Những vấn đề đặt ra khi thực thi các bảo đảm tố tụng với bị can, bị cáo theo Hiến pháp năm 2013

01/01/2015

PGS.TS. VŨ HỒNG ANH

Viện Nghiên cứu Lập pháp

Một trong những điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013 là chế định quyền con người, quyền công dân. Vị trí và nội dung của chế định này thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 cho thấy sự thay đổi quan trọng trong nhận thức của chúng ta về quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền của công dân trong tố tụng hình sự (TTHS). Hiến pháp năm 2013 đã có một số quy định quy định trực tiếp về quyền con người, quyền công dân trong TTHS. Nội dung của những quy định này chính là những nguyên tắc, yêu cầu cần được cụ thể hóa bằng văn bản luật, cụ thể là pháp luật TTHS, nhằm đảm bảo các quyền của bị can, bị cáo trong TTHS. Để triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 về các biện pháp bảo đảm quyền của bị cán, bị cáo cần chú ý tới một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ nội dung của nguyên tắc “suy đoán vô tội”, theo đó, “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự  luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp), đồng thời Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Quy định này bảo đảm rằng, người bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hình sự được coi là không có tội cho đến khi hành vi phạm tội của họ được các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, khi những người này tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo thì các chủ thể tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện các quyền hiến định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Thực tiễn cho thấy, cơ chế để đảm bảo quyền của bị can, bị cáo chưa được xây dựng và thực hiện một cách hữu hiệu. Cụ thể, quyền bào chữa của bị can, bị cáo vẫn chưa được đảm bảo thực hiện:
- Theo quy định của Luật TTHS hiện hành, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và quyền này có thể được thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng, nhưng trên thực tế, “người bào chữa có được tham gia tố tụng hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự chấp nhận hay từ chối của cơ quan tố tụng”[1] và “việc tham gia tố tụng của luật sư trong giai đoạn điều tra đang gặp rất nhiều khó khăn vì thiếu nhiều quy định hoặc quy định còn mang nặng tính hình thức”[2]. Điều này đã ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện chức năng bào chữa và ở mức độ nào đó xâm hại đến quyền được bào chữa của bị can, bị cáo.
Nguyên nhân của thực trạng này là do quy định của pháp luật TTHS hiện hành hoặc không rõ, hoặc thiếu cụ thể bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa, cụ thể là: (i) Luật TTHS quy định bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa nhưng lại không quy định cho họ quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan để làm cơ sở cho việc tự bào chữa sau khi kết thúc điều tra. Do vậy, bị can, bị cáo vô hình chung bị tước đi quyền tự bào chữa của mình; (ii) đối với trường hợp bị can, bị cáo bị tạm giam, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo lựa chọn người bào chữa thì người bào chữa làm thủ tục xin các cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa cũng rất khó khăn, vì những cơ quan này đòi hỏi phải có giấy yêu cầu luật sư của chính bị can, bị cáo chứ không phải của người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn.
Bên cạnh đó, mặc dù pháp luật tố tụng quy định người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can, tuy nhiên lại không ràng buộc trách nhiệm của điều tra viên trong việc thông báo cho người bào chữa biết thời gian, địa điểm hỏi cung. Điều này đã làm hạn chế quyền của người bào chữa.
Ngoài ra, pháp luật TTHS hiện hành cũng không phân biệt tính hợp pháp và giá trị chứng minh của nội dung các biên bản hỏi cung bị can có sự tham gia của người bào chữa với nội dung các biên bản hỏi cung bị can không có sự tham gia của người bào chữa. Đây là một trong những hạn chế căn bản của pháp luật TTHS của nước ta hiện nay[3].
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án (Khoản 5 Điều 103). Nguyên tắc này cần được cụ thể hóa trong TTHS.
Hiện nay, theo quy định tại pháp luật TTHS của nước ta, hình thức TTHS được áp dụng là hình thức tố tụng thẩm vấn. Theo hình thức này, cơ quan tiến hành tố tụng thường coi trọng sự thật khách quan hơn là những tài liệu, đồ vật được coi là chứng cứ do bị can, bị cáo cung cấp. Yếu tố tranh tụng còn mờ nhạt, thẩm vấn vẫn là phương pháp chủ yếu được thực hiện ở hều hết các giai đoạn tố tụng, thể hiện sự bất bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, trong đó sự bất lợi luôn thuộc về người tham gia tố tụng, đặc biệt là đối với bị can, bị cáo.
Khi tiến hành các hoạt động điều tra, điều tra viên thực hiện mọi biện pháp điều tra do pháp luật quy định để thu thập chứng cứ nhằm chứng minh tội phạm và hành vi phạm tội. Đến giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án để quyết định truy tố hoặc không truy tố bị can ra trước tòa án có thẩm quyền trong thời hạn luật định. Trong giai đoạn xét xử, hoạt động điều tra công khai tại tòa chủ yếu vẫn là phương pháp thẩm vấn thông qua hình thức xét hỏi trực tiếp mà chủ thể buộc tội tích cực nhất vẫn là Hội đồng xét xử. Luật sư tham gia phiên tòa với tư cách là một bên của quá trình tranh tụng, tuy nhiên, “nhiều trường hợp, bài bào chữa chỉ mang nặng việc khai thác các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc bắt bẻ về câu chữ, hay những lỗi tố tụng nhỏ mà không đi vào những tình tiết của vụ án một cách toàn diện, để khai thác bảo vệ quyền lợi chính đáng của bị cáo”[4]. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng oan, sai xảy ra, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con người, của công dân.
Thứ ba, Khoản 5, Điều 31 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”.
 Hiến pháp năm 2013 không những mở rộng phạm vi người được bồi thường và nội dung được bồi thường, mà còn quy định cụ thể, rõ ràng hơn quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự của người bị oan do người có thẩm quyền trong TTHS gây ra, cũng như trách nhiệm của ngườivi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác. Để bảo đảm thi hành Hiến pháp năm 2013 đòi hỏi pháp luật tố tụng và pháp luật khác có liên quan phải xác định cụ thể trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tiến hành tố tụng, khắc phục tình trạng trì hoãn, đùn đẩy trách nhiệm khi xảy ra oan sai. 
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS như sau:
1. Bổ sung nguyên tắc suy đoán vô tội
Mặc dù Điều 9 Bộ luật TTHS có bao hàm quy định liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội, tuy nhiên, nội dung của quy định chưa phản ánh đúng và đầy đủ nguyên tắc này. Theo đó, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được suy đoán vô tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình; mọi nghi ngờ về lỗi của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ; bản án kết tội của Tòa án không dựa trên những căn cứ giả định[5].
Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội có tính chất bao quát các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS. Do đó, khi những nội dung này được quy định thành nguyên tắc chính thức trong Luật TTHS sẽ tạo ra những điều kiện có ý nghĩa tích cực để thực hiện các quyền của bị can, bị cáo nhằm đưa những người này ra khỏi trạng thái bị động và yếu thế, giúp họ nhận thức được những quyền mà pháp luật trao cho họ và họ có thể tự nguyện lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện những quyền đó.
2. Bổ sung quy định bảo đảm quyền của bị can, bị cáo
- Cần bổ sung cho bị can có quyền được nghiên cứu hồ sơ vụ án, được ghi chép hoặc sao chép tài liệu trong hồ sơ để thực hiện quyền bào chữa của mình; bổ sung quyền của bị can được trợ giúp miễn phí về người phiên dịch khi dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trong quá trình tố tụng, mở rộng quyền yêu cầu thay đổi của bị can không chỉ đối với người tiến hành tố tụng mà cả với người phiên dịch, người giám định, quy định quyền đề xuất chứng cứ, quyền được trình bày lời khai của bị can.
- Cần bổ sung quyền đề xuất chứng cứ của bị cáo tại phần chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám định cho đến khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bổ sung quy định trả lời câu hỏi của bị cáo và tham gia tranh luận tại phiên tòa là quyền của bị cáo, bỏ quy định Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo hướng bất lợi cho bị cáo.
- Thay đổi cách xác định chủ thể quan hệ TTHS theo hướng không chia thành cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng mà tất cả phải đều là chủ thể của quan hệ TTHS trên cơ sở phân định rõ mục đích và lợi ích của các chủ thể đó mà hình thành các bên trong quan hệ tố tụng. Các bên cần được có quyền ngang nhau về khả năng đưa ra chứng cứ[6], lấy lời khai người làm chứng, yêu cầu triệu tập người làm chứng.
- Tăng cường những bảo đảm cho tính công khai của hoạt động điều tra, tăng cường giám sát hoạt động điều tra theo hướng gắn công tố với điều tra. Cụ thể: sửa đổi theo hướng quy định Viện kiểm sát phải nắm bắt và quản lý đầy đủ, kịp thời các thông tin về tội phạm; các cơ quan tiếp nhận tin báo phải cung cấp ngay cho Viện kiểm sát, khi thấy cần thiết, Viện kiểm sát có quyền xác minh tin báo. Các biện pháp trinh sát được thực hiện trong quá trình điều tra vụ án mà ảnh hưởng tới các quyền cơ bản của công dân như nghe lén, mở bưu kiện, bưu phẩm... chỉ được Cơ quan điều tra thực hiện sau khi có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát.
- Cần sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS theo hướng điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán phải có trách nhiệm để bị can, bị cáo có điều kiện thực hiện tốt các quyền pháp luật trao cho họ, quy định rõ chế tài mà các chủ thể tiến hành tố tụng này phải gánh chịu nếu vi phạm việc thực hiện các quyền của những người tham gia tố tụng, nhất là vi phạm quyền của bị can, bị cáo. Có như vậy, các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong vụ án hình sự mới có giá trị bắt buộc thực hiện trên thực tế, tạo cho họ trạng thái cân bằng, chủ động để thực hiện các quyền của mình và những hành vi tố tụng, quyết định tố tụng mà các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra đều trên cơ sở đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo.
- Hoàn thiện cơ chế đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo đối với những vi phạm, thiếu sót trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự của những người có thẩm quyền. Mặc dù, luật TTHS quy định bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là một nguyên tắc cơ bản nhưng cũng chưa có cơ chế để bảo đảm cho quyền này của bị can, bị cáo, chính vì lẽ đó mà bị can, bị cáo thực hiện việc khiếu nại, tố cáo hết sức khó khăn do chưa có quy định rõ ràng trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc tiếp nhận, giải quyết những khiếu nại, tố cáo về những việc làm trái pháp luật của người có thẩm quyền trong TTHS.
3. Tăng cường các yếu tố đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự
Để phù hợp và thể chế hóa những quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, luật TTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng: tạo cho bị can, bị cáo, người bào chữa có khả năng và vị thế ngang với khả năng và vị thế của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc đi tìm sự thật cũng như việc chống lại những gì không phải là sự thật; yếu tố bảo đảm để thực hiện được yêu cầu này là thay đổi cách nhìn về mục đích của TTHS theo hướng bình đẳng đối với các giá trị, lợi ích cần đạt được của TTHS, lợi ích của trật tự pháp lý và lợi ích cá nhân của những người tham gia tố tụng. Đặc thù của tố tụng tranh tụng là hình thức tố tụng coi trọng chứng cứ hơn sự thật khách quan nên bên cạnh việc công nhận quyền được im lặng, quyền bào chữa, quyền được chối tội mà không bị tăng nặng hình phạt, quyền được coi là không có tội khi các cơ quan tiến hành tố tụng không tìm đủ chứng cứ kết tội, quyền được áp dụng nguyên tắc có lợi cho người bị tình nghi phạm tội thì cần bổ sung những quy định rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bằng mọi cách phải chứng minh được sự thật khách quan của vụ án./.

 


[1] Xem. Bảo đảm quyền bào chữa, Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, thứ tư ngày 14/11/2012
[2] Xem, Bảo đảm quyền bào chữa, tlđd
[3] Xem thêm: Hồ Nguyễn Quân, Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự, http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet;
[4] Xem: ThS. Nguyễn Kim Chi, Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong phiên tòa hình sự, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 191, tháng 3/2011.
[5] Xem thêm: Minh Thảo, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013 và việc thể chế hóa nguyên tắc này trong Bộ luật TTHS để phù hợp với tinh thần của Hiến pháp mới, http://www.moj.gov.vn/thihanhhienphap/News/Lists/giaidapthacmac/View
 
[6] Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật TTHS năm 2003, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có quyền thu thập chứng cứ thông qua quyền triệu tập những người biết về vụ án và nghe họ trình bày, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. Trong khi đó, bị can, bị cáo, người bào chữa chỉ được quyền thu thập các tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án và chúng chỉ có thể là chứng cứ khi được nộp cho các cơ quan tiến hành tố tụng và được các cơ quan này chứng nhận đưa vào hồ sơ vụ án.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1(281), tháng 1/2015)