Pháp luật tố tụng hình sự với việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi

26/09/2019

TS.NGUYỄN HẢI NINH

Khoa Pháp luật Hình sự, Đại học Luật Hà Nội.

Tóm tắt: Hoạt động tố tụng được tiến hành nhằm bảo vệ quyền con người nhưng cũng chính trong hoạt động tố tụng này mà quyền con người dễ bị vi phạm nhất[1]. Vì vậy, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là tư tưởng xuyên suốt trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015[2]. Trên cơ sở quán triệt nguyên tắc “bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên”, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định các thủ tục chuyên biệt, thể hiện mức độ ưu tiên cho nhóm đối tượng này. Bài viết hướng tới việc làm rõ một số thay đổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi đặt trong mục tiêu bảo đảm quyền con người, chỉ ra các hạn chế, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
Từ khóa: tố tụng hình sự; quyền con người; người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Abstract: Legal proceedings are conducted to protect human rights, however these activities normally cause the human rights most likely to be violated. Thus, the guarancy of the human rights and rights of citizenship is recognized to be the throughout conception of the Criminal Procedure Code of 2015. On the basis of "guaranteeing the best interests for juveniles", the Criminal Procedure Code of 2015 provides specific procedures, granting priorities for this group. This article is aimed at clarifying some changes in the Criminal Procedure Code of 2015 on some particular proceedings which are designated to ensure the human rights for defendants who are under 18 years old (juveniles). Furthermore, the author will indicate and discuss the limitations of those regulations and thence, proposing solutions to complete the current regulations to protect and ensure the rights of the under 18 years old defendants.

Keywords: Criminal Procedure; human rights; accused person under 18 years old

 Untitled_26.jpg

Ảnh minh họa: nguồn internet

1. Về nguyên tắc tiến hành tố tụng bảo đảm quyền con người của người dưới 18 tuổi trong đó có người bị buộc tội
Người bị buộc tội dưới 18 tuổi thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và sự bảo vệ đặc biệt nhóm đối tượng này được quy định trong luật quốc tế và luật pháp của tất cả quốc gia, chỉ khác nhau về cách thức và mức độ[3]. Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015 kế thừa những điểm tiến bộ trong các Bộ luật trước đây, phù hợp với luật pháp quốc tế, xây dựng thủ tục tố tụng riêng đối với người dưới 18 tuổi là người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng tại Chương XXVIII. Quy định thủ tục riêng này bảo đảm tuân thủ quy định tại Khoản 3 Điều 40 Công ước quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989: “Các quốc gia thành viên phải tìm cách thúc đẩy việc thiết lập những đạo luật, thủ tục, các cơ quan và thể chế áp dụng riêng cho những trẻ em bị tình nghi, bị cáo buộc hay bị xác nhận là vi phạm pháp luật hình sự”, cũng như các Công ước khác về quyền con người mà Việt Nam tham gia.
Khi tiến hành tố tụng, các quy định khác của Bộ luật TTHS không trái với quy định tại Chương XXVIII vẫn được áp dụng. Người dưới 18 tuổi trong đó có người bị buộc tội có quyền bình đẳng về quyền năng pháp lý với người đủ 18 tuổi khi tham gia tố tụng với cùng một tư cách. Việc quy định các chủ thể tham gia tố tụng khác như người bào chữa, người đại diện của người dưới 18 tuổi không làm mất đi quyền năng pháp lý của người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, trên cơ sở đó định hướng xây dựng các quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi cũng như định hướng cho quá trình thực hiện pháp luật, cần được ghi nhận vào như một nguyên tắc tiến hành tố tụng.
Bộ luật TTHS năm 2015 xây dựng điều luật riêng về nguyên tắc tiến hành tố tụng (Điều 414) trong đó quy định: khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự có người bị buộc tội, người làm chứng, người bị hại dưới 18 tuổi phải tuân theo các nguyên tắc sau:
- Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi.
- Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi.
- Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18 tuổi, nhà trường, Ðoàn thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt.
- Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi.
- Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi.
- Bảo đảm các nguyên tắc xử lý của Bộ luật Hình sự (BLHS) đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi.
 Việc ghi nhận các nguyên tắc này được đánh giá là điểm đổi mới rất cơ bản về thủ tục tố tụng, tạo điều kiện tối đa bảo vệ quyền và lợi ích của người chưa thành niên trong hoạt động tố tụng giải quyết án hình sự, vốn là các hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, có tính cưỡng chế và nghiêm khắc[4]. Các nguyên tắc này có ý nghĩa bổ sung, là những nguyên tắc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tuân theo bên cạnh các nguyên tắc được quy định tại Chương II Bộ luật TTHS. Tuy nhiên, như đã phân tích, vấn đề định hướng đầu tiên cần được ghi nhận là sự bình đẳng về quyền năng pháp lý của người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng lại chưa được ghi nhận. Việc ghi nhận nội dung này sẽ quyết định đến việc xây dựng các quy định khác đặc biệt có ảnh hưởng đến quyền lợi của người dưới 18 tuổi. Vì vậy, chúng tôi đề xuất bổ sung vào quy định tại Điều 414.
Ngoài ra, với những nguyên tắc chưa được cụ thể hoá tại các điều luật khác của Bộ luật TTHS thì nội dung của nguyên tắc phải đầy đủ để tránh vi phạm trong áp dụng. Nguyên tắc “Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi” chính là nguyên tắc cần được xem xét, bổ sung để bảo đảm quyền của người dưới 18 tuổi đặc biệt là người bị buộc tội. Mặc dù tại Điều 25 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai” thì nguyên tắc này mới bảo đảm được giữ bí mật cá nhân cho người dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử. Trong giai đoạn điều tra, việc giữ bí mật điều tra quy định tại Điều 177 thường được hiểu là những thông tin “nếu tiết lộ ra sẽ gây bất lợi cho quá trình điều tra, thu thập chứng cứ, bảo đảm an toàn cho người tham gia tố tụng”[5] mà không được hiểu là giữ bí mật đời tư của người dưới 18 tuổi. Diễn giải về quy tắc “Bảo vệ sự riêng tư” của người chưa thành niên, các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hiệp quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên, 1985 (Các quy tắc Bắc Kinh) ghi nhận tầm quan trọng của việc bảo vệ người chưa thành niên khỏi những tác động bất lợi có thể có do các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin về vụ việc[6]. Tuy nhiên tại Việt Nam, trên thực tế đã có không ít trường hợp báo chí đăng các bài viết kèm hình ảnh về người bị buộc tội dưới 18 tuổi. Thậm chí, nội dung bài viết, hình ảnh đăng kèm lại được cung cấp bởi chính các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng[7]. Việc này đã vi phạm quyền riêng tư - quyền con người được ghi nhận và bảo đảm trong tố tụng, đặc biệt với người dưới 18 tuổi là đối tượng dễ bị tổn thương. Vì vậy, bảo đảm giữ bí mật cá nhân cho người dưới 18 tuổi cần được nhấn mạnh là một nguyên tắc áp dụng trong suốt quá trình tố tụng và các thông tin dẫn đến nhận dạng người dưới 18 tuổi là không được phép công bố. Bổ sung này đồng thời thể hiện pháp luật Việt Nam tôn trọng các chuẩn mực quốc tế trong việc bảo đảm quyền riêng tư của người chưa thành niên trong tất cả các giai đoạn tố tụng, tránh những tổn hại gây ra do sự công khai hoá quá mức về người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi.
Như vậy, chúng tôi đề xuất bổ sung vào Điều 414 Bộ luật TTHS năm 2015 khoản 1a và bổ sung nội dung vào khoản 2 như sau:
Điều 414. Nguyên tắc tiến hành tố tụng
1a. Bảo đảm người dưới 18 tuổi có quyền bình đẳng với người đủ 18 tuổi về mọi quyền tố tụng
1.
2. Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi trong mọi giai đoạn của quá trình tố tụng. Không được công bố những thông tin có thể dẫn đến việc nhận dạng người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi.
3…. 
2. Quy định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế bảo đảm quyền được bảo vệ khỏi bị bắt, giam giữ tuỳ tiện
Bộ luật TTHS năm 2003 khi quy định về việc bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi đã đưa ra các điều kiện đặc biệt, khác với các đối tượng đủ 18 tuổi về loại tội và hình thức lỗi. Ngoài ra còn quy định về việc phải thông báo ngay cho gia đình, người đại diện hợp pháp khi bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi. Quy định này phần nào thể hiện thái độ của Nhà nước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, các quy định này đặt trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay đã không còn phù hợp do chưa thể hiện được sự tương thích cần thiết với nội dung các Điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. Vì vậy, Bộ luật TTHS năm 2015 đã có nhiều thay đổi trong quy định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
Thứ nhất, nguyên tắc chung xuyên suốt khi quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp ngăn chặn thể hiện tại Khoản 1 Điều 419 Bộ luật TTHS năm 2015 là: “Chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết. Chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả”.
Nội dung này lần đầu tiên được luật hoá trong Bộ luật TTHS, phù hợp với khuyến nghị trong các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người ghi nhận tại Điều 37 Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 như sau: “Việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em phải được tiến hành phù hợp với pháp luật và chỉ coi là biện pháp cuối cùng và áp dụng trong thời hạn thích hợp ngắn nhất”. 
Thứ hai, rút ngắn thời hạn tạm giam và kịp thời huỷ bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi không còn cần thiết, cụ thể: thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại Bộ luật TTHS. Quy định này nhằm đẩy nhanh quá trình giải quyết vụ án, tránh những hậu quả tiêu cực do người bị buộc tội dưới 18 tuổi bị tách khỏi môi trường gia đình, gián đoạn việc học hành cũng như nguy cơ tái phạm do ảnh hưởng xấu bởi phải tiếp xúc với những người bị giam, giữ khác.
Thứ ba, xác định rõ điều kiện áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam. Cụ thể: căn cứ áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam vẫn quy định trên nguyên tắc phù hợp với BLHS về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Đó là trường hợp: người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam về tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 12 của BLHS nếu có căn cứ quy định tại các điều 110, 111 và 112, các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 của Bộ luật TTHS.
Việc áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng nếu có căn cứ quy định tại các điều 110, 111 và 112, các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 của Bộ luật TTHS (không thay đổi so với Bộ luật TTHS năm 2003).
Mặc dù, Bộ luật TTHS năm 2015 đưa ra nguyên tắc hạn chế tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi nhằm bảo vệ tối đa nhóm đối tượng này, nhưng để bảo đảm giải quyết được vụ án hình sự, Khoản 4 Điều 419 Bộ luật TTHS quy định: Đối với bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm thì có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. Như vậy, nếu so với Bộ luật TTHS năm 2003 thì quy định này mở rộng phạm vi được áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Việc mở rộng này không trái với nguyên tắc đã định ra tại khoản 2 Điều 419 và dưới góc độ phòng chống tội phạm, quy định này bảo đảm giải quyết được vụ án, từ đó áp dụng các biện pháp chế tài phù hợp, giáo dục người phạm tội dưới 18 tuổi thành người có ích cho xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thay đổi tích cực nêu trên, trong quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn có những thay đổi chưa phù hợp, chưa thật sự bảo đảm quyền lợi cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi. Đó là quy định về việc thông báo cho người đại diện của người bị buộc tội khi áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam.
Trong Bộ luật TTHS năm 2003, việc thông báo được tiến hành “ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam” đối với người dưới 18 tuổi (Điều 303). Quy định này phù hợp với các quy định tại phần chung của Bộ luật TTHS năm 2003 (Điều 85, 88) đồng thời phù hợp với các khuyến nghị quốc tế. Cụ thể, mục 10.1 Các quy tắc Bắc Kinh quy định: “Trong những trường hợp bắt giam người chưa thành niên, cha mẹ hay người giám hộ người chưa thành niên đó phải được thông báo ngay về sự bắt giữ đó. Trong những trường hợp không thể thông báo ngay thì cha mẹ hay người giám hộ người chưa thành niên đó phải được thông báo trong thời gian sớm nhất có thể sau khi bắt giữ”[8].
Tuy nhiên, Khoản 5 Điều 419 Bộ luật TTHS năm 2015 lại quy định việc thông báo cho người đại diện của người bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam là người dưới 18 tuổi thực hiện “trong thời hạn 24 giờ” thay vì “thông báo ngay” như quy định trong Bộ luật TTHS năm 2003. Trong khi nếu các biện pháp ngăn chặn này được áp dụng đối với người đủ 18 tuổi thì theo quy định tại Điều 116, Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015, cơ quan áp dụng vẫn phải “thông báo ngay”.
Như vậy, việc tiến hành thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội dưới 18 tuổi bị áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định tại Khoản 5 Điều 419 được tiến hành không sớm hơn so với thủ tục chung. Quy định này chưa được bảo đảm với chính các nguyên tắc tố tụng đã đặt ra trong Điều 414 Bộ luật TTHS năm 2015.
Vì vậy, chúng tôi đề xuất sửa Khoản 5 Điều 420: “Ngay sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, người ra lệnh giữ, lệnh hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi phải thông báo cho người đại diện của họ biết”.
3. Quy định về thủ tục tiến hành một số hoạt động điều tra, xét xử, bào chữa bảo đảm quyền về xét xử công bằng trong tố tụng hình sự của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Trong Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hiệp quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên (Các quy tắc Bắc Kinh) quy định: “Các thủ tục tố tụng phải nhằm bảo đảm những lợi ích cao nhất của người chưa thành niên và được tiến hành trong bầu không khí hiểu biết, cho phép người chưa thành niên được tham gia và tự do bày tỏ ý kiến[9]. Đáp ứng các chuẩn mực quốc tế, Bộ luật TTHS năm 2015 có những thay đổi cơ bản về thủ tục tố tụng bảo đảm quyền của người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
* Về sự có mặt của đại diện gia đình
Thay đổi lớn trong Bộ luật TTHS năm 2015 là sự có mặt bắt buộc của người bào chữa hoặc người đại diện khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung người bị buộc tội dưới 18 tuổi. Bộ luật TTHS năm 2003 chỉ bắt buộc phải có mặt đại diện gia đình khi lấy lời khai, hỏi cung người bị tạm giữ, bị can đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong trường hợp cần thiết khác. Khoản 1, 2 Điều 421 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: Khi lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo trước thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung cho người bào chữa, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can phải có mặt người bào chữa hoặc người đại diện của họ.
Thay đổi lớn tiếp theo là sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa, người đại diện có thể hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can là người dưới 18 tuổi. Ngoài giữ nguyên quyền được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can khi được Điều tra viên, Kiểm sát viên đồng ý, việc bổ sung quyền này cho người bào chữa, người đại diện bảo đảm sự tiếp xúc và trao đổi trực tiếp để hỗ trợ về tâm lý cũng như nắm bắt được đúng ý kiến hoặc nhu cầu hợp pháp của đối tượng, từ đó đưa ra yêu cầu, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền. Bởi lẽ cùng một nội dung cần phải lấy thông tin nhưng khi trình bày, người dưới 18 tuổi có thể khai nội dung với cán bộ đang lấy lời khai khác với nội dung họ trình bày với người bào chữa hay đại diện của họ. Quy định mới bổ sung này sẽ góp phần hạn chế oan, sai trong giải quyết các vụ án có người bị buộc tội dưới 18.
Đặc biệt, Bộ luật TTHS năm 2015 giới hạn thời gian hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi không quá hai lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ, trừ trường hợp: Phạm tội có tổ chức; Để truy bắt người phạm tội khác đang bỏ trốn; Ngăn chặn người khác phạm tội; Để truy tìm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc vật chứng khác của vụ án; Vụ án có nhiều tình tiết phức tạp. Quy định này nhằm bảo đảm sức khoẻ, phù hợp với thể trạng và tâm lý lứa tuổi của người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
* Về bảo đảm thực hiện quyền bào chữa cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Bộ luật TTHS năm 2015 giữ nguyên quy định cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa trong trường hợp nếu người bị buộc tội dưới 18 tuổi, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa cho họ (Điều 76 và Điều 421). Đồng thời quy định bắt buộc phải có người bào chữa, người đại diện, người bảo vệ quyền lợi khi tham gia tố tụng để bảo đảm tính minh bạch, tạo tâm lý an tâm cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, các quy định hiện nay liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi có những nội dung chưa thật sự phù hợp với nguyên tắc mà Bộ luật TTHS đã ghi nhận tại khoản 4 Điều 414. Có thể diễn giải sự thiếu phù hợp này như sau:
 Thứ nhất, khoản 1 Điều 77 Bộ luật TTHS quy định: “Những người sau đây có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa: Người bị buộc tội; Người đại diện của người bị buộc tội; Người thân thích của người bị buộc tội. Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật TTHS”. Như vậy có thể hiểu, khi người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi, người thân thích của người bị buộc tội dưới 18 tuổi từ chối hoặc thay đổi người bào chữa không cần có sự đồng ý của người bị buộc tội.
Thứ hai, khoản 3 Điều 77 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: Trường hợp từ chối người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập biên bản về việc từ chối người bào chữa của người bị buộc tội hoặc người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 Bộ luật TTHS và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.
Với hai nội dung trên, có thể hiểu việc bào chữa chỉ định chấm dứt khi chỉ cần có việc từ chối của một trong hai chủ thể: người bị buộc tội dưới 18 tuổi hoặc người đại diện, người thân thích của họ. Trong khi có nghiên cứu chỉ ra rằng, không phải mọi trường hợp người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội dưới 18 tuổi đều bảo vệ lợi ích cho người bị buộc tội[10]. Vì vậy, việc chấm dứt bào chữa chỉ định trong trường hợp chỉ cần người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội dưới 18 tuổi yêu cầu chấm dứt là không thực sự bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
Thứ ba, khoản 2 Điều 291 quy định: Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật TTHS mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Như vậy việc xét xử vắng mặt người bào chữa có thể sẽ không cần sự đồng ý của bị cáo dưới 18 tuổi mà chỉ cần sự đồng ý của người đại diện của bị cáo. Cũng như hai quy định trên, quy định này không bảo đảm quyền được có luật sư bào chữa - một trong những quyền con người cơ bản của người bị buộc tội nói chung, người bị buộc tội dưới 18 tuổi nói riêng ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người. 
Như đã phân tích ở trên, quyền của người bào chữa, người đại diện không làm mất đi quyền năng pháp lý của người bị buộc tội dưới 18 tuổi, việc quy định các chủ thể này tham gia tố tụng chỉ có tính chất “bổ sung, hỗ trợ”, chứ không phải “thay thế” quyền của người bị buộc tội. Vì vậy, theo chúng tôi, để bảo đảm quyền của người bị buộc tội dưới 18 tuổi, pháp luật cần tôn trọng ý kiến cá nhân (có tính độc lập) của họ và vì vậy, trong các trường hợp từ chối, thay đổi người bào chữa hoặc quyết định đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội dưới 18 tuổi. Nếu chỉ có sự đồng ý của người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi thì việc thay đổi, từ chối hay đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa sẽ không được chấp nhận. Vấn đề này đã từng được hướng dẫn và thực thi trong thời gian Bộ luật TTHS năm 2003 có hiệu lực pháp luật do có cách hiểu không thống nhất về việc từ chối người bào chữa cần có ý kiến đồng ý của cả người bị buộc tội dưới 18 tuổi và người đại diện của họ hay chỉ cần một trong hai[11].
“Bảo đảm lợi ích tốt nhất” và “Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến” của người dưới 18 tuổi là các nguyên tắc được ghi nhận trong Điều 414 Bộ luật TTHS năm 2015. Các quy định khác trong Bộ luật TTHS đều được xây dựng trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc này. Vì vậy, chúng tôi đề xuất sửa đổi các quy định tại Điều 77 và Điều 291 như sau:
   Điều 77 Khoản 1: Bỏ đoạn “trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này” và giữ nguyên nội dung “Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án.”
  Điều 77 Khoản 3: thay từ “hoặc” bằng từ “và”
“Trường hợp từ chối người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập biên bản về việc từ chối người bào chữa của người bị buộc tội người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.”
Điều 291 Khoản 2: thay từ “hoặc” bằng từ “và”
“Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo và người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa”./.
 
 

 


[1] Nguyễn Văn Tuân (2010), Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là quốc gia thành viên và vấn đề nội luật hoá, Tạp chí Luật học, (5), tr.44.
[2] Nguyễn Hoà Bình (chủ biên), (2016), Bảo đảm quyền con người, quyền công dân - tư tưởng xuyên suốt trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trong: “Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,   Nxb Chính trị Quốc gia, tr.40.
[3] Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 20.
[4] Nguyễn Xuân Hà (2016), Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, trong: “Những nội dung mới trong Bộ luật TTHS năm 2015, (Nguyễn Hoà Bình chủ biên), Nxb. Chính trị Quốc gia, tr.352.
[5] Nguyễn Văn Huyên, Lê Lan Chi (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2015, Nxb. Lao động, tr. 240.
[6] Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu quyền con người và quyền công dân (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Lao động - Xã hội, tr. 768.
[8] Xem các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hiệp quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên, 1985 (Các quy tắc Bắc Kinh) được thông qua theo Nghị quyết 40/33 ngày 29/11/1985 của Đại hội đồng Liên hiệp quốc.
[9] Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu quyền con người và quyền công dân (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Lao động - Xã hội, tr. 774.
[10] Nguyễn Hải Ninh (2009), Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên, Tạp chí Luật học (11), trg 42.
[11] Xem Mục II. Về việc bào chữa của bị can, bị cáo, Nghị quyết số 03/2004/NQ- HĐTP TANDTC ngày 02/10/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật TTHS năm 2003. 

 

(Nguồn tin: bài viết đăng trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 08(384)-2019)