu số trang của tác phẩm được sao chép, trích dẫn quá nhiều[5] sẽ khiến cho sự sáng tạo của tác giả trong tác phẩm đó gần như không có.
Hai là, cần xác định rõ điều kiện của hành vi trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường: (i) không làm sai ý tác giả và (ii) không nhằm mục đích thương mại. Trường hợp giảng viên sử dụng tác phẩm của người khác, thiết kế thành bài giảng của mình và dùng nó để giảng trong các chương trình có tính thương mại thì phải trả thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả[6].
Ba là, đối với môi trường của các trường đại học cần phải có các giải pháp để giải quyết xung đột giữa lợi ích của chủ sở hữu quyền tác giả với nhu cầu nghiên cứu học tập của số đông sinh viên. Luật SHTT quy định cho phép hành vi sao chép 1 bản để nghiên cứu trên nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác phẩm[7]. Chúng tôi muốn nhấn mạnh về tính đặc thù của hành vi sao chép trong môi trường đại học ở những điểm như sau: (i) loại tác phẩm được sao chép là sách chuyên khảo, giáo trình, hướng dẫn môn học… gắn với nội dung của các môn học trong chương trình đào tạo[8]; (ii) địa điểm sao chép là nơi thực hiện hoạt động giảng dạy (có thể ở trong trường hoặc ngoài trường theo các chương trình liên kết đào tạo); (iii) đối tượng sao chép là người học[9]. Đây là những tài liệu phục vụ cho việc đào tạo, giảng dạy nên nhu cầu đọc buộc người học phải có và số lượng bản sao sẽ luôn luôn là bằng hoặc xấp xỉ với số lượng người học tại thời điểm đó – điều này tất yếu ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác phẩm và phương hại đến lợi ích của chủ sở hữu quyền tác giả xét cả về phương diện vật chất và tinh thần. Vì vậy, trong khi chờ các chế tài cụ thể của pháp luật thì nhà trường nên chọn biện pháp thích hợp nhất là quy định về trách nhiệm kỷ luật với người học theo quy chế mà nhà trường tự xây dựng[10].
3. Kiến nghị
Là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển Internet hàng đầu khu vực và trên thế giới, Việt Nam thực sự có những nền tảng quan trọng để bước vào giai đoạn xuất bản 4.0. Tuy nhiên, để nắm chắc cơ hội, chủ động cho việc bảo vệ tốt nhất quyền tác giả thì các cơ sở giáo dục đại học cần phải có những giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, các cơ sở giáo dục đại học cần xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin mở, chuẩn bị đầy đủ điều kiện và năng lực để chuyển dần sang thông tin từ các tác phẩm in truyền thống sang hình thức số; cần phải biết đáp ứng, tiếp cận người đọc trên các nền tảng công nghệ mới; tăng cường xây dựng các website, đẩy mạnh xây dựng hình ảnh, bộ nhận diện thương hiệu, chiến lược phát triển cho trường mình. 
Thứ hai, phát triển thị trường sách điện tử và dịch vụ xuất bản mới trên cơ sở “kết hợp hài hòa” với thị trường sách in truyền thống. Theo đó, phân phối khéo léo kết hợp giữa 2 loại hình sách in truyền thống và sách điện tử, để dần thu hút người đọc, đặc biệt là những người có thời gian sử dụng máy tính cao, thông qua quảng cáo, trích đăng trên mạng Internet; xây dựng hệ thống thư viện điện tử thuận lợi phục vụ cho tra cứu, tìm kiếm sản phẩm xuất bản truyền thống.
Thứ ba, thay đổi phương thức giáo dục dựa trên ứng dụng các công nghệ thông tin hiện đại. Cách giảng dạy và hình thức, phương pháp giảng dạy ngày nay đã có những chuyển đổi để đáp ứng nhu cầu của môi trường công nghệ 4.0; đó là dịch vụ cung cấp chương trình đào tạo trực tuyến, thông qua mạng Internet (như học theo chương trình elearning) và các tác phẩm của nhà trường sẽ được đóng gói qua các sản phẩm cụ thể. Người học sẽ được cung cấp mã số thẻ để có thể tham gia vào chương trình học trực tuyến. Bài học không chỉ là việc gỉảng viên thuyết trình đơn thuần mà có tương tác trực tiếp (giảng viên với 1 học viên hoặc với 1 nhóm học viên), có kèm theo video tình huống minh họa, sinh động – bài giảng trở thành một tác phẩm cần được bảo vệ tác quyền và đưa vào khai thác thương mại cho số lượng người học không giới hạn về không gian, thời gian. Do đó, việc tích hợp các bài giảng vào chương trình phần mềm của các điện thoại thông minh là sự lựa chọn không thể khác, bởi trong môi trường công nghệ 4.0 điện thoại smart phone được xem là vật bất ly thân của con người.
Thứ tư, cần nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp an ninh truyền thông hiệu quả, đặc biệt là vấn đề phòng, chống tội phạm công nghệ cao và an ninh mạng. Có thể nói, đây là một trong những yêu cầu căn bản và cấp thiết nhất ở mọi quốc gia hiện nay, khi phải giải bài toán “cách mạng công nghệ 4.0”. Hiện nay, một số website chuyển sách viết thành sách nói để đến với độc giả nhanh nhất (miễn phí)[11]; sau đó kêu gọi người nghe đến các hiệu sách mua ủng hộ tác giả bởi nên biết ơn đối với những lợi ích mà cuốn sách (dưới dạng audio) đã mang lại cho bạn. Điều này là những giải pháp rất “hình thức” và không hiệu quả khi con người bị cuốn theo những bận rộn của công việc thường ngày nhất là khi hiện nay nhiều người theo đuổi cách sống tối giản nên họ hạn chế mua thêm đồ đạc (trong đó sách) để mang về nhà. Vì vậy, chúng ta cần thực hiện các giải pháp công nghệ nhằm quản lý việc tiếp cận thông tin từ phía bạn đọc đối với sách điện tử và có cơ chế thanh toán online ngay.
Mục đích của hoạt động quản lý, khai thác tác phẩm trong các cơ sở giáo dục đại học chính là truyền tải tri thức, lan tỏa, chia sẻ tri thức của các tác giả là giảng viên, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực chuyên sâu và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là môi trường tối ưu cho việc hiện thực hoá mục đích này. Do vậy, việc nắm bắt về các quyền và phạm vi bảo hộ của pháp luật đối với các tác phẩm tại các cơ sở giáo dục và đào tạo sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu sáng tạo, nâng cao chất lượng dạy và học của các cơ sở này./.
 

 


[1] Nguồn https://blogchiasekienthuc.com/dan-cong-nghe/cach-mang-4-0-la-gi.html
Trí tuệ nhân tạo (tên đầy đủ là Artificial Intelligence): Được hiểu như một ngành của khoa học máy tính liên quan đến việc tự động hóa các hành vi thông minh. AI là trí tuệ do con người lập trình tạo nên với mục tiêu giúp máy tính có thể tự động hóa các hành vi thông minh như con người. Trí tuệ nhân tạo khác với việc lập trình logic trong các ngôn ngữ lập trình là việc ứng dụng các hệ thống học máy (tiếng Anh: machine learning) để mô phỏng trí tuệ của con người trong các xử lý mà con người làm tốt hơn máy tính. Cụ thể, trí tuệ nhân tạo giúp máy tính có được những trí tuệ của con người như: biết suy nghĩ và lập luận để giải quyết vấn đề, biết giao tiếp do hiểu ngôn ngữ, tiếng nói, biết học và tự thích nghi.
Internet of Things: Theo định nghĩa của Wikipedia mạng lưới vạn vật kết nối Internet hoặc là Mạng lưới thiết bị kết nối Internet viết tắt là IoT (tiếng Anh: Internet of Things); khi mà đối với mỗi đồ vật, con người được cung cấp một định danh của riêng mình, và tất cả có khả năng truyền tải, trao đổi thông tin, dữ liệu qua một mạng duy nhất, không cần đến sự tương tác trực tiếp giữa người với người, hay người với máy tính. IoT đã phát triển từ sự hội tụ của công nghệ không dây, công nghệ vi cơ điện tử và Internet. Nói đơn giản là một tập hợp các thiết bị có khả năng kết nối với nhau, với Internet và với thế giới bên ngoài để thực hiện một công việc nào.
Big Data: Theo định nghĩa của Gartner: “Big Data là tài sản thông tin, mà những thông tin này có khối lượng dữ liệu lớn, tốc độ cao và dữ liệu đa dạng, đòi hỏi phải có công nghệ mới để xử lý hiệu quả nhằm đưa ra được các quyết định hiệu quả, khám phá được các yếu tố ẩn sâu trong dữ liệu và tối ưu hóa được quá trình xử lý dữ liệu.
[2]Điểm đ khoản 1 Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ quy định quyền tài sản bao gồm cả quyền “Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác”.
[3] Điều 39 Luật Sở hữu trí tuệ quy định chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả:
1. Tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm cho tác giả là người thuộc tổ chức mình là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này, trừ trường hợp có thoả thuận khác. 
1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;
[5]Theo án lệ của Toà án ở một số nước thì tỷ lệ sao chép không được quá 8% dung lượng của tác phẩm.
[6] Giảng dạy nhằm mục đích thương mại được hiểu là các bài giảng này nằm ngoài chương trình đào tạo chung của nhà trường và có những hợp đồng giảng dạy của giảng viên với các cơ sở khác có thu tiền.
[7] Xem điểm a, khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ và khoản 2 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ: “2. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm”.
[8] Các môn học ở các trường đại học hiện nay được thực hiện theo tín chỉ, theo đó mỗi môn đều có đề cương môn học. Trong đề cương môn học này có phần tài liệu môn học bắt buộc (tên các giáo trình, sách chuyên khảo, sách hướng dẫn môn học…) mà sinh viên buộc phải có để học.
[9] Tối thiểu mỗi lớp được mở khoảng 50 sinh viên trở lên.
[10] Kinh nghiệm của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh xử lý đối với hành vi sao chép giáo trình của sinh viên, xem thêm https://plo.vn/ban-doc/photo-giao-trinh-hoc-xu-sao-cho-vua-682413.html
[11] Trang youtube: Kho sách nói

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 21 (397), tháng 11/2019.)