Chuyển nhượng cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014: một số bất cập và kiến nghị

24/09/2019

ThS.LÊ NHẬT BẢO

Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.

Tóm tắt: Vấn đề chuyển nhượng cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 đang tồn tại một số bất cập. Tuy nhiên các bất cập này chưa được giải quyết thấu đáo trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp. Do đó, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định có liên quan nhằm hoàn thiện pháp luật ở lĩnh vực này.
Từ khoá: Luật Doanh nghiệp, cổ phần, chuyển nhượng cổ phần.

Abstract: The mechanism for share transactions under the Law on Enterprises of 2014 has revealed a numnber of shortcomings. However, these shortcomings have not been thoroughly addressed in the Bill of Law with amendments of a number of articles of the Law on Investment and the Law on Enterprises. Therefore, it is necessary to review for further improvements of the relevant regulations on this area.

Keywords: The Law on Enterprise, shares, share transactions.

 1_7.jpg
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Chuyển nhượng cổ phần
Theo nghĩa phổ thông, “chuyển nhượng” là chuyển quyền sở hữu[1]. Từ đây có thể suy ra chuyển nhượng tài sản chuyển quyền sở hữu tài sản. Nói cách khác, chuyển nhượng tài sản là hành vi làm thay đổi quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Theo cách hiểu như vậy, “chuyển nhượng” có thể được thực hiện thông qua các loại giao dịch khác nhau như mua bán, tặng cho, trả nợ, để lại thừa kế hoặc góp vốn vào doanh nghiệp…
Tuy nhiên, trong pháp luật nước ta, khái niệm “chuyển nhượng” đang được hiểu không thống nhất. Chẳng hạn trong pháp luật về chứng khoán, giao dịch mua bán và chuyển nhượng cổ phần đều được quy về loại giao dịch mua bán chứng khoán, các giao dịch này được gọi là mua bán cổ phiếu nói riêng và mua bán chứng khoán nói chung. Pháp luật chứng khoán xem chuyển nhượng cổ phần là quan hệ mua bán cổ phần. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp năm 2014 (LDN 2014) có cách tiếp cận khác với pháp luật chứng khoán. Theo đó, chuyển quyền sở hữu cổ phần trong LDN 2014, có thể phân loại thành hai nhóm chế định khác nhau. Cụ thể:
-  Cổ đông chuyển quyền sở hữu cổ phần của mình cho người khác, nhóm các giao dịch này được quy định tại Điều 126 LDN 2014 với tên gọi là “chuyển nhượng cổ phần”. Quan hệ pháp luật này được thực hiện giữa bên chuyển nhượng là cổ đông công ty và người nhận chuyển nhượng, bản thân công ty cổ phần không phải là một bên trong giao dịch chuyển nhượng cổ phần. Hệ quả của việc chuyển nhượng cổ phần là làm thay đổi chủ sở hữu đối với cổ phần được chuyển nhượng, nhưng không làm thay đổi vốn điều lệ và tài sản của công ty cổ phần.
- Giao dịch chuyển quyền sở hữu cổ phần giữa công ty với nhà đầu tư. Đó là giao dịch giữa công ty với tổ chức, cá nhân mua cổ phần khi công ty chào bán cổ phần được quyền chào bán thông qua các quy định về chào bán cổ phần (Điều 122 LDN 2014), hoặc giao dịch giữa công ty với cổ đông khi cổ đông đề nghị công ty mua lại cổ phần của mình (Điều 129 LDN 2014), công ty mua lại cổ phần của cổ đông theo quyết định của mình (Điều 130 LDN 2014). Hệ quả là làm thay đổi vốn điều lệ và tài sản của công ty cổ phần (tùy từng trường hợp mà tăng lên hoặc giảm xuống). Điểm chung của các giao dịch này là, công ty cổ phần hiện diện với tư cách là một bên trong quan hệ pháp luật, LDN 2014 gọi những giao dịch như vậy bằng từ “mua” hoặc “bán” cổ phần.
Cách tiếp cận như trên cũng diễn ra tương tự trong mô hình công ty TNHH hai thành viên trở lên thông qua các quy định về chuyển nhượng phần vốn góp (Điều 53 LDN 2014), mua lại phần vốn góp (Điều 52 LDN 2014)… Giải thích cho lý do LDN 2014 thiết kế 2 điều 52, 53,  có quan điểm cho rằng, “khi cổ phần của công ty đã được bán cho cổ đông, thì việc cổ đông chuyển quyền sở hữu cổ phần đó cho người khác sẽ không còn được gọi là “bán” mà được gọi là “chuyển nhượng” cổ phần”[2]. Theo quan điểm này, quan hệ mua bán cổ phần là quan hệ mà một trong các bên chính là công ty có cổ phần mua bán, còn chuyển nhượng cổ phần là giao dịch giữa cổ đông với các cá nhân, tổ chức khác không phải là công ty. Tuy nhiên, mặc dù hoạt động chuyển nhượng cổ phần giữa cổ đông công ty với người khác thông qua việc mua bán cổ phần không được LDN 2014 minh thị rõ ràng bằng cụm từ “mua bán cổ phần”, nhưng xét về bản chất, đây cũng là một loại quan hệ mua bán. Nghĩa là hoạt động “chuyển nhượng cổ phần” bao hàm trong nó nhiều loại giao dịch khác nhau, và mua bán cổ phần là một trong số đó. Cho nên, hiện nay, khi nói đến “mua bán cổ phần” cần phải đặt trong ngữ cảnh cụ thể để xác định chủ thể của quan hệ này có công ty cổ phần tham gia hay không.
Xét các quy định về chuyển nhượng cổ phần tại Điều 126 LDN 2014, có thể phân thành hai nhóm:
- Nhóm quy phạm chung của hoạt động chuyển nhượng, đó là toàn bộ nội dung tại khoản 1 (về điều kiện chuyển nhượng cổ phần), một phần nội dung của khoản 2 (về hình thức chuyển nhượng cổ phần), khoản 6 (xử lý trường hợp cổ phiếu cũ bị huỷ bỏ) và khoản 7 (thời điểm xác lập tư cách cổ đông).
- Nhóm các quy phạm còn lại trong Điều 126 LDN 2014 quy định về các hình thức chuyển nhượng cụ thể, các hình thức chuyển nhượng này chịu sự chi phối bởi các quy định ở nhóm một. Tuy nhiên, vì các nhóm quy định này lại được tách thành các điều khoản khác nhau nên tạo nên sự mâu thuẫn trong chuyển nhượng cổ phần. Chẳng hạn, khoản 3 Điều 126 LDN 2014 quy định, “trường hợp cổ đông là cá nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của cổ đông đó là cổ đông của công ty”. Quy định này có thể hiểu, từ thời điểm cổ đông chết thì quyền sở hữu cổ phần đương nhiên thuộc về người thừa kế mà không có ngoại lệ. Đặt trường hợp cổ đông sáng lập chết và công ty cổ phần vẫn đang trong thời hạn 3 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, nếu người thừa kế không phải là cổ đông sáng lập của công ty đó thì họ có đương nhiên trở thành cổ đông hay cần phải được thông qua Đại hội đồng cổ đông như quy định tại khoản 1 Điều 126 LDN 2014 (dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 119 LDN 2014)?
Chúng tôi cho rằng, Điều 126 LDN 2014 cần được thiết kế lại theo sự phân chia rõ ràng như trên. Chẳng hạn, khoản 1 Điều luật này nên sửa lại với tên gọi là “quy định chung về chuyển nhượng cổ phần”, khoản 2 Điều luật này sửa lại thành “các hình thức chuyển nhượng cổ phần”, trong đó khoản 2 Điều 126 LDN 2014 cần minh thị cụ thể “quyền mua bán cổ phần” để khẳng định bản chất pháp lý của hoạt động chuyển nhượng này, cũng nhằm đảm tính thống nhất trong cách hiểu và áp dụng của pháp luật doanh nghiệp.
2. Các trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần
2.1 Đối với cổ phần ưu đãi
Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại được LDN 2014 khẳng định có các quyền như cổ đông phổ thông, trừ các trường hợp hạn chế[3]. Theo khoản 1 Điều 114 LDN 2014 về quyền của cổ đông phổ thông, cổ đông có quyền “tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật này”. Theo quy định của khoản 1 Điều 126 LDN 2014, nếu “trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng”. Các quy định trên cho thấy, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại có thể tự do chuyển nhượng cổ phần này cho người khác, còn nếu công ty cổ phần có hạn chế chuyển nhượng loại cổ phần này thì phải đáp ứng đủ hai điều kiện: (i) sự hạn chế chuyển nhượng phải được quy định trong Điều lệ công ty, và (ii) những hạn chế đó phải được “nêu rõ” trên cổ phiếu của cổ phần tương ứng. Do đó, nếu công ty đã có hạn chế chuyển nhượng nhưng không được “nêu rõ” trên cổ phiếu thì không có giá trị hạn chế chuyển nhượng (chẳng hạn như cổ phiếu tồn tại dưới hình thức dữ liệu điện tử, bút toán ghi sổ…).
Theo quy định của khoản 4 Điều 113 LDN 2014, “người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết định”. Có thể hiểu rằng, nếu công ty đặt ra tiêu chuẩn về “người được quyền mua cổ phần ưu đãi” thì đây là một trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần ưu đãi. Những tiêu chuẩn như vậy chỉ có hiệu lực nếu thoả mãn các điều kiện tại khoản 1 Điều 126 LDN 2014 - phải “nêu rõ” trên cổ phiếu. Tuy nhiên, bên cạnh Điều lệ công ty, khoản 4 Điều 113 LDN 2014 quy định: Đại hội đồng cổ đông cũng có thể đặt ra những hạn chế về người mua cổ phần ưu đãi. Quy định này đặt ra câu hỏi sau đây: (i) Nếu những hạn chế về người mua cổ phần ưu đãi theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông không có trong Điều lệ công ty và không được “nêu rõ” trên cổ phiếu ưu đãi thì quyết định này có hiệu lực hay không? (ii) Đại hội đồng cổ đông có quyền đặt ra các tiêu chuẩn về người mua cổ phần ưu đãi khi mà các bên hoàn tất việc mua bán hay không? Sự không rõ ràng này có thể bị lợi dụng làm ảnh hưởng tiêu cực đến quyền được tự do chuyển nhượng cổ phần ưu đãi.
Khi nhà đầu tư quyết định mua cổ phần ưu đãi, họ có quyền được biết tất cả những thông tin liên quan đến loại hàng hoá mà họ dự định đầu tư, những triển vọng cũng như khả năng rút lui thông qua cách chuyển nhượng. Chính những thông tin này góp phần giúp họ cân nhắc việc có nên mua cổ phần ưu đãi hay không, đặc biệt là đối với những trường hợp thu hẹp khả năng chuyển nhượng. Bởi vậy, nhà đầu tư có quyền được biết trước, khả năng tiên liệu trước những điều kiện về người mua cổ phần ưu đãi. Để đáp ứng quyền này, công ty cổ phần phải minh bạch, công khai nội dung quyết định hạn chế chuyển nhượng cổ phần ưu đãi cho nhà đầu tư, điều này cũng góp phần thể hiện nguyên tắc thiện chí trong các giao dịch dân sự nói chung. Từ góc độ công ty cổ phần, nếu công ty xét thấy cần hạn chế người mua cổ phần ưu đãi, có thể thông qua quyền sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty (điểm d khoản 2 Điều 135 LDN 2014) của Đại hội đồng cổ đông để đưa các nội dung này vào, nhằm đảm bảo tương thích với quy định tại khoản 1 Điều 126 LDN 2014. Do đó, chúng tôi đề xuất bỏ cụm từ “hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết định” tại khoản 4 Điều 113 LDN 2014.
2.2 Hạn chế chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập
Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp, và lượng cổ phần này bị hạn chế chuyển nhượng trong ba năm đầu theo quy định tại khoản 3 Điều 119 LDN 2014: “trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó”. Quy định về tỷ lệ cổ phần phổ thông tối thiểu mà cổ đông sáng lập phải nắm giữ và quy định hạn chế khả năng chuyển nhượng các cổ phần này trong ba năm đầu là nhằm đảm bảo sự gắn kết các cổ đông sáng lập về mặt tài sản và trách nhiệm với công ty trong thời gian “khởi sự” của công ty[4].
Tuy nhiên, LDN 2014 có quy định về các trường hợp ngoại lệ tại khoản 4 Điều 119, đó là đối với: (i) cổ phần mà cổ đông sáng lập có thêm sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, và (ii) cổ phần mà cổ đông sáng lập chuyển nhượng cho người khác không phải là cổ đông sáng lập của công ty. Trong đó, “cổ phần mà cổ đông sáng lập có thêm sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp” có thể đến từ nhiều nguồn. Chẳng hạn, cổ đông sáng lập nhận chuyển nhượng cổ phần từ cổ đông khác, hoặc cổ đông sáng lập mua thêm cổ phần khi công ty chào bán cổ phần được quyền chào bán trong quá trình hoạt động. Vấn đề đặt ra là, các cổ đông sáng lập có thể sử dụng ngoại lệ này để vô hiệu hoá quy định về hạn chế chuyển nhượng tại khoản 3 Điều 119 LDN 2014.
Ví dụ, Công ty cổ phần A có 4 cổ đông phổ thông là A1, A2, A3 và A4 (trong đó, A1, A2, A3 là các cổ đông sáng lập). Với quy định tại khoản 3 Điều 119 LDN 2014 thì trong ba năm đầu khởi sự, A1 có thể tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho các cổ đông sáng lập còn lại, nhưng nếu A1 muốn chuyển nhượng cổ phần cho A4 hoặc người khác thì phải được Đại hội đồng cổ đông đồng ý. Để “lách” quy định này, A1 có thể chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình sang A2, lượng cổ phần mà A2 nhận chuyển nhượng từ A1 là số cổ phần mà A2 “có thêm sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp”. Do đó, theo khoản 4 Điều 119 LDN 2014 thì A2 có thể tự do chuyển nhượng cho A4 hoặc người khác theo thoả thuận ngầm với A1. Lúc đó, tổng lượng cổ phần mà các cổ đông sáng lập nắm giữ có thể thấp hơn so với lúc đăng ký công ty.
Bên cạnh trường hợp trên, việc cho phép cổ đông sáng lập có thể chuyển nhượng cổ phần phổ thông cho người không phải là cổ đông sáng lập khi được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận có thể dẫn đến hệ quả là lượng cổ phần phổ thông mà các cổ đông sáng lập nắm giữ thấp hơn 20% so với lúc đăng ký thành lập doanh nghiệp. Khi đó, ý nghĩa của quy định tại khoản 2 Điều 119 LDN 2014 trong việc gắn kết các cổ đông sáng lập với công ty không còn. Do đó, để khắc phục bất cập này, chúng tôi đề nghị bổ sung quy định về yêu cầu các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông trong 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
2.3 Hạn chế chuyển nhượng cổ phần của doanh nghiệp xã hội
Hiện nay, doanh nghiệp xã hội (DNXH) là một trong các đối tượng chịu sự điều chỉnh của LDN 2014, có thể tồn tại dưới cả 04 hình thức pháp lý doanh nghiệp là doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần[5]. Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp (Nghị định số 96/2015/NĐ-CP) thì “chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên và cổ đông doanh nghiệp xã hội chỉ được chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần của mình cho tổ chức, cá nhân khác nếu họ có cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường”. Yêu cầu phải có “cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường” có thể hiểu là điều kiện để được chuyển nhượng cổ phần/phần vốn góp. Quy định này nhằm đảm bảo rằng nhà đầu tư trước khi mua cổ phần có thể biết và hiểu rõ về những đặc thù của DNXH, bởi những đặc thù này có thể thu hẹp quyền lợi của cổ đông. Xoay quanh quy định này của Nghị định số 96/2015/NĐ-CP, chúng tôi thấy có một số vấn đề sau:
Khoản 4 Điều 10 LDN 2014 trao quyền cho Chính phủ trong việc quy định chi tiết Điều 10, tức là các nội dung về tiêu chí nhận diện DNXH, quyền và nghĩa vụ của DNXH, ưu đãi, hỗ trợ cho DNXH. Còn vấn đề chuyển nhượng cổ phần thì LDN 2014 không có quy định đặc thù dành riêng cho DNXH, cho nên việc mua bán cổ phần của DNXH vẫn phải theo quy chế pháp lý của mô hình công ty cổ phần. Việc Nghị định số 96/2015/NĐ-CP đặt ra điều kiện phải có “cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường”là vượt quá sự phân quyền mà LDN 2014 cho phép. Hơn nữa, nếu cổ phiếu của DNXH không có nội dung về việc người mua phải có “cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường” thì liệu rằng nhà đầu tư có bắt buộc phải làm cam kết này hay không, khi mà khoản 1 Điều 126 LDN 2014 quy định những hạn chế chuyển nhượng cổ phần phải được “nêu rõ” trên cổ phiếu.
Hiện nay, nếu làm “cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường”thì chúng ta cũng đang thiếu một khoảng trống pháp lý về vấn đề này. Chẳng hạn, cam kết này làm theo hình thức nào vì không có quy định cụ thể, nên các bên có thể tự do lựa chọn hình thức cam kết, kể cả là nói miệng với nhau, và như vậy giá trị chứng minh của cam kết là rất thấp; Hay nội dung của cam kết gồm những gì? Hiện tại, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP và Thông tư số 04/2016/TT-BKHĐT có đề cập về nội dung và biểu mẫu của “Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường”, còn “cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường”thì chưa được làm rõ.
Khi trở thành cổ đông của công ty, nhà đầu tư có nghĩa vụ tuân thủ theo Điều lệ công ty (Điều 115 LDN 2014), khi những mục tiêu xã hội, môi trường của DNXH được ghi nhận trong Điều lệ công ty thì các cổ đông DNXH có trách nhiệm thực hiện theo mục tiêu mà DNXH đó theo đuổi. Do đó, chúng tôi kiến nghị bỏ quy định yêu cầu tổ chức, cá nhân mua cổ phần của DNXH phải làm “cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường” như Nghị định số 96/2015/NĐ-CP đã quy định, thay vào đó, LDN 2014 cần yêu cầu DNXH phải nêu rõ mục tiêu hoạt động của mình trong Điều lệ công ty.
3. Thời điểm xác lập tư cách cổ đông trong trường hợp cổ đông là cá nhân chết
Về thời điểm xác lập tư cách cổ đông trong các trường hợp chuyển nhượng cổ phần, theo khoản 7 Điều 126 LDN 2014: “Người nhận cổ phần trong các trường hợp quy định tại Điều này chỉ trở thành cổ đông công ty từ thời điểm các thông tin của họ quy định tại khoản 2 Điều 121 của Luật này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông”. Thời điểm thông tin của người nhận chuyển nhượng được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông là thời điểm làm phát sinh tư cách cổ đông cho người nhận chuyển nhượng.
Trong khi đó, theo quy định của khoản 3 Điều 126 LDN 2014, “trường hợp cổ đông là cá nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của cổ đông đó là cổ đông của công ty”, người thừa kế đương nhiên trở thành cổ đông của công ty từ khi cổ đông là cá nhân chết. Tuy nhiên, quy định này lại mâu thuẫn với khoản 7 Điều 126 LDN 2014, bởi theo quy định của khoản 7 Điều 126 LDN 2014, thời điểm thông tin của người thừa kế được ghi nhận đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông thì họ mới có tư cách cổ đông. Nếu phải đợi đến khi thông tin của người thừa kế được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông thì tồn tại một khoảng thời gian nhất định mà người thừa kế chưa trở thành cổ đông công ty, khi này, quyền và nghĩa vụ của họ đối với lượng cổ phần thừa kế của mình được xử lý như thế nào thì chưa được pháp luật làm rõ. Như vậy, quy định của LDN 2014 có sự chồng chéo trong việc xác định thời điểm xác lập tư cách cổ đông công ty cổ phần của người thừa kế cổ phần.
Theo quy định của khoản 1 Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết, và theo Điều 614 của Bộ luật thì kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Do đó, kể từ khi người có tài sản chết thì di sản thừa kế được dịch chuyển sang cho người thừa kế, và người thừa kế tiếp tục kế thừa các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản nhận được. Dựa theo tinh thần này, chúng tôi kiến nghị ghi nhận khoản 3 Điều 126 LDN 2014 như là một trường hợp ngoại lệ của Khoản 7 Điều 126 LDN 2014, qua đó nhằm nhanh chóng xác lập tư cách cổ đông cho người thừa kế và cũng là cách để có người kế thừa quyền, nghĩa vụ cho số cổ phần thừa kế./.
 

 


[1] Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb. Đà Nẵng, tr. 188.
[2] Trương Thanh Đức, Luận giải về Luật Doanh nghiệp 2014: 36 kế sách pháp lý của doanh nghiệp, Nxb. Sự thật, 2017, tr. 237.
[3] Điểm c, khoản 2 Điều 117, khoản 2 Điều 118 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
[4] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, Bùi Xuân Hải (Chủ biên), Nxb. Hồng Đức, 2016,  tr. 250.
[5]Lê Nhật Bảo, Bản chất của doanh nghiệp xã hội và cách phân loại pháp nhân theo Bộ luật Dân sự 2015, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 8 (120), 2018, tr. 63.

 

(Nguồn tin: bài viết đăng trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 11(387)-2019)