Lựa chọn, triển khai các giải pháp phát triển kinh tế và xã hội năm 2005

01/12/2004

Đặng Văn Thanh, PGS.TS, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách Quốc Hội

Kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội năm 2004
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước; sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành; tinh thần vượt qua khó khăn, lao động sáng tạo của toàn dân, của doanh nghiệp và doanh nhân trong cả nước, đến nay, theo đánh giá ban đầu của Quốc hội, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2004 sẽ hoàn thành về cơ bản (Xem hộp 1).  Đó là kết quả đầu tư của nhiều năm đã làm tăng đáng kể năng lực sản xuất của các ngành kinh tế. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn không ít tồn tại và yếu kém, đó là chất lượng tăng trưởng, là sự biến động của thị trường, sự tăng giá liên tục, trên diện rộng, là tình trạng tiêu cực trong đời sống kinh tế xã hội và những vấn đề bức xúc trong quản lý, trong điều hành nền kinh tế.
Mục tiêu tăng tr-ởng kinh tế – xã hội năm 2005
Nhiệm vụ đặt ra cho năm 2005 rất nặng nề và cũng rất cụ thể. Năm 2005, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm (2001-2005), nền kinh tế Việt Nam đứng trước những thuận lợi lớn do kết quả phát triển kinh tế- xã hội 4 năm qua, do các cuộc cải cách kinh tế nhiều nước sau thời kỳ khủng hoảng kinh tế đã đem lại kết quả tích cực cho phát triển kinh tế thế giới. Xu hướng liên kết kinh tế-xã hội khu vực và song phương có sự điều chỉnh đáng kể đang diễn ra nhanh có tác động đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, tình hình chính trị thế giới còn diễn biến phức tạp, khó lường, giá dầu mỏ thế giới đang ở mức cao và đang biến động bất thường có tác động mạnh đến giá cả hàng tiêu dùng và dịch vụ. Những thách thức của toàn cầu hóa kinh tế quốc tế đang đòi hỏi Việt Nam phải quan tâm giải quyết hàng loạt vấn đề từ tạo dựng khuôn khổ pháp lý đến nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Về mục tiêu và chỉ tiêu của kế hoạch năm 2005, phải đặt trong yêu cầu phấn đấu với mức cao nhất, đạt cho được nhiệm vụ kế hoạch 5 năm (2001-2005), vừa tăng trưởng cao, vừa đảm bảo chất lượng, hiệu quả tăng  trưởng và sự ổn định bền vững của nền kinh tế (Xem hộp 2). Muốn đạt và vượt chỉ tiêu 8,5% cần phải áp dụng các nhóm giải pháp mạnh về thị trường vốn thông qua các chính sách tài khóa, tiền tệ, tăng đầu tư, mở rộng các kênh thu hút vốn đầu tư, đẩy mạnh hoạt động dịch vụ và khai thác lợi thế kinh tế khu vực và thế giới, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, tăng xuất khẩu. Đồng thời, cần áp dụng kiên quyết, mạnh mẽ các biện pháp thực hành tiết kiệm, hạn chế thất thoát, chống tham nhũng, lãng phí tiền của, tài sản của dân của nước.
Lựa chọn và triển khai các giải pháp
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế và các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội năm 2005, cần tập trung lựa chọn và triển khai các giải pháp sau: Một là, cần khai thác và huy động tối đa mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển bằng các giải pháp cụ thể, thiết thực; đồng thời, sử dụng có hiệu quả từng nguồn vốn thúc đẩy kinh tế tăng trưởng cao, ổn định và bền vững Bốn năm qua, vốn đầu tư toàn xã hội tăng nhanh, là nhân tố quyết định nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Nhờ phát huy nội lực, năm 2004 vốn đầu tư trong nước tăng cả về số tuyệt đối và tỉ trọng. Vốn đầu tư trong nước chiếm 72% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Chính phủ đã phát hành trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục để có thêm vốn đẩy nhanh việc xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi trọng điểm, kiên cố hoá trường học. Đây là nguồn vốn quan trọng hỗ trợ cho nguồn vốn đầu tư trong cân đối ngân sách nhà nước (NSNN). Nhờ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội đã được xây dựng thêm và nâng cấp; các chương trình xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ các vùng có nhiều khó khăn đã được triển khai thực hiện rộng về diện và có hiệu quả hơn. Cơ sở vật chất và năng lực sản xuất của các ngành, các vùng và địa phương tăng thêm đáng kể. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn Nhà nước vẫn thiếu tập trung, bị co kéo quá nhiều mục tiêu, bố trí dàn trải cho nhiều dự án, công trình ngay từ chủ trương đầu tư, trong quyết định đầu tư và trong kế hoạch đầu tư vốn. Không ít công trình, dự án triển khai chậm, kéo dài, khối lượng đầu tư dở dang lớn gây lãng phí và kém hiệu quả. Thực tế cho thấy, có công trình đầu tư đã không đúng ngay từ quy hoạch và chủ trương đầu tư. Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư XDCB diễn ra ở nhiều dự án và trong các giai đoạn của quá trình đầu tư. Việc thực hiện đầu tư và giải ngân các nguồn vốn tín dụng đầu tư nhà nước, nguồn vốn ODA, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục đều chậm, không đảm bảo tiến độ như đã phê duyệt và cam kết, tồn đọng vốn, làm giảm hiệu quả đầu tư. Tình trạng đầu tư trên đã ảnh hưởng  đến chất lượng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế. Mức chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất và giá trị gia tăng còn lớn, vừa do cơ cấu đầu tư có phần chưa hợp lý, quyết định đầu tư chưa sát, vừa do tình trạng thất thoát, lãng phí khá nghiêm trọng. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp. Đầu tư cho một chỗ việc làm mới cao hơn so với hiệu quả mang lại. Cần có sự đánh giá và xử lý hợp lý mối quan hệ giữa nguồn lực trong nước và ngoài nước. Khai thác và sử dụng tốt hơn các nguồn lực trong nước, nhất là nguồn lực trong dân, nguồn lực từ đất đai, tài sản công. Đa dạng các phương thức để mở rộng phạm vi xã hội hóa cả trong kinh tế và xã hội áp dụng các cơ chế phù hợp, bình đẳng cho kinh tế dân doanh về mặt bằng kinh doanh, tiếp cận với các nguồn tín dụng, tiếp nhận những chính sách khuyến khích của Nhà nước, tham gia thị trường. Xóa bỏ sự phân biệt đối xử và bảo đảm quyền bình đẳng thực sự giữa các chủ thể kinh tế. Tiếp tục cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Xây dựng và ban hành Luật Khuyến khích và bảo hộ đầu tư áp dụng chung cho các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bảo đảm quyền kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở rộng phù hợp với các cam kết mở cửa thị trường theo các hiệp định thương mại song phương, trong đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Khắc phục các trở ngại trong giải ngân vốn ODA như phối hợp với các nhà đầu tư, các nhà tài trợ cải tiến thủ tục, bố trí đủ vốn đối ứng, giải phóng và bàn giao mặt bằng đúng tiến độ… Tạo lập và phát triển mạnh thị trường vốn trung hạn và dài hạn, đặc biệt là thị trường chứng khoán, hoạt động thuê mua tài chính, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu lại nợ của nền kinh tế, nợ của ngân hàng... nhằm tăng khả năng huy động và cung ứng vốn dài hạn, trung hạn cho nền kinh tế. Chủ động điều hành chính sách tài chính tiền tệ, tỷ giá và lãi suất, sử dụng có hiệu quả các công cụ nợ để huy động và điều hòa các nguồn vốn. Có cơ chế bảo đảm, tạo niềm tin cho nhân dân, cho các nhà đầu tư đối với pháp luật, sự ổn định chính sách để họ yên tâm đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Tạo môi trường thuận lợi để ngày càng nhiều tổ chức, cá nhân cùng Nhà nước đầu tư phát triển một số ngành, lĩnh vực. Có chính sách ưu đãi, cơ chế thông thoáng và ổn định trong các lĩnh vực y tế, đào tạo đại học, cao đẳng, dạy nghề, văn hoá, giải trí, giáo dục mầm non, thể dục thể thao... trước hết tại các đô thị, thành phố lớn. Thực hiện chuyển một phần vốn NSNN đang đầu tư ở đô thị, thành phố sang đầu tư cho địa bàn nông thôn, miền núi, biên giới có nhiều khó khăn, khó có điều kiện xã hội hoá. Hai là, tập trung chọn lựa và triển khai các giải pháp ổn định thị trường, kiểm soát và kiềm chế sự tăng giá hàng hóa; đồng thời, chủ động vận hành nền kinh tế phù hợp với mặt bằng giá mới đã tạo lập Thực tế cho thấy, ngay trong 4 tháng đầu năm 2004, chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch vụ đã tăng 5,4%, vượt mức cả năm theo Nghị quyết của Quốc hội (tăng không quá 5%) và đến tháng 9-2004 đã tăng 8,6%. Đó là mức tăng cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Khác với các năm trước, giá cả thường tăng trong 2-3 tháng đầu năm, sau đó giảm và giữ ổn định. Giá năm 2004, giá tăng liên tục qua các tháng và tăng ở hầu hết các mặt hàng. Giá lương thực và thực phẩm tăng cao, giá thực phẩm tăng 16,8%, lương thực tăng 12,5%. Giá nguyên liệu, vật liệu công nghiệp, vật tư nông nghiệp, dịch vụ cũng  tăng ở mức cao. Giá tăng ở diện rộng, thiết lập mặt bằng giá mới cao hơn, chưa có dấu hiệu giảm. Giá tăng cao đã ảnh hưởng đến đời sống của những người làm công ăn lương, tầng lớp lao động nghèo thành thị và nông dân, đối tượng hưởng chính sách xã hội. Đối với sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giá nguyên liệu đầu vào tăng đã tác động trực tiếp làm giảm sức cạnh tranh, làm chậm tiến độ đầu tư XDCB, tiêu tốn thêm vốn đầu tư. Cần chủ động chon lựa và áp dụng các giải pháp ổn định, kiểm soát giá cả, xử lý các ảnh hưởng của giá cả đến tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thu chi NSNN. Mấy tháng gần đây, các biện pháp kiểm soát giá độc quyền, giám sát các kênh phân phối một số hàng hoá, chính sách thắt chặt tiền tệ, neo tỉ giá, giảm thuế nhập khẩu, bù giá dầu, áp dụng giá trần cho một số mặt hàng chiến lược, điều chỉnh giá xăng, dầu, các quy định xử lý vi phạm pháp luật về giá... đã được triển khai, góp phần kiềm chế tăng giá, nhưng chưa kịp thời và kết quả còn hạn chế. Cần nhìn nhận và đánh giá đúng mức độ lạm phát, loại lạm phát và nguyên nhân của tình hình để chấp nhận và có giải pháp kịp thời và thích hợp cho những tháng cuối năm 2004 và cả năm 2005. Các giải pháp bình ổn thị trường giá cả, kiềm chế tăng giá phải đi cùng với việc phải chủ động xử lý các vấn đề kinh tế - tài chính, xử lý các mối quan hệ trên mặt bằng giá mới. Giá cả, lạm phát, tăng trưởng kinh tế và đời sống có mối quan hệ hữu cơ, nhân quả. Việc ổn định thị trường, kiểm soát giá cả phải áp dụng đồng bộ các biện pháp bằng tập trung có trọng điểm cho sản xuất, cho tăng trưởng kinh tế để điều chỉnh quan hệ cung- cầu, áp dụng linh hoạt chính sách thuế, phí, chi tiêu công quỹ trong đó có NSNN, chính sách tiền tệ, tín dụng, vấn đề lãi suất tiền gửi, tiền cho vay, tỉ giá, dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VNĐ và ngoại tệ. Thực hiện việc cơ cấu, cơ cấu lại các nguồn vốn của nền kinh tế, của ngân hàng, cơ cấu lại nợ, giảm nợ xấu và sử dụng có hiệu quả các công cụ nợ. Xem lại và duy trì mối quan hệ hợp lý giữa tăng vốn huy động và tăng dư nợ cho vay tín dụng. Để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) 8,5% hoặc hơn thế, chúng ta không thể thắt chặt tín dụng, không thể áp dụng chính sách tài khóa thắt chặt mà cần tiếp tục duy trì tăng chi tiêu của Chính phủ, tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, đồng thời với việc nâng cao hiệu quả đầu tư, xử lý linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ, đảm bảo cân đối tổng thể quan hệ tiền hàng bằng sự kiểm soát khối lượng tiền lưu thông phù hợp tốc độ tăng khối lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ. Có giải pháp mạnh giảm nợ xấu của nền kinh tế, việc sử dụng vốn tiền gửi ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn cần đảm bảo trong giới hạn, tăng cường sử dụng linh hoạt các công cụ nợ có tính thanh khoản cao. Tổ chức tốt hơn thị trường và lưu thông các mặt hàng trọng yếu, hình thành các kênh phân phối hợp lý, kiểm soát cho được tình trạng độc quyền, ngăn ngừa và xử lý nghiêm tình trạng lũng đoạn giá không để xảy ra tình trạng tăng giá thép, giá thuốc như đầu năm 2004. Kiểm soát giá cả một số mặt hàng thiết yếu đối với sản xuất, đời sống nhân dân như lương thực, một số thuốc chữa bệnh, dầu, sắt thép, xi măng... và vấn đề cực kỳ quan trọng là áp dụng kiên quyết các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng. Năm 2005 hãy là năm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí công quỹ nhà nước (chứ không chỉ NSNN), lãng phí thất thoát trong đầu tư XDCB. Kiểm soát chặt chẽ và thực hiện bằng được các chủ trương tiết kiệm 10% chi tiêu thường xuyên, tiết kiệm mua sắm, chi tiêu tài sản công trong lễ khởi công, khánh thành, tổng kết, kỷ niệm... việc cung ứng tiền cho nền kinh tế, thực hiện kiên quyết các biện pháp  kinh tế, biện pháp hành chính-kinh tế vào những thời điểm và phạm vi thích hợp cho những hàng hoá, dịch vụ thiết yếu cho sản xuất và đời sống v.v... Ba là, tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) Tổ chức lại, sắp xếp, cổ phần hóa DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm củng cố, nâng cao vai trò chủ động và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện còn rất chậm. Theo báo cáo của Bộ Tài chính và Ban Chỉ đạo đổi mới DNNN, tính chung từ năm 2001 đến 11/8/2004, cả nước có 2.068 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp hoàn thành việc sắp xếp lại. Trong đó, 7 tháng đầu năm 2004, số l-ợng DNNN hoàn thành sắp xếp, chuyển đổi sở hữu là 420 doanh nghiệp, tăng đáng kể so với cùng kỳ năm trước, nhưng so với kế hoạch năm 2004 (tính cả 700 doanh nghiệp thuộc đối tượng cổ phần hóa năm 2003 chuyển sang) thì mới đạt 29% (khối bộ, ngành đạt 17%, khối các TCT 91 đạt 31% và khối địa phương đạt 33%). Cổ phần hóa còn khép kín: cán bộ quản lý và người lao động trong doanh nghiệp nắm 54% cổ phần, Nhà nước nắm 38%; chỉ 6%-7% vốn nhà nước có tại DNNN được chuyển hoá cho các đối tượng ngoài nhà nước; vốn nhà nước được cổ phần hoá còn quá ít (6%) các doanh nghiệp cổ phần hóa có quy mô nhỏ chiếm 84%; số doanh nghiệp thuộc diện nhà nước nắm tối thiểu 51% cổ phần phát hành lần đầu chiếm 46,6%. Trong chỉ đạo, điều hành, nhận thức cũng như trong cơ chế, chính sách liên quan đến việc định giá tài sản, xử lý tài chính, giải quyết lao động dôi dư… của các doanh nghiệp được tổ chức lại, cổ phần hoá còn nhiều vướng mắc.
Để đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, cùng với việc tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương, cần đặt ra mục tiêu đến cuối năm 2005 tổ chức lại, cổ phần hóa, chuyển đổi được ít nhất 30% tổng số DNNN còn lại hiện nay và rút được khoảng 1/3 số vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước để bổ sung đủ vốn cần thiết cho một số DNNN trọng yếu và đầu tư vào một số mục đích khác có hiệu quả kinh tế cao. Sớm hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến tổ chức lại, cổ phần hóa, chuyển đổi DNNN, nhất là những vấn đề liên quan đến quy trình cổ phần hoá, đến định giá tài sản, việc đ-a giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, xác định phần vốn góp của DNNN trong liên doanh, xử lý tài chính nợ của DN, giải quyết lao động dôi dư. Sửa đổi tiêu chí phân loại để sắp xếp DNNN theo hướng mở rộng diện cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu DNNN. Sớm có văn bản hướng dẫn chế độ, chính sách đối với các chức danh quản lý và điều hành doanh nghiệp như Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) và kế toán trưởng nếu không được Nhà nước cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại DNNN cổ phần hóa. Đổi mới cơ chế quản lý đối với phần vốn nhà n-ớc trong doanh nghiệp cổ phần, đối với DNNN sau khi đã cổ phần hóa hoặc chuyển đổi để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đổi mới công nghệ, cung cách quản lý, tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển. Mở rộng đối tượng là người nước ngoài được tham gia mua cổ phần trong các DNNN. Bốn là, nâng cao chất lượng dự toán và điều hành NSNN, tăng đầu tư cho vùng kinh tế động lực và ưu tiên đầu tư phát triển cho các vùng khó khăn Theo đánh giá bước đầu, thu NSNN năm 2004 vượt dự toán và tăng so với thực hiện năm 2003 ở mức cao, tỷ lệ động viên đạt 23,5% GDP. Tỷ trọng thu nội địa đạt 55,1% tổng thu NSNN, cơ cấu nguồn thu chuyển dịch theo hướng tích cực. Dự toán thu sát thực tế sẽ là công cụ hữu hiệu đòi hỏi và thúc đẩy các ngành, các địa phương phát triển mạnh nguồn thu và khai thác triệt để nguồn thu, chủ động bố trí chi và theo đó làm tăng sự minh bạch hoá trong quản lý NSNN. Năm 2004 thu NSNN tăng, nhưng số tăng thu từ sản xuất, kinh doanh đạt thấp (nguồn thu có tính vững chắc), chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số tăng thu NSNN (19,3%), đặc biệt thu từ doanh nghiệp nhà nước (DNNN) giảm so với dự toán và so với năm 2003 chỉ tăng bằng một nửa tốc độ tăng thu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực dân doanh. Số tăng thu từ dầu thô chiếm 33,4% tổng số tăng thu và thu từ nhà, đất chiếm 29,8%. Thực trạng và nguyên nhân của thu NSNN nói trên cần được quan tâm trong điều hành kinh tế, tài chính vĩ mô. Dự toán NSNN năm 2005 được tính toán sát thực tế sẽ chủ động hơn trong bố trí chi NSNN và nâng cao tính minh bạch trong quản lý tài chính- ngân sách. Xây dựng dự toán NSNN một cách tích cực theo hướng tỷ lệ tăng thu (kể cả yếu tố tăng giá) phải lớn hơn tốc độ tăng trưởng GDP; tốc độ tăng thu phải cao hơn tốc độ tăng chi; tốc độ tăng chi đầu tư phát triển phải cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên. Vốn NSNN cho đầu tư phát triển cần được bố trí tập trung hơn, có chủ định. Chi NSNN cần bố trí trong một kế hoạch chi trung hạn. Số vượt thu phải quan tâm bố trí thêm cho đầu tư phát triển, tăng đầu tư cho vùng kinh tế động lực, ngành và lĩnh vực kinh tế quan trọng, có tiềm năng và năng lực cạnh tranh, các công trình trọng điểm; đồng thời ưu tiên tăng đầu tư cho các vùng đồng bào dân tộc có nhiều khó khăn, khu vực biên giới, tăng khả năng bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, trật tự ở mọi địa bàn trong cả nước, giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc. Năm là, tăng cường kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa và phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có khả năng tạo ra nhanh, nhiều giá trị tăng thêm, các dịch vụ cao cấp Năm 2004 kim ngạch xuất khẩu tăng cao, vượt kế hoạch năm và tăng 24% so với năm 2003. Kim ngạch xuất khẩu tăng do khối lượng hàng hóa xuất khẩu tăng trên 20% và giá xuất khẩu tăng gần 7%, trong đó giá gạo xuất khẩu tăng 27,7%, cao su tăng 34,2%, than đá tăng 12%, hạt điều tăng 10%, đặc biệt giá dầu thô tăng ở mức cao từ dưới 30 USD/thùng tăng lên 52USD/thùng v.v... Nhiều ý kiến đánh giá, hàng xuất khẩu của ta phần lớn là khoáng sản, sản phẩm nông, lâm nghiệp thô chưa qua chế biến hoặc mới ở dạng sơ chế; nhóm hàng chủ lực là dệt may, da giầy chủ yếu gia công cho nước ngoài, nên giá trị kinh tế thấp; một số mặt hàng mới đang ở mức độ thâm nhập thị trường. Kim ngạch nhập khẩu tăng cao, trong đó hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên nhiên vật liệu phục vụ chế biến hàng xuất khẩu và về cơ bản phù hợp với tốc độ phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Đáng chú ý là kim ngạch nhập khẩu mặt hàng linh kiện, phụ tùng xe gắn máy có tốc độ tăng khá cao (43,6%). Ngược lại, một số hàng hóa, vật tư cần cho phát triển kinh tế để tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế lại có kim ngạch nhập khẩu tăng không nhiều, thậm chí có mặt hàng giảm, như máy móc, thiết bị phụ tùng giảm 8%, hóa chất nguyên liệu giảm 3,8%... Nhập siêu vẫn ở mức cao, bằng 19,9% kim ngạch xuất khẩu, chủ yếu tập trung ở  các doanh nghiệp trong nước, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu. Xét ở góc độ khai thác nguồn lực bên ngoài thì nhập siêu đồng nghĩa với hạn chế khai thác nguồn lực bên ngoài cho đầu tư phát triển trong nước, do đó yêu cầu tăng xuất khẩu để giảm nhập siêu đã và đang đặt ra khá gay gắt. Cần tăng cường và nâng cao hiệu quả của các chính sách, các biện pháp hỗ trợ của nhà nước trong hoạt động kinh tế, hoạt động xuất khẩu, xúc tiến thương mại, khai thông thị trường, thông tin tiếp thị, bảo vệ thương hiệu, vốn, thuế... Hiện nay, một số ngành dịch vụ đã được mở cửa cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đầu tư, đã mang lại kết quả rõ nét và đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, để thu hút nhiều hơn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, Chính phủ sớm áp dụng các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển mạnh một số ngành dịch vụ như: dịch vụ vận tải, bưu chính-viễn thông, du lịch, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn, đầu tư, tài chính v.v... Thúc đẩy hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, phát triển các thi trường còn sơ khai, đặc biệt là thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường tài chính, thị trường khoa học, công nghệ... Phát triển và kiểm soát các thị trường thuê mua tài chính, các dịch vụ tín dụng, chiết khấu giấy tờ có giá... Sáu là, tập trung chỉ đạo để chuyển biến rõ rệt một số khâu còn yếu kém của chương trình cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực và hiệu quả chỉ đạo điều hành của bộ máy hành chính Nhà nước Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà n-ớc giai đoạn 2001-2010 đã được triển khai và thu được một số kết quả. Từ thực tế bức xúc trong xã hội, trọng tâm của năm 2005 là khắc phục tình trạng thủ tục hành chính rườm rà, nhiều tầng nấc, ý thức chấp hành và trách nhiệm, phẩm chất cán bộ, công chức. Chính phủ và các cơ quan Nhà nước cần áp dụng biện pháp mạnh về hành chính, tổ chức và kinh tế; xác định rõ trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân cán bộ, công chức trong từng khâu công việc, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị; có quy định cụ thể, đủ bảo đảm cho người đứng đầu xử lý kịp thời mọi hành vi thiếu trách nhiệm, nhũng nhiễu, tiêu cực, làm việc cầm chừng, hiệu quả công tác thấp, ý thức chấp hành kỷ cương, kỷ luật kém. Coi trọng, chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật trong các cơ quan quản lý nhà đất, đăng ký kinh doanh, xuất nhập khẩu, thu nộp thuế, cấp phép đầu tư và xây dựng, cấp phát và thanh toán kinh phí, hộ khẩu, hộ tịch, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, giải quyết dứt điểm những vấn đề nổi cộm đang là mối quan tâm của xã hội như quản lý đất đai, lạm dụng tài sản Nhà nước, công quỹ, tham nhũng, nhũng nhiễu... Khắc phục tình trạng xây dựng, sửa đổi các thể chế hành chính giành thuận lợi cho cơ quan, công chức, cho người thi hành công vụ. Phát huy dân chủ mạnh mẽ hơn trong các tầng lớp nhân dân, ở các đơn vị có quan hệ thường xuyên giải quyết công việc có liên quan đến dân, khuyến khích và bảo vệ người tố giác hành vi tiêu cực, hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan và công chức nhà nước. Bảy là, tập trung giải quyết có trọng điểm và hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc Trong những năm gần đây và năm 2004, các ngành, các cấp và toàn dân đã đầu tư nhiều công sức và tiền của để giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc. Chính phủ đã có nhiều cố gắng, áp dụng nhiều biện pháp tích cực trong việc phòng chống HIV/AIDS, ma tuý, mại dâm, chống lãng phí, tham nhũng. Nhiều mặt có tiến bộ như xoá đói giảm nghèo, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ  người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, hoạt động văn hoá ở cơ sở v.v... Nhưng nhìn chung tệ nạn tham nhũng, buôn bán, nghiện ma tuý, mại dâm, nhiễm HIV vẫn diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Tai nạn giao thông có giảm, nhưng vẫn ở mức cao, trong 8 tháng đầu năm 2004 đã xảy ra 12.100 vụ tại nạn giao thông, làm chết 8.200 người và bị thương 11.100 người. Chưa áp dụng các biện pháp mạnh trong công tác vệ sinh, an toàn thực phẩm, số người, số vụ ngộ độc thức ăn tăng hơn năm trước. Điều đáng quan tâm là do hướng dẫn, tuyên truyền thiếu cụ thể và có phần lơi lỏng quản lý, nên năm 2004 dân số tăng trở lại, tỉ lệ tăng dân số ước tính 1,44%. Các vấn đề xã hội bức xúc nói trên đang là áp lực lớn đối với sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Cần có giải pháp đủ mạnh, quyết liệt để lành mạnh các quan hệ xã hội, hạn chế tiêu cực và tệ nạn, tạo niềm tin cho nhân dân. Tóm lại, chỉ có phấn đấu quyết liệt, chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp, phát huy năng lực cao nhất của từng người, từng đơn vị, từng ngành, từng địa phương... mới có thể đạt được nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra. Năm 2005 là năm đầy thách thức, nhưng với tất cả những gì đã làm được, đã tích luỹ, với lòng quyết tâm nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, kinh tế- xã hội Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển, ổn định, bền vững và đạt kết quả cao nhất có thể trong mọi tình huống. Những kết quả đạt được về kinh tế- xã hội không chỉ cho năm 2005 mà sẽ là tiền đề vững chắc cho nhiều năm tiếp theo./.

Thống kê truy cập

33941673

Tổng truy cập