Xây dựng và hoàn thiện mô hình quan hệ giữa Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp

01/11/2014

PGS.TS. TRỊNH ĐỨC THẢO

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,

TS. TRẦN THÁI DƯƠNG

Trường Đại học Luật Hà Nội

1. Về mô hình hiện tại
Mô hình quan hệ giữa Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư phápđã được xác lập, củng cố và ngày càng rõ nét hơn. Từ quá trình hình thành nhận thức lý luận, xây dựng thể chế và thực tiễn thi hành, có thể khái quát mô hình này như sau:
1.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp
- Sự lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp theo đúng đường lối chính trị, định hướng XHCN, giữ vững bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ theo luật định, duy trì và bảo vệ nền pháp chế XHCN, vì sự công bằng, dân chủ và nghiêm minh trong tổ chức thi hành pháp luật.
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp có nội dung toàn diện, đó là lãnh đạo về chính trị, tư tưởng; về tổ chức, cán bộ; về định hướng công tác. Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp thông qua việc định ra các nguyên tắc, quan điểm lớn làm cơ sở chính trị để xây dựng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp; vạch ra đường lối, định hướng trong các lĩnh vực hoạt động của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp. Sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp trước hết thể hiện ở nội dung có tính đặc thù, đó là lãnh đạo về mặt chính trị - tư tưởng. Các cơ quan và các cấp ủy thực hiện sự lãnh đạo đối với cán bộ, đảng viên của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp giữ ổn định tư tưởng, tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, tăng cường đoàn kết, giữ gìn phẩm chất đạo đức. Thông qua lãnh đạo công tác chính trị - tư tưởng, Đảng tác động đến đội ngũ cán bộ đảng viên cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm trong công tác, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nghiêm chỉnh thực hiện kỷ luật phát ngôn, giữ gìn bí mật của Đảng và Nhà nước, đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, thông tin sai lệch về các chủ trương, quan điểm của Đảng, về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp...  Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của các cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp giúp cho cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng để đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, phản động chống phá Đảng và Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và các hiện tượng vi phạm pháp luật khác; khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong nhận thức và hành động về bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nội dung quan trọng tiếp theo là lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ. Đảng đưa ra đường lối, chủ trương, thực hiện sự lãnh đạo sát sao về xây dựng, củng cố tổ chức, đào tạo, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ cho cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp. Đảng lãnh đạo việc xác định chức năng, nhiệm vụ, xây dựng tổ chức, bộ máy của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp; đề ra mục tiêu và nhiều giải pháp lớn để xây dựng đội ngũ cán bộ của các cơ quan này đủ sức gánh vác nhiệm vụ trong tình hình mới. Đảng chỉ đạo sát sao việc thể chế hoá quan điểm, đường lối của Đảng thành các luật, pháp lệnh về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, về tiêu chuẩn, chế độ của đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp (thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên...). Trước khi trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các dự án luật, pháp lệnh về các vấn đề tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp đều được Bộ Chính trị xem xét, cho ý kiến về quan điểm, định hướng chính trị cần thể hiện. Chẳng hạn, về chức năng của viện kiểm sát nhân dân; về thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân; về mô hình tổ chức và công tác quản lý toà án nhân dân địa phương; về nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các cơ quan điều tra; về nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các cơ quan bổ trợ tư pháp; về tiêu chuẩn và cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ tư pháp. Cùng với việc xây dựng, kiện toàn về tổ chức của các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, Đảng cũng lãnh đạo việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, vững vàng về chính trị, tinh thông về nghiệp vụ, bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp theo đúng pháp luật, giữ vững kỷ cương, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đảng đề ra những chủ trương, định hướng, giải pháp cụ thể nhằm đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, yêu cầu đội ngũ cán bộ phải có quan điểm chính trị đúng đắn, trình độ chuyên môn vững và phẩm chất đạo đức trong sáng, công minh, chính trực, liêm khiết. Dựa trên những quan điểm đó, Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ của các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, trước hết là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng bảo đảm về chính trị, phẩm chất đạo đức và chuyên môn, nghiệp vụ.
Lãnh đạo, chỉ đạo định hướng công tác của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp là nội dung vô cùng quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan này. Đảng xác định rõ phương hướng, mục tiêu hoạt động của các cơ quan này là phải xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh, phục vụ nhân dân. Đồng thời Đảng cũng đề ra các biện pháp cụ thể và yêu cầu các cơ quan phải quán triệt và thực hiện được các mục tiêu theo định hướng đó như: nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, kiểm sát, công tố; các biện pháp đề cao dân chủ, tranh tụng bình đẳng tại phiên tòa v.v.. Trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đối với công tác chuyên môn, nghiệp vụ, Đảng cũng xác định rõ nội dung, phương thức lãnh đạo, khắc phục tình trạng hoặc buông lỏng lãnh đạo hoặc sự can thiệp không đúng pháp luật vào công việc chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp.
Công tác kiểm tra đảng đối với các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp về việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng là sự bảo đảm vững chắc cho hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan này đi theo đúng định hướng chính trị của Đảng.
1.2. Cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp hoạt động độc lập
Bên cạnh việc khẳng định vai trò lãnh đạo của mình đối với các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, Đảng cũng nhận thức được tính độc lập trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan này với tính cách là nguyên tắc thể hiện bản chất của nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh, vì nhân dân; là yếu tố cốt lõi để thiết lập và duy trì nền công lý trong Nhà nước pháp quyền, tất cả vì hạnh phúc của con người mà chúng ta đang xây dựng. Tính độc lập của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp được thể hiện ở nhiều khía cạnh nội dung, trong đó nội dung vô cùng quan trọng là độc lập trong mối quan hệ với Đảng (với các cơ quan, tổ chức, lãnh đạo đảng). Về nguyên tắc, Đảng lãnh đạo công tác xây dựng pháp luật, tuân theo pháp luật thì cũng là thực hiện đường lối, chủ trương, cũng là chịu sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy, hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp tuân theo quy định của pháp luật mà không nhất thiết phải có sự chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của các cơ quan, tổ chức, cá nhân lãnh đạo các cấp uỷ. Bản chất của quyền tư pháp đặt ra yêu cầu về tổ chức và hoạt động của nhánh quyền lực này cần phải được độc lập, kể cả độc lập giữa chính các cơ quan tư pháp với nhau, không chịu bất kỳ sự tác động nào ngoài niềm tin bản thân vào pháp luật và công lý. Tuy quan điểm nhận thức của Đảng, quy định chung của Hiến pháp, các đạo luật cũng đã thể hiện được điều này nhưng việc bảo đảm tính độc lập xét xử của tòa án trên thực tế cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết một cách căn cơ, đồng bộ trong tất cả các khâu xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Qua việc thực hiện mô hình quan hệ giữa các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp với Đảng hiện nay, chúng ta thấy có một thực tế là đối với những vụ việc có tính điển hình, phức tạp, nhạy cảm về an ninh chính trị, đối ngoại hay đạo đức xã hội thì các cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp phải báo cáo công tác, tình hình vụ việc với cơ quan, tổ chức, cấp uỷ đảng và phải thực hiện ý kiến chỉ đạo, định hướng giải quyết vụ việc của tổ chức đảng. Mô hình đó có ý nghĩa thực tiễn ở chừng mực và phạm vi nhất định, tuy nhiên cũng đưa lại những bài học cần rút kinh nghiệm sâu sắc trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp cũng như sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan này.
Ngoài ra, ở mức độ nhất định, việc tuân theo, chấp hành sự lãnh đạo của Đảng trong công tác chính trị - tư tưởng, công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ tư pháp của các đảng viên trong cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp có nội dung và ý nghĩa riêng, không liên quan trực tiếp đến hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ tư pháp.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể theo mô hình hiện nay, trong mối quan hệ với Đảng, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp được xác định là chủ thể độc lập nhưng vẫn phải tuân theo sự lãnh đạo của Đảng (độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ - độc lập khi xét xử). Tuy nhiên, tính độc lập của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp trong mối quan hệ với vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện cụ thể như thế nào và có đặc điểm riêng biệt so với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và các cơ quan nhà nước khác vẫn đang là những vấn đề cần được nhận thức cụ thể và minh định hơn trong tiến trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, cải cách tư pháp theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
2. Đề xuất mô hình quan hệ giữa Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp trong điều kiện hiện nay Từ quá trình hình thành, phát triển nhận thức của Đảng về quan hệ giữa Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp cũng như mô hình hiện tại về mối quan hệ này, trên cơ sở yêu cầu xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cải cách tư pháp, chúng ta có thể tiếp cận được các vấn đề cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện mô hình quan hệ đó trên thực tế một cách phù hợp.
2.1. Mô hình vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp
2.1.1. Yêu cầu sự lãnh đạo của Đảng
Bối cảnh của đất nước trong thời kỳ phát triển tiếp theo là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước (tiếp tục là nguyên tắc hiến định) cần được củng cố và nâng lên tầm cao mới. Những nghiên cứu gần đây đã khẳng định rằng, chỉ với sự “hài hoà hoá” theo những nguyên tắc pháp quyền trong quan hệ giữa Đảng với Nhà nước với tính cách là đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền XHCN thì mới đem lại sự đổi mới sâu sắc cho nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, theo đó Đảng là đảng cầm quyền và ngày càng thể hiện thực chất tính nhân dân, trong khi Nhà nước thực hiện tốt sứ mệnh đại diện xã hội, trở thành thiết chế năng động, quản lý hiệu quả, được quảng đại quần chúng ủng hộ[1].
Yêu cầu chung có tính nguyên tắc đặt ra là cần thiết lập đồng bộ chế độ pháp quyền dựa trên những nguyên tắc pháp quyền, theo đó Đảng cầm quyền là “Đảng pháp quyền” và Nhà nước là Nhà nước pháp quyền XHCN. Đồng thời với việc thiết lập chế độ pháp quyền, chúng ta cũng cần xây dựng xã hội dân chủ. Mọi cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước đều phải là công bộc của dân, mọi quyết định của Đảng, Nhà nước đều vì hạnh phúc của nhân dân, được nhân dân tham gia xây dựng, được sàng lọc và đánh giá về tính đúng đắn bằng cơ chế phản biện xã hội. Sự uỷ nhiệm của nhân dân cho Nhà nước và cả Đảng là sự uỷ nhiệm thực chất, chính danh theo nguyên lý của nhà nước pháp quyền. Những thể chế về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và cơ quan tư pháp, các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp cũng phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tức là phù hợp với ý chí, lợi ích chung của nhân dân, của toàn dân tộc. Yêu cầu đó đòi hỏi phải bảo đảm tính thống nhất giữa điều lệ, cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng với Hiến pháp - đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất của chế độ pháp quyền; sự thống nhất giữa các văn bản của Đảng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức đảng trực tiếp lãnh đạo các cơ quan nhà nước, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp với các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, cần ban hành các văn bản quy phạm luật hoá quan hệ giữa các cơ quan các cấp của Đảng (về vai trò lãnh đạo) với các cơ quan nhà nước, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp trực tiếp chịu sự lãnh đạo của các cơ quan đó. Về thực chất, quyền lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan nhà nước, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp chỉ thuộc về một số cá nhân - những nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và những đảng viên giữ các chức vụ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp cao nhất. Bởi lẽ, chỉ có những cá nhân này mới có khả năng tác động đến định hướng chính trị trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp.
2.1.2. Nội dung sự lãnh đạo của Đảng
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp nói riêng thể hiện thẩm quyền, trách nhiệm chính trị của Đảng. Nội dung chủ yếu là việc xác định các định hướng chính trị, đề ra, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện (thể chế hoá) các cương lĩnh, đường lối của Đảng thành chính sách (chiến lược, chương trình, kế hoạch, đề án…), pháp luật của Nhà nước. Mục đích của nội dung lãnh đạo này nhằm bảo đảm tính chính trị (bản chất chế độ xã hội theo định hướng XHCN) trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp. Nội dung khác không kém phần quan trọng và không thể thiếu trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp là công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, bố trí, sử dụng cán bộ, đảng viên. Ngày nay, hơn bao giờ hết Đảng cần xây dựng được đội ngũ cán bộ trung thành với Tổ quốc, dân tộc, với Đảng, có phẩm chất đạo đức tốt, thật sự trong sạch, có đủ năng lực cầm quyền, thạo nghề quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, Đảng cũng phải bảo đảm hiệu quả công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. Các nội dung lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp như vừa đề cập trên đây đương nhiên cần được đổi mới mạnh mẽ về phương thức cho phù hợp với điều kiện xây dựng chế độ dân chủ, pháp quyền hiện nay. Đặc biệt là những nội dung đó cần được chuyển hoá một cách thực chất thành các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm chính trị - pháp lý cho từng chức danh người lãnh đạo, tổ chức, cơ quan cụ thể một cách hài hoà, đúng với nguyên tắc của chế độ pháp quyền.
2.1.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng
Với tư cách là chủ thể cầm quyền trong điều kiện một đảng, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp mà không làm thay, bao biện cho các cơ quan nhà nước. Trước đòi hỏi của chế độ pháp quyền, đây là nguyên tắc chung cũng dễ được thống nhất trong nhận thức chung, nhưng để thực hiện được một cách hiệu quả, thật sự là điều thách thức rất lớn hiện nay. Từ cách nhìn nhận đó, chắc chắn rằng phương thức lãnh đạo của Đảng cần phải đổi mới theo hướng chính thức hoá, chính danh hoá quyền cầm quyền, quyền lãnh đạo của Đảng thông qua cơ chế phát huy dân chủ một cách sâu sắc. Không phải vì vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đã được thể hiện trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hay đã được hiến định mà chúng ta có thể hoàn toàn thoả mãn. Vai trò đó của Đảng cần phải thường xuyên được chính thức, chính danh hoá thông qua các nội dung hoạt động của Đảng và bộ máy nhà nước. Đường lối chính trị, cương lĩnh của Đảng có ý nghĩa vạch đường, chỉ lối, định hướng phát triển của đất nước, của dân tộc trong khoảng thời kỳ nhất định nhưng không phải là sự áp đặt một chiều mà chủ yếu phải là kết quả của quá trình thực hiện quyền dân chủ của người dân. Nhân dân có quyền tham gia một cách thực chất vào quá trình hoạch định, giám sát việc thực hiện cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Mặt khác, ở đây cần có sự minh định vai trò giữa Đảng và Nhà nước, theo đó Đảng tập trung thực hiện vai trò cầm quyền ở chỗ Đảng đưa ra định hướng lớn, những nguyên tắc căn bản, thể hiện và giữ đúng bản chất của chế độ chính trị - xã hội (theo lý tưởng của Đảng), còn lại phải dành quyền chủ động, sáng tạo trong việc đưa ra các chính sách, pháp luật phát triển, quản lý đất nước cho Nhà nước. Các nhà lãnh đạo Đảng phần lớn đã tham gia hoạt động nhà nước (cũng trong vai trò lãnh đạo Nhà nước), do vậy sẽ bảo đảm được tính thống nhất giữa chính sách, pháp luật của Nhà nước với đường lối chính trị, cương lĩnh của Đảng. Hoạt động của Đảng sẽ không bị trùng lắp với hoạt động của bộ máy nhà nước, hoạt động thể chế hoá của Nhà nước không đơn thuần chỉ là sự cụ thể hoá những chính sách, đường lối đã được vạch sẵn trong các nghị quyết, văn kiện đảng. Đảng không cần xác định cụ thể, chi tiết những chủ trương, chính sách phát triển đất nước hay nội dung các quy định của pháp luật, mà cần tập trung xây dựng cương lĩnh chính trị có ý nghĩa lớn lao, sâu sắc, với tầm nhìn dài hạn. Đảng cũng cần dồn sức, dày công giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cán bộ, đảng viên. Các kỳ đại hội, hội nghị Ban chấp hành trung ương, các cơ quan, tổ chức đảng các cấp cần chủ yếu bàn và giải quyết những vấn đề về công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đảng có quyền giới thiệu các đảng viên ưu tú của Đảng để bầu hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo cơ quan nhà nước, nhưng kết quả cuối cùng của việc bầu hay bổ nhiệm này phải thể hiện được tính công khai, dân chủ và theo đúng quy trình do pháp luật quy định. Đó cũng là một trong những khía cạnh quan trọng để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ, nhằm chính danh hoá quyền cầm quyền, quyền lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp nói riêng.
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung tuy được định hình như trên nhưng lại có đặc điểm khác nhau đối với mỗi loại cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cơ quan thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước hiện nay đã được Hiến pháp xác định rõ, là toà án nhân dân. Tuy nhiên, một số cơ quan như điều tra, viện kiểm sát, thi hành án… có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả hoạt động tư pháp và trong các văn bản của Đảng hiện nay, vẫn đang coi đó là những cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp tư pháp bên cạnh sự thừa nhận vai trò trung tâm của cơ quan thực hiện quyền tư pháp (cơ quan xét xử). Nếu nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hai loại cơ quan thực hiện các quyền lập pháp (Quốc hội) và hành pháp (Chính phủ) có đặc điểm là mang tính trực tiếp, gắn bó chặt chẽ, sâu sắc với tổ chức và hoạt động của hai loại cơ quan đó, thì nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan thực hiện quyền tư pháp (toà án) lại mang điểm đặc thù nhất, trên cơ sở tính độc lập của cơ quan này. Chúng ta có thể hình dung giữa lập pháp với hành pháp có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ, khăng khít và cũng chính điều đó đặt ra yêu cầu cần có sự gắn kết mạnh mẽ và trực tiếp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cả hai loại cơ quan này (tất nhiên cũng trên cơ sở tính chất của mỗi cơ quan). Trong khi đó, với tính cách là cơ quan đưa ra các phán quyết một cách khách quan, công bằng trên cơ sở quy định pháp luật và nền công lý, cơ quan tư pháp có tính độc lập cao nhất trong mối quan hệ với các cơ quan lập pháp và hành pháp cũng như với cả Đảng. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trước hết, chủ yếu nhất, trực tiếp nhất được thể hiện trong vai trò của Đảng đối với cơ quan lập pháp. Bản chất của Nhà nước, sự vận hành, phát triển của tòan bộ bộ máy nhà nước, của chế độ pháp quyền căn bản được thể hiện ở hệ thống pháp luật - sản phẩm do cơ quan lập pháp là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân sáng tạo ra (cơ quan có thẩm quyền quyết định). Đảng lãnh đạo cơ quan lập pháp nghĩa là Đảng bảo đảm được yếu tố cốt tử cho mục tiêu cầm quyền của Đảng, định hướng và bảo đảm được bản chất của hệ thống pháp luật. Điều có ý nghĩa quan trọng hiện nay là Đảng lãnh đạo Quốc hội nhưng không đứng trên Quốc hội để áp đặt, chỉ đạo, điều hành Quốc hội trong những công việc cụ thể mà Đảng phải tôn trọng vị trí, vai trò của Quốc hội với tính cách là cơ quan đại đại diện cao nhất của nhân dân. Đảng phải tạo điều kiện để Quốc hội hoạt động hiệu quả trong vai trò mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Đối với cơ quan hành pháp, Đảng cần tôn trọng, đề cao vai trò của cơ quan thực hiện quyền hành pháp đồng thời cũng là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thống nhất quản lý đất nước về mọi mặt. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan lãnh đạo của Đảng trong bộ máy hành pháp cũng cần đảm bảo tinh gọn, tránh sự trùng lắp chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền, bộ máy cồng kềnh, làm giảm hiệu lực của bộ máy hành pháp. Đối với cơ quan tư pháp, vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện rõ nhất là ở việc đưa ra định hướng xây dựng bộ máy, nguyên tắc hoạt động, xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo công tác chính trị - tư tưởng, đạo đức, lối sống đối với cán bộ, đảng viên. Đảng cần tôn trọng và phát huy cao độ tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan tư pháp (hoạt động xét xử) bởi lẽ đây là loại hoạt động đặc thù và cần được bảo đảm bằng tính độc lập của loại cơ quan này.
Về mặt nguyên tắc, chúng ta dễ đi đến nhận thức thống nhất rằng bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân hay lực lượng nào cũng không có quyền can thiệp vào hoạt động xét xử; toà án, căn cứ trên quy định của pháp luật, hoàn tòan chủ động, khách quan đưa ra các phán quyết phù hợp với thực tế vụ việc. Tuy vậy, vấn đề cần giải quyết hiện nay không hẳn ở nhận thức về nội dung tính độc lập của toà án mà lại ở các yếu tố bảo đảm tính độc lập của toà án. Điều này đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các điều kiện, các yếu tố tác động đến tính độc lập của toà án, trong đó có cả bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Trên thực tế, ngoài vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử thông qua việc đề ra đường lối, chính sách về tổ chức và hoạt động của ngành tòa án, đổi mới công tác xét xử, đường lối xây dựng, bổ sung, sửa đổi các đạo luật liên quan đến hoạt động xét xử và tổ chức tòa án, Đảng còn chỉ đạo hoặc cho ý kiến về nguyên tắc chung, trên cơ sở quy định của pháp luật trong việc giải quyết, xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên, các vụ án nghiêm trọng, phức tạp về chính trị, kinh tế - xã hội, các vụ án tham nhũng có liên quan đến cán bộ thuộc diện quản lý của các cấp uỷ đảng, các vụ án có liên quan đến quan hệ đối ngoại… và trực tiếp quản lý công tác tổ chức cán bộ, trong đó có việc xem xét, quyết định nhân sự cán bộ lãnh đạo và thẩm phán tòa án các cấp. Hiện nay, cần đồng thời đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tòa án cũng như đổi mới tổ chức bộ máy, hoạt động của tòa án theo nguyên tắc bảo đảm vững chắc cho tính độc lập của tòa án. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp phải theo tính chất đặc thù và cơ chế chính trị - pháp lý riêng mà không thể đồng nhất theo mô hình chung như đối với các cơ quan nhà nước khác (lập pháp, hành pháp).
2.2. Mô hình về tính độc lập của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp
2.2.1. Khái quát về tính độc lập của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp mới chỉ là một mặt thể hiện mô hình quan hệ giữa Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp . Mặt thứ hai chính là vai trò, trách nhiệm của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp đối với Đảng. Nguyên tắc chung ở đây được xác định là cũng phải dựa trên nền tảng căn bản của chế độ pháp quyền. Tính độc lập của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp không phải có mục đích tự thân mà chính là để bảo vệ trật tự pháp luật, bảo đảm tính khách quan, công bằng, duy trì và thực hiện nền công lý, bảo đảm các quyền con người, nền dân chủ XHCN cũng như hạnh phúc của nhân dân. Về mặt nguyên tắc, tính độc lập của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp không mâu thuẫn, đối lập với sự lãnh đạo của Đảng. Ngược lại, yêu cầu đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp cũng chính là một trong những bảo đảm có ý nghĩa quan trọng nhất cho tính độc lập ấy. Do vậy, thực hiện đúng nguyên tắc độc lập của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp cũng có nghĩa tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp.
2.2.2. Trách nhiệm của cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp với Đảng
Thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp cũng phải thể hiện đầy đủ trách nhiệm chính trị - pháp lý của mình trong mối quan hệ với Đảng và cấp uỷ đảng. Trước hết, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp phải tuân thủ đường lối chính trị, định hướng tổ chức, hoạt động của Đảng cũng như các quy định của pháp luật. Từ định hướng chung đó, cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp có trách nhiệm cụ thể hoá thành các chương trình, kế hoạch phù hợp nhằm xây dựng và phát triển nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công lý, vì các quyền con người, vì hạnh phúc của nhân dân. Trách nhiệm tiếp theo là cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp phải tôn trọng sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong công tác tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ cũng như công tác chính trị - tư tưởng, giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống đối với các đảng viên trong cơ quan. Trong điều kiện chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền, hơn ai hết, các cán bộ tư pháp không chỉ phải là những người giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ xét xử mà trước hết phải là những đảng viên gương mẫu, có phẩm chất đạo đức và uy tín cao trước quần chúng nhân dân. Cán bộ xét xử (thẩm phán) trước hết cần được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ về phẩm chất đạo đức, tư cách đảng viên của tổ chức đảng có thẩm quyền. Hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ (xét xử) có tính độc lập hoàn toàn không có nghĩa là hoạt động này được phép tách biệt, thoát li khỏi mọi sự kiểm tra, giám sát của nhân dân, của Đảng và Nhà nước. Ngược lại, càng độc lập, người thẩm phán lại càng phải nêu cao tinh thần vô tư, khách quan, công bằng, lương tâm trong sáng, trách nhiệm bảo vệ công lý, trật tự pháp luật, nền dân chủ và quyền con người. Điều đó cũng có nghĩa càng độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, cơ quan tư pháp, người cán bộ xét xử lại càng phải đáp ứng những yêu cầu rất cao về mặt tư cách, phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa, bên cạnh quyền được tôn trọng, bảo đảm tính độc lập trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, người cán bộ tư pháp cũng bị đòi hỏi phải đặt dưới sự rèn luyện, giáo dục, kiểm tra thường xuyên về lập trường chính trị - tư tưởng, về đạo đức của Đảng và nhân dân. Người cán bộ tư pháp không chỉ có trách nhiệm tuân theo pháp luật của Nhà nước mà còn phải hết sức coi trọng, tuân thủ nghiêm ngặt điều lệ Đảng, tinh thần kỷ luật, trách nhiệm của đảng viên, người cán bộ đảng.
2.3. Mô hình thể chế quan hệ giữa Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp
Mô hình quan hệ giữa Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp dựa trên nguyên tắc căn bản của chế độ pháp quyền cần được bảo đảm bởi hệ thống các thể chế cần thiết với những định hướng nội dung sau:
-  Xây dựng văn bản của Đảng xác định một cách đầy đủ nguyên tắc chung, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, bảo đảm sự thống nhất giữa văn bản của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về hoạt động của các cơ quan này. Bên cạnh đó, tiếp tục làm rõ mối quan hệ, phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm của lãnh đạo tổ chức đảng với lãnh đạo cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp; xác định những vấn đề cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp phải báo cáo để cấp uỷ đảng cho ý kiến định hướng, phối hợp công tác giữa cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp với các cơ quan khác. Cần quy định hợp lý những biện pháp chế tài (chính trị - pháp lý) cần thiết để bảo đảm cho các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm công tác lãnh đạo và chịu sự lãnh đạo. Điều cần chú ý ở đây là hầu hết các nước trên thế giới, ở những mức độ khác nhau, đều quy định về tính độc lập của cơ quan tư pháp (tòa án) và các tiêu chí về tính độc lập của cơ quan tư pháp của các nước có tính phổ cập cao. Pháp luật Việt Nam hiện nay cũng cần được hoàn thiện trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm các nước để bảo đảm tính tương thích với những tiêu chí đó. Văn bản của Đảng quy định về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp cũng cần phải quán triệt tinh thần này một cách thực chất. Mặt khác, Đảng cũng cần thể hiện rõ ràng, dứt khoát quan điểm tòa án chính là cơ quan thực hiện quyền tư pháp (cơ quan tư pháp) thay vì quan điểm coi tòa án là trung tâm của hệ thống các cơ quan tư pháp (trong đó có các cơ quan như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, thi hành án).
-  Cần xây dựng tiêu chí cụ thể xác định vụ án, vụ việc có tính chất quan trọng, phức tạp về chính trị, kinh tế - xã hội, tham nhũng lớn hoặc có quan hệ đối ngoại mà tòa án cần phải báo cáo cấp uỷ và cấp uỷ cần thiết phải cho ý kiến định hướng, chỉ đạo, quán triệt về tư tưởng, phương châm hành động.
-  Về thể chế tổ chức và hoạt động của tòa án, cần sớm hoàn thiện tổ chức bộ máy tòa án theo cấp xét xử, không tổ chức theo cấp hành chính; hoàn thiện mô hình tố tụng bảo đảm tính khách quan, dân chủ, công bằng, bảo đảm công lý như định hướng cải cách tư pháp mà Đảng đã đề ra.
-  Đảng cần định hướng và lãnh đạo việc xây dựng bộ tiêu chí về đạo đức nghề thẩm phán. Việc kiểm tra, uốn nắn, xử lý các vi phạm kỷ luật đảng đối với mỗi đảng viên - cán bộ cơ quan tư pháp trước hết phải căn cứ trên nội dung và tinh thần quy định về tiêu chuẩn đạo đức nghề thẩm phán.
Thực hiện triệt để nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đảng viên hay quần chúng nhân dân, không phân biệt địa vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước hay người dân bình thường trong toàn bộ tiến trình tố tụng tư pháp nói chung và khi tòa án xét xử, đưa ra phán quyết./.

 


[1] Xem: Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp bộ: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân và với Đảng cộng sản trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHNC Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Viện Nhà nước và pháp luật, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2010; tr. 119.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 22(278), tháng 11/2014)


Thống kê truy cập

33944850

Tổng truy cập