Hoàn thiện khung pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế

20/01/2020

THS. TRẦN THỊ THANH THU

Viện Nghiên cứu lập pháp.

Tóm tắt: Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển bền vững luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, quán triệt thực hiện. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nền kinh tế độc lập, tự chủ cần có khả năng tận dụng được tối ưu các nguồn lực bên ngoài và bên trong cho sự phát triển bền vững của đất nước, đồng thời có khả năng ứng phó một cách hiệu quả với những biến động của thị trường khu vực và thế giới. Hội nhập vừa tạo ra cơ hội và thách thức cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bài viết này đề cập định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam và ý nghĩa của việc hoàn thiện khung pháp luật để đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập.
Từ khoá: Nền kinh tế độc lập, tự chủ; hội nhập quốc tế; phát triển bền vững.
Abstract: Establishment of an independent, autonomous economy for sustainable  developments has always been given special attention and thoroughly carried out by our Party. Under the context of globalization today, an independent and autonomous economy should be able to make the best use of the external and internal resources for the country's sustainable developments and also be able to adapt, effectively deal with the fluctuations of regional and global markets. The integration trend has provided with both opportunities and challenges for the countries, including Vietnam. This article addresses the orientation of establishing an independent and autonomous economy of Vietnam and also the meaning of provements of the legal framework for the requirements of the independent and autonomous economy in the context of integration.
Keywords: independent, autonomous economy; international integration; sustainable development.
Hthien-khugn-pluat_1.jpg
(Ảnh minh họa - Nguồn internet)
 
Trong những năm vừa qua, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chúng ta đã nỗ lực xây dựng khung pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Để thiết lập khung pháp luật cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư, kinh doanh tương đối đầy đủ, đồng bộ trong đó quan trọng nhất là các đạo luật về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN như Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật lao động, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Trọng tài thương mại, Luật Phá sản, Luật Bảo vệ môi trường, Luật quản lý thuế, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật cạnh tranh, Luật giá, Luật đất đai, Luật các tổ chức tín dụng, Luật công nghệ thông tin, Luật giao dịch điện tử, Luật Thi hành án dân sự… và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, trong điều kiện mới khi nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã bước sang một giai đoạn phát triển cao hơn, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường, độc lập, tự chủ theo định hướng XHCN ở nước ta, phù hợp với mục tiêu “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”[1].
Chúng tôi cho rằng, việc hoàn thiện khung pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh chủ động hội nhập ở nước ta, cần nhằm tới các mục tiêu sau đây: (i) Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; xác định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; (ii) Khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; (iii) Nâng cao chất lượng, hiệu quả của bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức; (iv) Tăng cường quản lý đầu tư trực tiếp của nước ngoài; (v) Tăng cường bảo vệ lợi ích quốc gia trong các quan hệ kinh tế quốc tế, đặc biệt trong các thiết chế thương mại đa phương.
1) Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và xác định mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đặc biệt với việc ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2014, thể hiện đúng tinh thần Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do kinh doanh của công dân, của doanh nghiệp, đó là những gì luật pháp không cấm thì người dân, doanh nghiệp được tự do đầu tư, kinh doanh. Tuy nhiên, môi trường kinh doanh tại Việt Nam hiện nay vẫn bị đánh giá là thiếu tính bền vững, tồn tại nhiều rào cản đối với các doanh nghiệp, nhiều thủ tục hành chính nhiêu khê, rườm rà với nhiều giấy phép con, làm tăng chi phí gia nhập thị trường, chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể, do số lượng thủ tục nhiều, các doanh nghiệp phải trải qua chín bước thủ tục và mất tới 22 ngày dẫn đến việc thứ hạng khởi sự kinh doanh còn thấp và liên tục giảm trong ba năm gần đây[2]. Chỉ số về khởi sự kinh doanh của Việt Nam trong năm 2017 ở thứ 123 trên thế giới, giảm hai bậc so với năm 2016. Hiện nay, chỉ số độc lập tư pháphiệu quả pháp lý giải quyết tranh chấp của Việt Nam đang ở thứ hạng thấp hơn hẳn so với một số nước ASEAN như Singapore, Malaysia và Thái Lan. Đáng chú ý, trong nhiều năm qua, Ngân hàng Thế giới (WB) không ghi nhận cải cách nào của Việt Nam về đăng ký sở hữu và sử dụng tài sản. Trong 10 năm liền, chỉ số này liên tục giảm bậc, từ thứ hạng 40 trong năm 2010 xuống thứ hạng thứ 63 trong năm 2018[3].
Vì vậy, trong thời gian tới, cần tiếp tục rà soát, nghiên cứu sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Phá sản, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thi hành án dân sự, Luật Tổ chức toà án… và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm cải thiện môi trường pháp lý đối với các lĩnh vực có các chỉ số có điểm đánh giá còn thấp, xếp hạng thấp và tiến độ cải cách chậm. Chính phủ cần phải tiếp tục nỗ lực trong việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, cải cách chế độ công vụ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trực tuyến, kết nối giữa các cơ quan, đơn vị liên quan trong các hoạt động quản lý nhà nước[4].
Bên cạnh đó, cần xác định rõ mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, từ đó xác định những lĩnh vực mà pháp luật cần hoặc không cần điều chỉnh, tránh trường hợp nhà nước can thiệp quá mức vào thị trường, nghĩa là: nhà nước can thiệp quá sâu vào những lĩnh vực không cần thiết, trong khi đó lại buông lỏng những lĩnh vực cần có “bàn tay hữu hình” của nhà nước. Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường sau 30 năm đổi mới cho thấy, việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường vẫn còn chưa rõ ràng, còn rất nhiều mâu thuẫn, bất cập. Kinh tế thị trường phải được vận động với sự tham gia của ba chủ thể chính: người sản xuất, người tiêu dùng và nhà nước. Nhưng trong quản lý nền kinh tế của Việt Nam hiện nay, còn có sự lẫn lộn về vị trí, vai trò của ba chủ thể này.
Tổng kết 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam đã chỉ rõ hạn chế của mối quan hệ giữa nhà nước và cơ chế thị trường là: “Chưa làm sáng tỏ vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường do chưa phân định rõ chức năng nhà nước - thị trường. Nhà nước vẫn can thiệp vào một số hoạt động mà để chức năng thị trường tự đảm nhiệm mang lại hiệu quả hơn (phân bổ vốn; quản trị doanh nghiệp) trong khi chưa chú ý đúng mức đến những chức năng mà nhà nước phải hoàn thành (xây dựng và thực thi khung khổ quản lý nhà nước “khung khổ hành chính - pháp lý”, cung cấp hàng hóa và dịch vụ công, hỗ trợ phát triển,...)”[5]. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, nhà nước đã can thiệp vào vai trò, chức năng của các chủ thể khác. Điển hình như, trong lĩnh vực quản lý kinh tế vĩ mô, vai trò quan trọng nhất của Nhà nước là định hướng mục tiêu phát triển, dự báo tình hình biến động của thị trường; kiểm soát độc quyền; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh…, nhưng Nhà nước không tập trung đúng mức, mà lại can thiệp vào vấn đề giá cả, tiền lương… đây là chức năng của doanh nghiệp[6]. Sự nhầm lẫn còn được thể hiện ở việc không phá sản được những doanh nghiệp đã thực sự phá sản; lãi suất ngân hàng, gồm lãi suất huy động tiền gửi và lãi suất cho vay, chưa được tự do hóa, chưa phản ánh đúng quan hệ cung - cầu, mức độ khan hiếm vốn trên thị trường; cạnh tranh trong nền kinh tế vẫn gặp những trở ngại do việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền của doanh nghiệp trong một số lĩnh vực (điện, xăng dầu...); do cơ chế “xin - cho”, chính sách ưu tiên, tạo thuận lợi trong tiếp cận các nguồn lực cho đối tượng này so với đối tượng khác; việc chỉ đạo bằng mệnh lệnh hành chính trong từng vụ, việc cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; do các hoạt động buôn lậu, trốn lậu thuế, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, do những chi phí không chính thức, nhũng nhiễu của cán bộ quản lý đối với doanh nghiệp...[7]. Việc chậm thay đổi thói quen can thiệp của Nhà nước vào thị trường bằng các biện pháp hành chính thay vì sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô để điều tiết thị trường là một nguyên nhân khiến Nhà nước vận hành thị trường thiếu hiệu quả[8].
Chính vì vậy, trong thời gian sắp tới cần thay đổi tư duy trong quản lý nhà nước cũng như trong công tác xây dựng pháp luật, nhất là pháp luật trong lĩnh vực dân sự, kinh tế. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là bảo vệ quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh của công dân, bảo vệ lợi ích công cộng, xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh công bằng, xoả bỏ những rào cản bất hợp lý. Nhà nước chỉ can thiệp để giải quyết những thất bại của thị trường.
Trong bối cảnh thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (hay 4.0), thời cơ và thách thức đặt ra với nước ta đều rất lớn. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 xuất hiện thời kỳ này đang là thời kỳ dân số vàng, cũng là thời kỳ đổi mới ở nước ta. Đây là cơ hội hiếm có, mang tính lịch sử đối với một quốc gia[9]. Để có thể thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0,chúng ta cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và có chính sách cụ thể khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo.Nghị quyết số 11-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ngày 03/6/2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCNđã đưa ra một số nhiệm vụ cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, trong đó có nhiệm vụhoàn thiện thể chế về phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, tranh thủ những cơ hội và thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế hoàn thiện các quy định liên quan để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động khởi nghiệp”.
Đến nay, khung pháp lý cho hoạt động khởi nghiệp sáng tạo đã bước đầu được xây dựng khi Quốc hội thông quaLuật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Luật này có một số điều dành riêng cho doanh nghiệp khởi nghiệp, thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong việc thúc đẩy phong trào “Quốc gia khởi nghiệp”. Khoản 2 Điều 3 của Luật DNNVV định nghĩa “DNNVV khởi nghiệp sáng tạo là doanh nghiệp được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh”. Để hướng dẫn cụ thể một số quy định của Luật, trong đó có quy định về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, Chính phủ đã ban hành 04 Nghị định hướng dẫn, bao gồm:
- Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Nghị định số 38/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo;
- Nghị định số 39/2018/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Nghị định số 39/2019/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tuy vậy, trong bảng xếp hạng của Ngân hàng thế giới (World Bank) về những quốc gia có điều kiện khởi nghiệp tại châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam vẫn đứng cuối bảng[10]. Khung pháp lý cho các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam còn mang tính chung chung như hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, tham gia mua sắm, cung ứng dịch vụ công, hỗ trợ đào tạo… Phần lớn các chính sách này có phạm vi đối tượng rộng, dàn trải với đối tượng được hỗ trợ là gần như toàn bộ các DNNVV mà chưa có sự định hướng riêng cho nhóm đối tượng đặc thù, đặc biệt là các DN khởi nghiệp[11]. Thiếu các quy định liên quan đến khung pháp lý cho hoạt động của các tổ chức hỗ trợ tài chính cho hoạt động khởi nghiệp, đó là quỹ đầu tư mạo hiểm và đầu tư “thiên thần” [12]. Tính khả thi của hệ thống quy định và chính sách hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp còn nhiều hạn chế, chẳng hạn, định mức hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đã được quy định khá rõ trong các nghị định, nhưng hai vấn đề ảnh hưởng tới tính khả thi của các chính sách hỗ trợ tài chính, đầu tư là tiêu chí lựa chọn và sự phối hợp của các cơ quan nhà nước vẫn còn rất hạn chế[13].
Thực tế này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục rà soát Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các văn bản hướng dẫn Luật này và các văn bản pháp luật khác có liên quan nhằm tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo để phong trào “Quốc gia khởi nghiệp” trở nên thực chất hơn, thực sự trở thành động lực quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, tương lai của đất nước.
Nghị quyết số 11-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ngày 03/6/2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩacũng đã đưa ra một số nhiệm vụ cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, trong đó có “hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, tinh giản bộ máy, biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống chính trị”.
Việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức là điều kiện then chốt để xây dựng thành công thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chất lượng, hiệu quả của bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức cần được tăng cường thông qua việc tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng; pháp luật về tổ chức bộ máy; pháp luật về cán bộ, công chức; pháp luât về tiền lương…
Trước hết, cần hoàn thiện pháp luật về phòng chống tham nhũng nhằm xây dựng một Chính phủ liêm chính, hoạt động trên nguyên tắc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách pháp luật về tiền lương nhằm tạo động lực làm việc, góp phần giảm nguy cơ tham nhũng của đội ngũ công chức. Bên cạnh đó, cần cải cách, hoàn thiện pháp luật về tiền lương nhằm tạo động lực làm việc, góp phần giảm nguy cơ tham nhũng của đội ngũ công chức. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã thông qua Nghị quyết về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp (Nghị quyết số 27-NQ/TW). Trong thời gian sắp tới, để thể chế hóa Nghị quyết này, cần rà soát, sửa đổi toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về tiền lương, như Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang và một loạt các văn bản khác nhằm tạo động lực nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Ngoài ra, tiếp tục rà soát, hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhằm tinh giản biên chế, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả, nhanh nhạy trong phản ứng chính sách và pháp luật về cán bộ, công chức nhằm thu hút những người có đức, có tài vào làm việc trong bộ máy nhà nước, phục vụ lợi ích chung của quốc gia.
Ngày 25/10/2017, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trong đó đã đưa ra hai vấn đề quan trọng, đó là (i) Tập trung rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối các tổ chức trong hệ thống chính trị và (ii) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức “vừa hồng”, “vừa chuyên”, thực sự là công bộc của dân. Trước thực trạng hệ thống chính trị hiện nay, phải kiên quyết giảm, không thành lập mới các tổ chức trung gian; giải thể, sắp xếp lại các tổ chức hoạt động không hiệu quả; không tăng đầu mối và biên chế. Cùng với việc đổi mới, kiện toàn về mặt tổ chức, quy chế hoạt động, việc xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị bởi cán bộ là “cái gốc” của mọi công việc; mọi việc thành công hay không đều do cán bộ tốt hay xấu. Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đây là một trong những Nghị quyết rất quan trọng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết có nhiều quan điểm mới, toàn diện hơn về công tác cán bộ, trong đó đáng chú ý có những nội dung như:  đánh giá cán bộ gắn với kết quả hoàn thành nhiệm vụ; người trẻ có tài được ưu tiên vào vị trí lãnh đạo, kể cả vượt cấp; mở rộng thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo; tiến tới xóa bỏ biên chế suốt đời; kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ, kiên quyết không để lọt người chạy chức, chạy quyền; Bí thư cấp ủy cấp tỉnh, huyện không phải người địa phương... Do đó, để thể chế hóa các Nghị quyết này, cần rà soát, sửa đổi hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật cán bộ, công chức, Luật viên chức… và hệ thống các văn bản hướng dẫn các Luật này nhằm thực hiện việc tinh giản biên chế, xây dựng bộ máy tinh gọn, thu gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả.
Cuối năm 2018, Việt Nam tiến hành tổng kết 30 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trải qua 30 năm với nhiều làn sóng đầu tư, đến nay, khu vực FDI đã trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, thông qua sự góp mặt của 26 nghìn dự án đầu tư còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 326 tỷ USD, vốn thực hiện đạt hơn 180 tỷ USD. Đóng góp của khu vực FDI vào kinh tế - xã hội Việt Nam ngày càng đáng kể, tương đương khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 20% GDP. Các doanh nghiệp (DN) FDI đóng góp tới 72,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tức là cứ 10 đồng xuất khẩu của Việt Nam thì có tới hơn 7 đồng là của khu vực FDI[14].
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực nêu trên thì hiệu ứng lan tỏa của khu vực FDI đối với các lĩnh vực của nền kinh tế lại chưa được như kỳ vọng và cũng là bài toán khó đối với các nhà hoạch định chính sách. Theo TS. Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc nghiên cứu Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, tính lan tỏa của doanh nghiệp FDI tới doanh nghiệp trong nước còn rất hạn chế. Đầu tư nước ngoài là quan trọng, nhưng đóng góp như thế nào cho nền kinh tế còn quan trọng hơn. Việt Nam hội nhập, nhưng đừng là điểm trung gian để các doanh nghiệp FDI xuất khẩu nhờ[15]. Để nâng cao chất lượng thu hút dòng vốn FDI, một trong những vấn đề then chốt là nâng cao tính liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, hướng tới mục tiêu chung. Hiện nay, Chính phủ đang nỗ lực để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ và nuôi dưỡng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành chế tạo. Thời gian tới, Chính phủ cần có các biện pháp thiết thực, nhằm tạo điều kiện và hỗ trợ cho sự liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài một cách hiệu quả, dễ tiếp cận[16].
Thu hút đầu tư nước ngoài phải thực sự đem lại lợi ích cho quốc gia, chú trọng thiết kế chính sách khuyến khích chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI cho khu vực trong nước, qua đó cải thiện năng lực công nghệ, năng lực cạnh tranh và cuối cùng là năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài cần chú trọng chất lượng dự án đầu tư chứ không phải số lượng dự án. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài phải dựa trên nguyên tắc kiên quyết không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng, không biến Việt Nam thành bãi rác thải công nghệ của thế giới.
Ngoài ra, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng dẫn đến sự tự do di chuyển các dòng vốn, hàng hoá, dịch vụ từ đó phát sinh rất nhiều vấn đề mang tính chất xuyên quốc gia cần phải xử lý như buôn lậu, buôn bán hàng giả, hàng nhái, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ, chuyển giá, trốn thuế, rửa tiền… Chẳng hạn, trong thời gian vừa qua, tình trạng chuyển giá, trốn thuế, gây thất thu ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI đã hết sức gay gắt và được dự báo là sẽ còn trở nên nghiêm trọng hơn nữa trong thời gian tới. Tại phiên thảo luận Quốc hội ngày 31/10/2017, Đại biểu Phạm Trọng Nhân đã thông tin, có đến 50% doanh nghiệp FDI tại Việt Nam kê khai lỗ, nhưng càng lỗ lại càng mở rộng sản xuất[17]. Các doanh nghiệp FDI như Coca-Cola, PepsiCo, hệ thống siêu thị Metro, BigC, Adidas Group, Keangnam Vina, Công ty TNHH Sumitomo Bakelite Việt Nam, Công ty TNHH điện tử Meiko Việt Nam… có các dấu hiệu như: thường xuyên báo lỗ trong nhiều năm nhưng vẫn tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh; tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu không đáng kể; tỷ lệ đóng góp vào ngân sách Nhà nước thấp, trong khi tổng dự án và tổng kinh phí đầu tư khá cao…[18] Tương tự, lợi dụng bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã trở thành đích nhắm của tội phạm quốc tế để thực hiện hành vi rửa tiền. Tuy nhiên, hành vi rửa tiền chỉ xuất hiện khá rõ nét trong những năm gần đây thông qua các phương thức, thủ đoạn như: đầu tư mở tài khoản, kinh doanh chứng khoán, đánh bạc, chuyển ngoại hối trái phép ra nước ngoài, sử dụng thẻ tín dụng…[19] Ngoài ra, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán hàng giả, hàng nhái, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ thậm chí cả hàng cấm… chưa bao giờ hết gay gắt, nhất là tại các khu vực với các nước có chung đường biên giới. Từ khi triển khai hệ thống thông quan điện tử VNACCS/VCIS với việc thông quan hàng hóa tự động theo quản lý rủi ro, một mặt tạo thông thoáng, thuận lợi cho doanh nghiệp, một số doanh nghiệp lợi dụng sự thông thoáng đó làm cho tình hình buôn lậu, gian lận thương mại diễn biến phức tạp hơn[20]. Điều này một mặt đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung toàn bộ các quy định pháp luật có liên quan như Bộ luật hình sự, Luật quản lý thuế, Luật hải quan, Luật sở hữu trí tuệ, Luật phòng, chống rửa tiền… và các văn bản hướng dẫn các luật này. Mặt khác, cần nâng cao năng lực của các cơ quan thực thi pháp luật, cũng như tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, thực thi pháp luật để phát hiện và xử lý vi phạm, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của quy định pháp luật. Ngoài ra, cần tăng cường công tác hợp tác quốc tế với các cơ quan thực thi pháp luật nước ngoài mà trước hết là trong khối ASEAN và các tổ chức, diễn đàn đa phương, vì đây là những vấn đề có tính chất xuyên biên giới, không một quốc gia nào có thể tự mình giải quyết được.
Việc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới cũng dẫn đến nhiều rủi ro, nhiều hệ luỵ tiêu cực cần phải giải quyết như các biện pháp phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ) do Chính phủ nước ngoài áp dụng đối với các doanh nghiệp Việt Nam hay các vụ kiện đầu tư nước ngoài của các nhà đầu tư nước ngoài chống lại Chính phủ Việt Nam. Chẳng hạn, hiện nay, hàng hóa của Việt Nam là đối tượng bị điều tra của 78 vụ kiện chống bán phá giá trên thế giới, 12 vụ điều tra chống trợ cấp và 17 vụ điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá[21]. Tính đến nay, Chính phủ Việt Nam cũng đã phải giải quyết không ít vụ tranh chấp với các nhà đầu tư nước ngoài (với 16 vụ kiện đầu tư quốc tế trong giai đoạn 2010-2013[22], trong đó có những vụ như Vụ Ông Trịnh Vĩnh Bình, Vụ McKenzie, Vụ DialAsie…). Theo nhận định của Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vũ Đại Thắng, trên thực tế số lượng các vụ khiếu nại, vướng mắc, tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài với các cơ quan quản lý nhà nước và với Chính phủ đang có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ phức tạp[23]. Sự phát triển nhanh chóng của các hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cùng với xu thế hội nhập mạnh mẽ kèm theo các cam kết về bảo hộ đầu tư ngày càng rộng đã đặt ra vấn đề bảo đảm đối xử công bằng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong quá trình thực thi, nếu các cơ quan trong bộ máy nhà nước không tuân thủ những quy định của pháp luật và cam kết quốc tế sẽ tiềm ẩn phát sinh những khiếu nại và có thể dẫn tới những tranh chấp đầu tư với Chính phủ. Khi đó, những hậu quả pháp lý có thể ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường đầu tư[24]. Trong khi đó, năng lực tranh tụng quốc tế của Chính phủ còn hạn chế cũng là một trong những lý do dẫn đến khả năng thắng kiện của phía Chính phủ Việt Nam là không lớn[25]. Với tư cách bị đơn, Chính phủ Việt Nam sẽ đối diện với nhiều phiền phức, đó là chi phí lớn cho vụ kiện, thời gian đeo đuổi vụ kiện lâu dài và quan trọng hơn cả là mỗi lần thua kiện, Việt Nam sẽ để lại ấn tượng không tốt với các quốc gia khác và các nhà đầu tư nước ngoài về môi trường pháp lý kinh doanh không minh bạch và việc thực thi kém hiệu quả các cam kết quốc tế[26]. Thậm chí, các cơ quan chức năng ở địa phương có thể trở thành mục tiêu kiện tụng để trục lợi từ các nhà đầu tư nước ngoài không lương thiện[27].
Thực tiễn đó đòi hỏi chúng ta cần chú trọng nghiên cứu hoàn thiện khung pháp lý về quản lý đầu tư và đầu tư, nâng cao năng lực của các cơ quan Nhà nước có liên quan (các cơ quan quản lý phòng vệ thương mại, quản lý đầu tư nước ngoài, đại diện cho Chính phủ Việt Nam trong các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế…) nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia trong các quan hệ kinh tế quốc tế, đặc biệt trong các thiết chế thương mại đa phương như WTO./.

 


[1] Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005  của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
[2] Môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã thực sự thuận lợi?, The Leader ngày 25/01/2018, xem tại https://theleader.vn/moi-truong-kinh-doanh-o-viet-nam-da-thuc-su-thuan-loi-20180125123538124.htm
[3] Môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã thực sự thuận lợi?, tlđd.
[4] Môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã thực sự thuận lợi?, tlđd.
[5] TS. Đinh Thế Huynh, GS.TS. Phùng Hữu Phú, GS.TS. Lê Hữu Nghĩa...(chủ biên): 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb. CTQG - ST, Hà nội. 2015, tr. 96.
[6] TS. Lê Thị Thanh Hà, Giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường ở nước ta hiện nay, Tạp chí Cộng sản 18/7/2017, xem tại http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2017/45935/Giai-quyet-moi-quan-he-giua-nha-nuoc-va-thi-truong-o.aspx.
[7] PGS.TS. Nguyễn Văn Thạo, Một số vấn đề cần cấp thiết đổi mới trong thể chế kinh tế ở nước ta hiện nay, Tạp chí Tài chính ngày 27/06/2017, xem tại http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/mot-so-van-de-can-cap-thiet-doi-moi-trong-the-che-kinh-te-o-nuoc-ta-hien-nay-116097.html.
[8] TS. Lê Thị Thanh Hà, Giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường ở nước ta hiện nay, tlđd.
[9] TS. Nguyễn Chí Trường, Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: Cơ hội, thách thức và giải pháp hai tốc độ cho giáo dục nghề nghiệp, Tạp chí Lao động & Xã hội online, 30/03/2018, xem tại http://gdnn.gov.vn/AIAdmin/News/View/tabid/66/newsid/36684/seo/Cuoc-cach-mang-cong-nghiep-4-0--co-hoi-thach-thuc-va-giai-phap-hai-toc-do-cho-giao-duc-nghe-nghiep/Default.aspx 
[10] World Bank: Việt Nam cuối bảng về điều kiện khởi nghiệp, Khởi Nghiệp Trẻ, https://khoinghieptre.vn/world-bank-viet-nam-cuoi-bang-ve-dieu-kien-khoi-nghiep/, truy cập ngày 4/4/2018.
[11] Nguyễn Văn Thịnh - Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, Tạp chí Tài chính ngày 21/04/2018, xem tại http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/hoan-thien-he-thong-phap-ly-ho-tro-doanh-nghiep-khoi-nghiep-139877.html.
[12] Nguyễn Văn Thịnh - Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, Tạp chí Tài chính ngày 21/04/2018, tlđd.
[13] Nguyễn Văn Thịnh - Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, Tạp chí Tài chính ngày 21/04/2018, tlđd.
[14] Nâng cao chất lượng của dòng vốn FDI, Báo Nhân dân điện tử ngày 11/07/2018, xem tại http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/36968902-nang-cao-chat-luong-cua-dong-von-fdi.html.
[15] Nâng cao chất lượng của dòng vốn FDI, tlđd.
[16] Nâng cao chất lượng của dòng vốn FDI, tlđd.
[17] TS. Lê Đăng Doanh: Việc chuyển giá, trốn thuế của doanh nghiệp FDI sẽ ngày càng phức tạp, The Leader ngày 02/11/2017, xem tại https://theleader.vn/ts-le-dang-doanh-viec-chuyen-gia-tron-thue-cua-doanh-nghiep-fdi-se-ngay-cang-phuc-tap-20171101223710712.htm.
[18] "Chỉ mặt, điểm tên "Những thủ đoạn chuyển giá, trốn thuế tinh vi của doanh nghiệp lớn, An ninh Thủ đô ngày 12/8/2018, xem tại https://anninhthudo.vn/kinh-doanh/chi-mat-diem-ten-nhung-thu-doan-chuyen-gia-tron-thue-tinh-vi-cua-doanh-nghiep-lon/778111.antd
[19] Điểm mặt những vụ rửa tiền ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính ngày 26/10/2016, xem tại http://tapchitaichinh.vn/viet-nam-chong-rua-tien,-tai-tro-khung-bo/diem-mat-nhung-vu-rua-tien-o-viet-nam-95358.html.
[20] Tình hình buôn lậu, gian lận thương mại diễn biến phức tạp, Tạp chí Tài chính ngày 19/01/2018, xem tại http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/phap-luat-kinh-doanh/tinh-hinh-buon-lau-gian-lan-thuong-mai-dien-bien-phuc-tap-133331.html
[21] Việt Nam bị kiện 78 lần về chống bán phá giá trên thế giới, VTC News ngày 27/06/2018, xem tại https://vtc.vn/viet-nam-bi-kien-78-lan-ve-chong-ban-pha-gia-tren-the-gioi-d409278.html
[22] Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế: Không dễ, ngày 28/10/2014, xem tại http://www.viac.vn/tin-tuc/giai-quyet-tranh-chap-dau-tu-quoc-te:-khong-de-a255.html
[23] Việt Nam tìm cách giảm thiểu tranh chấp đầu tư quốc tế, PetroTimes ngày 24/06/2018, xem tại https://petrotimes.vn/viet-nam-tim-cach-giam-thieu-tranh-chap-dau-tu-quoc-te-506841.html 
[24] Việt Nam tìm cách giảm thiểu tranh chấp đầu tư quốc tế, PetroTimes ngày 24/06/2018, tlđd.
[25] Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế: không dễ, tlđd.
[26] TS. Phan Thị Thanh Thủy, Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế - Những thách thức đối với Chính phủ Việt Nam, Tạp chí dân chủ và Pháp luật, xem tại http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/phap-luat-kinh-te.aspx?ItemID=169.
[27] TS. Phan Thị Thanh Thủy, Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế - Những thách thức đối với Chính phủ Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tlđd.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 17 (393), tháng 9/2019.)