Thuế bảo vệ môi trường - hình thức thực hiện nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” trong pháp luật môi trường

01/08/2014

VÕ TRUNG TÍN

Giảng viên Khoa Luật Thương mại, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.

ThS. NGUYỄN LÂM TRÂM ANH

Giảng viên Khoa Luật trường Đại học Sài Gòn.

1. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền trong pháp luật môi trường Việt Nam
1.1. Sự ra đời và phát triển của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”[1], còn gọi là PPP (The Polluter Pays Principle), đã trở nên phổ biến tại nhiều nước trên thế giới trong những năm gần đây, khi vấn đề môi trường đang ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với sự phát triển bền vững của hầu hết các quốc gia. Trong thời gian qua, khi con người nhận thức được rõ hơn rằng hoạt động sản xuất của nền kinh tế thế giới đang ngày càng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến điều kiện sống của toàn nhân loại, thì PPP được xem như là một nguyên tắc thể hiện việc áp dụng công cụ kinh tế để quản lý và giải quyết các vấn đề môi trường. Ở các nước, PPP được sử dụng là một công cụ chính thức để kiểm soát các hoạt động ảnh hưởng tới môi trường của các chủ thể. Ở Việt Nam, pháp luật về môi trường vẫn là một lĩnh vực còn khá mới mẻ, các chính sách về môi trường cũng như pháp luật về môi trường đều song hành với các nguyên tắc cơ bản[2], trong đó, PPP cũng được xem xét trong việc quản lý và cố gắng hạn chế các tác động tiêu cực của các chủ thể vào môi trường.
PPP ra đời xuất phát từ quan điểm cho rằng, môi trường là một loại hàng hóa đặc biệt. Khi khai thác, sử dụng môi trường thì các chủ thể phải trả tiền. Nhà nước đứng ra để bán quyền tác động đó. Kinh tế chính trị học định nghĩa hàng hóa là sản phẩm của quá trình lao động, được sản xuất ra để trao đổi mua bán nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người. Hàng hóa luôn có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Ta thấy rằng môi trường đáp ứng yêu cầu của người mua (những người gây ô nhiễm) về số lượng và chất lượng, cho nên nó có giá trị sử dụng. Và giá trị của môi trường được tạo ra bởi các chi phí cho việc khắc phục, cải thiện nó. Vì thế môi trường cũng là hàng hóa, nhưng là một loại hàng hóa đặc biệt, vì môi trường mang tính cộng đồng, mọi người đều khai thác, sử dụng. Các chủ thể phải trả tiền khi có hành vi khai thác, sử dụng các yếu tố môi trường (tiền bỏ ra để mua quyền khai thác, sử dụng, quyền tác động đến môi trường). Người được hưởng lợi từ việc trả giá này là toàn thể cộng đồng và nhà nước đại diện đứng ra thu tiền và sử dụng tiền để tiếp tục đảm bảo việc bảo vệ môi trường (BVMT).
PPP còn được xác lập trên cơ sở những ưu điểm của công cụ kinh tế trong BVMT. Công cụ kinh tế, có thể được hiểu một cách đơn giản là những cách thức mà qua đó Chính phủ có thể thay đổi hành vi ứng xử của người dân nhằm mục tiêu BVMT. PPP có một hệ thống các công cụ kinh tế nhằm tác động vào chi phí và lợi ích trong hoạt động của các chủ thể để họ thay đổi hành vi ứng xử theo chiều hướng có lợi cho môi trường. Các công cụ kinh tế được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường với mục đích điều hòa xung đột giữa phát triển kinh tế và BVMT. Công cụ kinh tế là những phương tiện, chính sách có tác dụng làm thay đổi chi phí và lợi ích của những hoạt động kinh tế thường xuyên gây tác động đến môi trường, nhằm mục đích tăng cường ý thức trách nhiệm của các chủ thể trước việc gây ra những tổn hại đến môi trường. Các công cụ kinh tế sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp chủ động có kế hoạch BVMT và tuân thủ pháp luật thông qua việc lồng ghép chi phí BVMT vào chi phí sản xuất, kinh doanh và giá thành sản phẩm. Công cụ kinh tế hoạt động theo cơ chế giá cả trên thị trường, thông qua việc thực hiện các hoạt động môi trường có thể giúp nâng cao hoặc hạ thấp chi phí, từ đó mà ảnh hưởng đến lợi nhuận của các doanh nghiệp. Công cụ kinh tế còn tạo ra khả năng lựa chọn cho các chủ thể cách ứng xử sao cho phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, hướng tới mục tiêu BVMT.
PPP lần đầu tiên được nhắc đến như là một nguyên tắc kinh tế vào những năm 1970 và sau đó được ghi nhận trong Hiệp ước EC (EC Treaty) năm 1987. PPP bắt nguồn từ sáng kiến do Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic Co-operation and Development, viết tắt là OECD) đề xuất hợp tác vào các năm 1972 và 1974. 
Cụ thể, PPP được đề cập lần đầu tiên trong các khuyến nghị năm 1972 của OECD về nguyên tắc hướng dẫn liên quan đến khía cạnh kinh tế quốc tế của chính sách môi trường: “Nguyên tắc được sử dụng để phân bổ chi phí của công tác phòng chống ô nhiễm và chi phí cho các biện pháp kiểm soát ô nhiễm để khuyến khích sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên khan hiếm, giảm thiểu ô nhiễm về môi trường và để tránh biến dạng trong thương mại và đầu tư quốc tế là gây ô nhiễm phải trả tiền”[3]. OECD sau đó tiếp tục xây dựng PPP như một nguyên tắc buộc người gây ô nhiễm phải chịu chi phí thực hiện các biện pháp khắc phục và cải thiện môi trường trong quyết định của cơ quan công quyền để đảm bảo môi trường trong tình trạng có thể chấp nhận được. Đến năm 1989, OECD đã đưa thêm vào phạm vi điều chỉnh của PPP những chi phí liên quan đến ô nhiễm ngẫu nhiên.
PPP cũng đã được khẳng định trong Tuyên bố Rio De Janero tại nguyên tắc 16. PPP còn được đề cập cả trong kế hoạch thực hiện chương trình nghị sự và Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững (WSSD) tại Johannesburg vào năm 2002, trong Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu và trong một số Hiệp định đa phương về môi trường.
Ở cấp độ quốc tế, Nghị định thư Kyoto, trong đó yêu cầu các bên gây ô nhiễm phải chịu chi phí của việc giảm phát thải khí nhà kính, là một ví dụ về ứng dụng của PPP. Tại Mỹ, đạo luật về bảo tồn tài nguyên và thu hồi sản phẩm (RCRA) cũng như pháp luật về siêu quỹ (Superfund) là một ví dụ tiêu biểu của việc áp dụng PPP. Ở Nam Phi, PPP được áp dụng thông qua chính sách quản lý môi trường và thông qua các nội dung thể hiện trong Luật Quản lý môi trường quốc gia. Tại Bangladesh, PPP được thể chế hóa trong các quy định của Luật BVMT năm 1995. Chính phủ Ấn Độ đã chấp nhận PPP vào năm 2006, trong khi Thái Lan đã thông qua PPP vào năm 1992 trong Luật Môi trường và các chiến lược BVMT cũng như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. PPP cũng là nền tảng của pháp luật môi trường quốc tế về vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới. Tuy nhiên, nguyên tắc này vẫn còn chưa được tôn trọng đầy đủ ở nhiều nước đang phát triển. Chính quyền các quốc gia này ít quan tâm để PPP được đề cập trong pháp luật môi trường và hiếm khi được thực hiện trên thực tế.
1.2. Nội dung của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
Nội dung cơ bản của PPP được thể hiện ngay trong tên gọi của nó, đó là các chủ thể gây ra ô nhiễm môi trường phải chịu chi phí cho việc khắc phục, cải thiện môi trường bị ô nhiễm. Những người khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, những người có hành vi xả thải vào môi trường cũng như những người có hành vi khác gây tác động xấu tới môi trường đều phải trả tiền.
Theo PPP thì người gây ô nhiễm phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền thực hiện, nhằm đảm bảo các điều kiện môi trường ở mức chấp nhận được đối với sự tồn tại và phát triển. PPP đòi hỏi các chi phí giải quyết ô nhiễm sẽ do những người gây ra nó phải trả. Mục tiêu trước hết của nó là tiếp thu các yếu tố ngoại ứng về môi trường của hoạt động kinh tế, do đó giá cả hàng hóa và dịch vụ phải phản ánh đầy đủ các chi phí về môi trường. Các bên gây ô nhiễm (được phép thực hiện) nhưng phải trả tiền cho những thiệt hại mà họ gây ra cho môi trường tự nhiên.
Lúc mới ra đời, PPP được xem là cách thức chuyển trách nhiệm xử lý chất thải từ các chính phủ (mà người đóng thuế để xử lý ô nhiễm chính là nhân dân) sang cho các chủ thể đã gây ra ô nhiễm. Bất kể một doanh nghiệp nào, trong quá trình hoạt động sản xuất sản xuất kinh doanh mà thải ra các loại chất độc hại gây ô nhiễm môi trường, đều phải trả tiền. Theo nguyên tắc này, người gây ô nhiễm môi trường, cho dù là người sản xuất hay là người tiêu dùng, phải chịu trách nhiệm về các chi phí để khắc phục những tổn thất về môi trường mà chính họ gây ra; nói cụ thể hơn là người gây ô nhiễm môi trường phải nộp một số tiền tương ứng với mức ô nhiễm môi trường mà họ gây ra. Do trong nhiều trường hợp các tổ chức, cá nhân có thể thay đổi hành vi của mình theo hướng tránh hoặc làm giảm được mức độ ô nhiễm, nên việc xử lý ô nhiễm cần được tài trợ bởi chính những người đã gây ra nó. PPP đòi hỏi người gây ô nhiễm phải chịu các chi phí phòng ngừa, kiểm soát và làm sạch ô nhiễm.
PPP xuất phát từ những luận điểm khoa học của Pigou[4] về nền kinh tế phúc lợi. Trong đó, nội dung quan trọng nhất đối với một nền kinh tế lý tưởng là giá cả các loại hàng hoá và dịch vụ có thể phản ánh đầy đủ các chi phí xã hội, kể cả các chi phí môi trường (bao gồm các chi phí chống ô nhiễm, khai thác tài nguyên cũng như những dạng ảnh hưởng khác tới môi trường). Giá cả phải “nói lên sự thật” về những chi phí sản xuất và tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ. Nếu không sẽ dẫn đến việc sử dụng bừa bãi các nguồn tài nguyên, làm cho ô nhiễm trở nên trầm trọng hơn so với mức tối ưu đối với xã hội. Nguyên tắc này chủ trương sửa chữa những bất cập do không tính chi phí môi trường trong giá thành hàng hóa và dịch vụ hoặc tính thiếu bằng cách bắt buộc những người gây ô nhiễm phải tiếp thu đầy đủ chúng vào chi phí sản xuất. Với tư cách là một trong các nguyên tắc cơ bản và chủ yếu của công tác quản lý môi trường ở nhiều quốc gia trên thế giới, PPP yêu cầu những người gây ô nhiễm phải trả tiền cho các tổn thất do ô nhiễm môi trường gây ra và các chi phí xử lý, hồi phục môi trường bị ô nhiễm, đồng thời người sử dụng các thành phần của môi trường cũng phải trả tiền cho việc sử dụng gây ra ô nhiễm đó.
Trong chính sách và pháp luật môi trường quốc tế, nguyên tắc có mối liên hệ gần gũi nhất với PPP là nguyên tắc “Người hưởng lợi phải trả tiền” (The Benefit Pays Principle, viết tắt là BPP). Khác với việc người gây ô nhiễm phải trả tiền, người hưởng thụ một môi trường đã được cải thiện cũng phải trả một khoản phí. Có thể hiểu nguyên tắc này là tất cả những ai hưởng lợi do có được môi trường trong lành, không bị ô nhiễm thì đều phải trả tiền. Nguyên tắc này đưa ra giải pháp cho vấn đề môi trường với một cách nhìn nhận riêng, nó chủ trương rằng việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần phải được hỗ trợ từ phía những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho việc gây ô nhiễm.
1.3. Các hình thức thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
Các hình thức trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm theo PPP được quy định trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới gắn liền với cách hiểu về chủ thể gây ô nhiễm và các căn cứ tính số tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm theo nguyên tắc này. Theo đó, người phải trả tiền theo PPP là người gây ô nhiễm hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những chủ thể khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên (được xác định chủ yếu vào mục đích, quy mô của việc sử dụng và ảnh hưởng đến môi trường của việc sử dụng), người có hành vi xả thải vào môi trường và người có những hành vi khác gây tác động xấu tới môi trường theo quy định của pháp luật (gây ô nhiễm trong phạm vi khuôn khổ pháp luật cho phép).
Không phải mọi trường hợp gây ô nhiễm môi trường đều phải trả tiền. Những trường hợp không phải trả tiền phụ thuộc vào pháp luật của mỗi quốc gia, thông thường là những chủ thể khai thác, sử dụng môi trường, tác động vào môi trường để phục vụ cho nhu cầu thiết yếu mang tính tự nhiên thì không phải trả tiền. Ví dụ, Điều 24 Luật Tài nguyên nước năm 1998 của Việt Nam quy định những trường hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước với quy mô nhỏ trong phạm vi gia đình hoặc khai thác, sử dụng không nhằm mục đích kinh doanh thì không phải thực hiện nghĩa vụ tài chính (sau này được tiếp tục quy định lại trong Điều 44 Luật Tài nguyên nước 2012). Như vậy có thể hiểu, họ cũng không phải trả tiền mặc dù có hành vi khai thác, sử dụng tài nguyên.
Theo PPP thì những chủ thể gây ra ô nhiễm phải chịu chi phí cho việc cải thiện môi trường bị ô nhiễm. Điều đó là hiển nhiên, nhưng vấn đề quan trọng là số tiền mà người gây ô nhiễm phải trả sẽ được tính toán theo các căn cứ nào. Trong thực tế, việc đưa ra cách thức tính toán hợp lý đối với số tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là việc lựa chọn các chỉ tiêu thích hợp với mỗi loại sản phẩm của từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh, để trên cơ sở đó tính toán một cách chính xác số tiền phải nộp là vấn đề rất nan giải. Thực tiễn áp dụng PPP ở các nước cho thấy số tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm thường được tính theo các cách thức: i) Tiền phải trả có thể được tính căn cứ vào khối lượng tiêu thụ các nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào; ii) dựa vào khối lượng sản phẩm được sản xuất ra; iii) mức độ gây ô nhiễm môi trường của hành vi đó; hoặc iv) số tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm còn có thể được tính căn cứ vào lợi nhuận của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là mỗi quốc gia phải sử dụng các phương pháp tính thích hợp để vừa đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN), vừa khuyến khích được doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, chú trọng vào việc xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường.
Ở Việt Nam đang tồn tại các hình thức trả tiền theo PPP như sau: tiền phải trả cho việc khai thác tài nguyên (thuế tài nguyên, đấu giá quyền khai thác tài nguyên), thuế môi trường, phí BVMT (đối với nước thải, chất thải rắn, khai thác khoáng sản), tiền phải trả cho việc sử dụng dịch vụ (dịch vụ thu gom rác, dịch vụ quản lý chất thải nguy hại,…), tiền phải trả cho việc sử dụng cơ sở hạ tầng (tiền thuê kết cấu hạ tầng trong khu công nghiệp bao gồm cả tiền thuê hệ thống xử lý chất thải tập trung), ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên,...[5]
Cần phân biệt các hình thức trả tiền theo PPP với tiền phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường. Đây là khoản tiền mà các tổ chức, cá nhân phải nộp khi có các hành vi vi phạm các quy định quản lý Nhà nước trong lĩnh vực BVMT do được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị phạt tiền, cụ thể là các hành vi vi phạm các quy định về thực hiện phòng, chống, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, về thực hiện cam kết BVMT, báo cáo đánh giá tác động môi trường và các quy định khác về BVMT. Như vậy, các hình thức trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm theo PPP có đặc điểm quan trọng là hành vi gây ô nhiễm còn trong giới hạn cho phép của pháp luật, trong khi tiền phạt vi phạm hành chính chỉ nảy sinh khi có hành vi vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực BVMT nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong khi các hình thức trả tiền theo PPP phải có hậu quả là gây ô nhiễm môi trường (theo nghĩa rộng), thì các chủ thể vi phạm quy định pháp luật hành chính về lĩnh vực BVMT, dù hành vi đó có gây tác động xấu cho môi trường hay chưa vẫn phải chịu tiền phạt.
Cũng cần phải tách bạch giữa các hình thức trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm theo PPP với tiền bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi. Ta đã biết quyền chủ thể là cách xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể được tiến hành. Nói cách khác, quyền chủ thể là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép. Trong các hình thức trả tiền theo PPP, các chủ thể có quyền gây ô nhiễm trong phạm vi pháp luật cho phép và ngược lại, họ phải có nghĩa vụ trả tiền cho các hành vi đó. Trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm theo PPP là nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể, là cách xử sự mà Nhà nước bắt buộc họ phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác. Nghĩa vụ pháp lý tự nó không phải là hành vi mà chỉ là sự cần thiết phải xử sự như vậy. Nếu sự cần thiết ấy được thể hiện trong hoạt động thực tiễn thì nghĩa vụ pháp lý đó đã được thực hiện. Không có quyền nằm ngoài mối liên hệ với nghĩa vụ đảm bảo cho quyền đó được thực hiện. Trong khi đó, bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả bất lợi đối với các chủ thể, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước với các chủ thể, nhằm buộc bên gây ra thiệt hại cho chủ thể khác phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù những tổn thất về vật chất và tinh thần mà họ gánh chịu theo quy định của pháp luật. Theo đó, những người có hành vi gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường, làm suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường, tổn hại đến sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường cho chính những hành vi ấy. Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - một trong những chế định có lịch sử lâu đời nhất của pháp luật dân sự.
2. Thuế bảo vệ môi trường - hình thức thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
2.1. Khái quát về thuế môi trường
Cụm từ “thuế môi trường” lần đầu tiên được quy định trong Luật BVMT 2005, như một trong những nguồn tài chính cho hoạt động BVMT. Theo đó “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh một số loại sản phẩm gây tác động xấu, lâu dài đến môi trường và sức khoẻ con người thì phải nộp thuế môi trường”[6]. Sau đó, Quốc hội thông qua Luật Thuế BVMT, chính thức luật hóa các nội dung chi tiết của loại thuế này[7]. Theo đó, thuế BVMT là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hoá khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường[8].
Mục đích chủ yếu của việc sử dụng công cụ thuế BVMT là nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp trong xã hội về ý thức BVMT, từ đó góp phần thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng sản phẩm gây ô nhiễm môi trường khi sử dụng. Thuế BVMT thu trên đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm để buộc người tiêu dùng lựa chọn các sản phẩm ít ô nhiễm hơn, với giá cao hơn ở mức hợp lý hoặc hạn chế tiêu dùng (sử dụng tiết kiệm hơn) của sản phẩm gây ô nhiễm. Nó buộc các chủ thể gây ô nhiễm và các chủ thể liên đới phải chịu trách nhiệm về chi phí do hoạt động gây ô nhiễm của họ. Thuế BVMT còn góp phần thực hiện mục tiêu khác về môi trường như khuyến khích các hành vi “sạch hơn”, khuyến khích thực hiện các cuộc “cách mạng” thân thiện với môi trường, làm tăng giá sản phẩm, hàng hoá. Từ đó, có thể sử dụng thuế để kích thích và điều chỉnh sản xuất và tiêu dùng theo hướng BVMT. 
Thuế BVMT thúc đẩy việc cải cách và đổi mới công nghệ. Nếu đánh thuế BVMT mà giá nhiên liệu tăng thì điều này sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu tìm ra các nguồn năng lượng mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Điều đó có thể dẫn tới việc ra đời của các công nghệ, chu trình và sản phẩm mới. Rõ ràng thuế BVMT có thể giúp chuyển dịch nền kinh tế theo hướng sử dụng có hiệu quả đối với các loại năng lượng và nguồn lực bằng việc tăng giá sản phẩm tự nhiên.
Thuế BVMT làm tăng giá sản phẩm, hàng hoá. Từ đó, có thể sử dụng thuế để kích thích và điều chỉnh sản xuất và tiêu dùng theo hướng BVMT. Đối với cả người tiêu dùng (muốn mua với giá thấp hơn) và nhà sản xuất (bán được nhiều sản phẩm hơn, lợi nhuận cao hơn) thì thuế BVMT sẽ có nhiều tác dụng khuyến khích, điều chỉnh định hướng sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường hơn. Tuy nhiên, giá cả chỉ là một trong nhiều yếu tố tác động tới hành vi của nền kinh tế. Thành công của thuế BVMT trong việc điều chỉnh hành vi kinh tế còn phụ thuộc vào từng thị trường cụ thể đối với từng đối tượng đánh thuế. Nếu không có biện pháp hữu ích nào khả dĩ có thể giúp giảm lượng tiêu thụ năng lượng hoá thạch để thay thế, thì việc áp dụng biện pháp tăng giá năng lượng thông qua thuế BVMT sẽ đem lại hiệu quả rất ít, nếu không muốn nói là không đem lại kết quả gì trong nỗ lực thay đổi hành vi tiêu dùng năng lượng hoá thạch của các tác nhân trong nền kinh tế. Tương tự, nếu không kết hợp việc tạo ra các sản phẩm đủ sức cạnh tranh, thay thế, tin cậy và an toàn khác (như giao thông công cộng, xe đạp,...), nếu chỉ áp dụng riêng lẻ thuế BVMT làm tăng giá xăng dầu thì hiệu quả điều chỉnh hành vi sử dụng ô tô, xe máy là rất thấp. Không thể quá kỳ vọng vào việc sử dụng công cụ thuế trong trường hợp này. Trong các trường hợp như vậy, hoặc phải áp dụng thuế rất cao, hoặc phải sử dụng các biện pháp khác như hỗ trợ sử dụng hiệu quả năng lượng, nâng cao chất lượng, tiện nghi, đa dạng hoá giao thông công cộng thì mới có thể làm thay đổi hành vi của người tiêu dùng. Vai trò của Nhà nước là rất rõ nét và quan trọng. Điều này giải thích tại sao thuế BVMT sẽ phát huy hiệu quả cao khi chính sách thuế đồng bộ với các chính sách khác về chống ô nhiễm, BVMT.
Như vậy, việc đánh thuế BVMT góp phần nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân đối với môi trường. Thuế BVMT góp phần hạn chế sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây ô nhiễm; khuyến khích người tiêu dùng sử dụng sản phẩm thay thế hoặc hạn chế tiêu dùng sản phẩm gây ô nhiễm. Từ đó, giúp tiết kiệm cá nhân, tiết kiệm xã hội, giảm ô nhiêm môi trường, giảm chi phí xử lý ô nhiễm. Thuế BVMT nâng cao ý thức BVMT trong đầu tư, sản xuất và tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân; khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm bớt các tác động tiêu cực của sản xuất, tiêu dùng đến môi trường, giảm thiểu ô nhiễm và suy thoái về môi trường. Hơn nữa, thuế mang lại nguồn thu nhất định cho ngân sách để đầu tư cải tạo môi trường. Thay đổi nhận thức của người dân về về vai trò của môi trường là mục tiêu lớn nhất mà các chính sách đang hướng tới. Thuế BVMT góp phần hạn chế sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây ô nhiễm của các tổ chức, cá nhân; khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm bớt các tác động tiêu cực đến môi trường. Từ đó, hướng tới một sự phát triển bền vững, phát triển kinh tế gắn với BVMT.
2.2. Quy định về chế độ tạo lập, quản lý và sử dụng thuế BVMT cho hoạt động BVMT
Về đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế theo Luật thuế BVMT là những hàng hoá được sản xuất, nhập khẩu mà khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Trên nguyên tắc chung thì việc đưa các sản phẩm, hàng hoá (gọi chung là hàng hoá) vào đối tượng chịu thuế BVMT phải thỏa mãn: i) phải là những hàng hoá được sản xuất, nhập khẩu mà khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường; ii) phải phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia và với thông lệ quốc tế; iii) phải đảm bảo tính khả thi; và iv) phải tính đến sự hài hoà với việc phát triển kinh tế, không tác động đến năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam, đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu.
Luật thuế BVMT đã đưa năm nhóm hàng hoá vào diện chịu thuế BVMT (đây là năm nhóm hàng hóa lớn mà khi sử dụng gây ô nhiễm trên diện rộng)[9], bao gồm:
a) Đối với xăng, dầu, mỡ nhờn: Đây là các sản phẩm có chứa chì, lưu huỳnh, benzen, cadimi, bari, hydrocacbon thơm, hydrocacbon nặng và một số chất phụ gia, ngay cả khi chưa được sử dụng các chất chứa trong các loại xăng dầu đã phát thải ra môi trường và gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khoẻ con người. Xăng dầu gây ảnh hưởng rất lớn đến môi trường và có phạm vi sử dụng rộng rãi, với số lượng lên đến 15 triệu tấn/năm, nên nguy cơ ô nhiễm môi trường cũng diễn ra trên diện rộng. Việc đưa các sản phẩm xăng dầu vào đối tượng chịu thuế nhằm mục tiêu khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới cũng áp dụng thuế BVMT đối với xăng dầu.
b) Đối với than đá: Khi than được sử dụng cho mục đích đốt cháy sẽ thải ra môi trường các loại khí như CO2, SO2,... đều là các khí gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người. Phạm vi sử dụng than đá cũng rộng khắp và với khối lượng gần 30 triệu tấn/năm. Việc đưa than đá vào đối tượng chịu thuế cũng nhằm mục tiêu khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; giảm sự phụ thuộc vào năng lượng có nguồn gốc hoá thạch, khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo.
c) Đối với môi chất làm lạnh chứa hydro-chloro-fluoro-carbon (Dung dịch HCFC): được sử dụng trong một số lĩnh vực công nghiệp như: làm lạnh, điều hoà không khí... Sự phát thải chất HCFC vào khí quyển làm ô nhiễm bầu không khí, là nguyên nhân chính làm suy giảm tầng ôzôn và gây hiệu ứng nhà kính. Nước ta đã tham gia phê chuẩn Nghị định thư Montreal về hạn chế sử dụng các chất làm suy giảm tầng ôzôn, Nghị định thư Kyoto về cắt giảm khí nhà kính. Mức tăng trưởng của ngành công nghiệp làm lạnh và điều hoà không khí với lượng tiêu thụ các chất HCFC tăng nhanh liên tục sẽ đặt ra nhiều thách thức cho tiến trình loại trừ HCFC ở nước ta. Việc đưa chất HCFC vào đối tượng chịu thuế BVMT sẽ góp phần vào việc thực hiện cam kết quốc tế, khuyến khích doanh nghiệp giảm dần sử dụng HCFC bằng việc chuyển đổi công nghệ sản xuất.
d) Đối với túi ni long (túi nhựa xốp): Là loại túi được làm từ màng nhựa đơn HDPE (High Density Polyethilene resin) hoặc LLDPE (Linear Low Density Polyethilen resin). Túi nhựa xốp phải trải qua thời gian rất lâu để phân hủy, có thể tới hàng trăm năm hoặc không thể tự phân hủy được. Túi nhựa xốp thải bỏ sau khi sử dụng sẽ tích tụ trong đất làm suy thoái môi trường đất. Khi bị phân hủy thì còn sinh ra các chất làm đất bị trơ, không giữ được độ ẩm và dinh dưỡng cho cây trồng. Việc sử dụng và xả thải túi nhựa xốp sau khi sử dụng diễn ra khắp mọi nơi từ thành thị đến nông thôn gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng. Việc đưa túi nhựa xốp vào đối tượng chịu thuế nhằm mục tiêu nâng cao ý thức BVMT của toàn xã hội, từ đó góp phần thay đổi hành vi của người tiêu dùng trong việc sử dụng túi nhựa xốp, khuyến khích sản xuất các sản phẩm thay thế thân thiện hơn với môi trường.
e) Đối với thuốc bảo vệ thực vật thuộc nhóm hạn chế sử dụng: Đây là những hợp chất có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc tổng hợp từ các chất hóa học được dùng để phòng trừ dịch hại trên cây trồng và bảo quản nông sản. Hiện nay, việc sử dụng đúng cách, đúng liều lượng thuốc bảo vệ thực vật chưa được quan tâm do giá của nhiều loại còn tượng đối rẻ so với giá nông sản. Những hành vi sử dụng không đúng cách, không đúng liều lượng hóa chất bảo vệ thực vật có thể ảnh hưởng tới môi trường theo rất nhiều cách, ví dụ như các hoá chất lơ lửng trong không khí khi phun thuốc hay tồn tại trong các loại thực phẩm, trong nước, đất... Việc đưa hoá chất bảo vệ thực vật thuộc nhóm hạn chế sử dụng vào đối tượng chịu thuế nhằm nâng cao nhận thức của người sử dụng, khuyến khích họ thay đổi thói quen sử dụng lạm dụng, giảm thiểu những tác hại xấu của hoá chất bảo vệ thực vật đối với môi trường.
Người nộp thuế
Người nộp thuế BVMT được quy định tại Điều 5, Luật Thuế BVMT. Theo đó, người nộp thuế BVMT là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế. Trường hợp uỷ thác nhập khẩu hàng hoá thì người nhận uỷ thác nhập khẩu là người nộp thuế. Trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân làm đầu mối thu mua than khai thác nhỏ, lẻ mà không xuất trình được chứng từ chứng minh hàng hoá đã được nộp thuế BVMT thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân làm đầu mối thu mua là người nộp thuế.
Mức thuế suất
Thuế suất đối với nhóm đối tượng chịu thuế là xăng, dầu, mỡ nhờn: biên độ khung thuế suất đối với xăng, dầu, mỡ nhờn là khá rộng; mức thuế suất cao nhất là 4.000 đồng/lít được áp dụng đối với xăng, trừ etanol; mức thuế suất thấp nhất là 300 đồng/lít hoặc kilogam. Quy định về biên độ dao động của các mức thuế suất có thể tạo sự chủ động, linh hoạt trong vấn đề nộp thuế và chính sách điều hành nền kinh tế.
Thuế suất đối với nhóm đối tượng chịu thuế là than đá: mức thuế suất cao nhất là than an-tra-xít, với mức thuế suất là 50.000 đồng/tấn, mức thuế nhất thấp nhất là 10.000 đồng/ tấn, được áp dụng đối với than nâu, than mỡ và các loại than đá khác. 
Thuế suất đối với dung dịch Hydro-chloro-carbon (HCFC): mức thuế suất được quy định dao động từ 1.000 - 5.000 đồng/kg là khá cao; tuy nhiên biên độ mức thuế là rất rộng nên dễ tạo ra sự tuỳ tiện đối với việc thu thuế.
Thuế suất đối với túi ni lông thuộc diện chịu thuế từ 30.000 - 50.000 đồng/kg. Việc quy định mức thuế suất này là khá cao như vậy sẽ có tác động giảm đáng kể việc phát không thu tiền túi ni lông. Từ đó, tác động đến sản xuất, buộc các nhà sản xuất túi ni lông phải có phương án chuyển đổi sản xuất sản phẩm khác.
Thuế suất đối với thuốc diệt cỏ, thuốc trừ mối, thuốc bảo quản lâm sản, thuốc khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng. Việc thu thuế sẽ làm tăng chi phí sản xuất, phần nào đó sẽ gây khó khăn khó khăn cho hoạt động sản xuất của người nông dân. Do đó, Luật chỉ quy định mức thuế chỉ với mức thấp nhất là từ 500 đồng/kg và cao nhất chỉ 3.000 đồng/kg. Quy định mức thuế đối với nhóm đối tượng này để nhằm nâng cao ý thức của người nông dân, hướng nông dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hợp lý hơn.
Tuy nhiên, các mức biến độ khung thuế suất quy định tại khoản 1 Điều 8, Luật Thuế BVMT là quá rộng đối với hầu hết các nhóm hàng, mặt hàng. Chẳng hạn, mức thuế suất đối với các loại than đá là từ 10.000 - 50.000 đồng/tấn và đối với xăng, dầu, mỡ nhờn là từ 300 - 4.000 đồng/lít… Để khắc phục điều này, cần thiết phải chia nhỏ các nhóm hàng ra, có khung thuế suất riêng đối với từng mặt hàng. Và theo quy định tại khoản 2 Điều 8, Luật Thuế BVMT 2010 thì căn cứ vào Biểu khung thuế quy định tại khoản 1 Điều 8, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) quy định mức thuế cụ thể đối với từng loại hàng hoá chịu thuế và đảm bảo các nguyên tắc: mức thuế đối với hàng hoá chịu thuế phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ và mức thuế đối với hàng hoá chịu thuế được xác định theo mức độ gây tác động xấu đến môi trường của hàng hoá.
Căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế
Căn cứ tính thuế được quy định tại Điều 6 Luật Thuế BVMT 2010, theo đó căn cứ tính thuế BVMT là số lượng hàng hoá tính thuế và mức thuế tuyệt đối. Số lượng hàng hoá được quy định như sau: đối với hàng hoá sản xuất trong nước, số lượng hàng hoá tính thuế là số lượng hàng hoá sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng nội bộ, tặng cho; đối với hàng hoá nhập khẩu, số lượng hàng hoá tính thuế là số lượng hàng hoá nhập khẩu và mức thuế tuyệt đối để tính thuế được quy định tại Điều 8 của Luật Thuế BVMT.
Phương pháp tính thuế là số thuế BVMT phải nộp bằng số lượng đơn vị hàng hoá chịu thuế nhân với mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hoá.
Khai thuế, tính thuế và nộp thuế
Việc khai thuế, tính thuế, nộp thuế BVMT đối với hàng hoá sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng nội bộ, tặng cho được thực hiện theo tháng và theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Việc khai thuế, tính thuế, nộp thuế BVMT đối với hàng hoá nhập khẩu được thực hiện cùng thời điểm với khai thuế và nộp thuế nhập khẩu.
Thuế BVMT chỉ nộp một lần đối với hàng hoá sản xuất hoặc nhập khẩu và nộp vào NSNN tại Kho bạc nhà nước, tại cơ quan quản lý thuế nơi tiếp nhận hồ sơ khai thuế, thông qua tổ chức được cơ quan quản lý thuế ủy nhiệm thu thuế hoặc thông qua ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác và tổ chức dịch vụ theo quy định của pháp luật. Tiền thu được hạch toán toàn bộ vào NSNN và được chi cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của Luật NSNN.
Luật Thuế BVMT là một sắc thuế như những sắc thuế khác trong các loại sắc thuế của hệ thống pháp luật thuế nước ta. Toàn bộ tiền thuế thu được từ thuế BVMT cũng được hạch toán thu, chi theo các quy định của pháp luật về thuế và pháp luật về NSNN, được nộp vào NSNN và dùng để chi cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có nhiệm vụ chi cho hoạt động BVMT. Nhưng theo quy định tại Điều 110, Luật BVMT 2005 thì nguồn tài chính cho hoạt động BVMT lại bao gồm hai loại nguồn vốn riêng biệt, được quy định tại hai điểm khác nhau, đó là NSNN và thuế BVMT. Việc quy định như vậy là nhằm khẳng định hơn nữa vai trò của Luật Thuế BVMT, một mặt nó tạo nguồn thu đáng kể cho NSNN, mặt khác mục đích quan trọng và chủ yếu của Luật Thuế BVMT là nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân trong xã hội ý thức BVMT, từ đó góp phần thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng sản phẩm gây ô nhiễm môi trường khi sử dụng. Thuế BVMT thu trên đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm để buộc người tiêu dùng lựa chọn các sản phẩm ít ô nhiễm hơn, với giá cao hơn mức hợp lý hoặc hạn chế tiêu dùng (sử dụng tiết kiệm hơn) của sản phẩm gây ô nhiễm.
3. Kiến nghị sửa đổi Luật Thuế bảo vệ môi trường
Luật Thuế BVMT đã quy định được nhiều vấn đề, điều chỉnh cơ bản những hoạt động có tác động tới môi trường, quy định được nhiều vấn đề quan trọng về đối tượng chịu thuế, mức thuế suất, phương pháp tính thuế… Tuy nhiên, đối chiếu với mục tiêu, yêu cầu đặt ra thì vẫn còn nhiều nội dung cần phải được tiếp tục sửa đổi và bổ sung.
Thứ nhất, về tên gọi cần có sự đồng nhất trong cách sử dụng thuật ngữ “thuế môi trường” hoặc “thuế BVMT”, nhất là trong điều kiện Luật BVMT đang tiếp tục được sửa đổi. Theo chúng tôi, trong điều kiện việc áp dụng sắc thuế còn mới mẻ này, thì nên sử dụng cụm từ “thuế môi trường” phù hợp hơn. Sử dụng cụm từ này sẽ hiểu bao quát về hoạt động BVMT nói riêng, cùng với các hoạt động khai thác, sử dụng các sản phẩm gây tác động xấu đến môi trường cần phải trả tiền theo PPP như đã phân tích về mặt lý luận ở trên.
Thứ hai, về đối tượng chịu thuế, các quy định về đối tượng chịu thuế phải bao hàm mọi sản phẩm, hàng hóa gây tác động tiêu cực đến môi trường. Điều này Luật đã không làm được, tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, qua một thời gian áp dụng Luật, có thể xem xét, lựa chọn những đối tượng phù hợp với trình độ phát triển, khả năng chịu đựng của nền kinh tế. Việc đưa vào diện chịu thuế một loại sản phẩm còn cân nhắc đến khả năng thực hiện được của nhà sản xuất, của cơ quan quản lý và tính khả thi của Luật. Hơn nữa, việc đánh thuế còn phải tính đến khả năng chịu đựng của người sản xuất và tiêu dùng, tính đến lợi ích trong lựa chọn giữa BVMT và phát triển kinh tế.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, chỉ nên lựa chọn những sản phẩm có ảnh hưởng tới môi trường trên diện rộng và xác định mức thuế hợp lý, đảm bảo khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, cũng như khả năng tiêu dùng của người dân. Trên thực tế có rất nhiều sản phẩm khi sử dụng, thải bỏ đều gây ô nhiễm môi trường, nhưng mức độ gây ô nhiễm khác nhau. Tuy vậy, để bảo đảm tính thuyết phục của Luật, cần phải lý giải cụ thể về căn cứ xác định đối tượng chịu thuế, đối tượng chưa thuộc diện chịu thuế trong khi có rất nhiều sản phẩm cùng gây ô nhiễm môi trường. Để bảo đảm tính bao quát, công bằng của quy định về đối tượng chịu thuế, cần phải rà soát lại danh mục hàng hóa, khảo sát thêm thực tiễn, bổ sung các đối tượng chịu thuế dựa trên nguyên tắc đã là sản phẩm gây tác động tiêu cực đến môi trường thì phải thuộc diện chịu thuế. Đối với những sản phẩm, hàng hóa có mức độ tác động không lớn hoặc hàng hóa có gây ô nhiễm song tại thời điểm hiện nay cần hỗ trợ để bảo đảm tính cạnh tranh thì trước mắt có thể áp dụng thuế suất thấp hoặc quy định mức thuế suất 0% để xử lý linh hoạt trong một số trường hợp cần thiết, tránh tình trạng phải sửa đổi, bổ sung, bảo đảm tính ổn định của Luật.
Về tính cụ thể trong quy định về đối tượng chịu thuế: Luật cho phép Chính phủ quy định chi tiết về đối tượng chịu thuế bằng văn bản dưới luật. Việc xác định đối tượng chịu thuế là một trong những vấn đề cốt lõi, cơ bản của một đạo luật về thuế, liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của nhiều tổ chức, cá nhân. Do đó, nội dung này phải được xác định cụ thể ngay trong Luật nhằm bảo đảm tính minh bạch, thuận tiện trong áp dụng chính sách. Vì vậy, cần phải rà soát, bổ sung các quy định chi tiết nhằm làm rõ đối tượng chịu thuế. Ngoài ra, một trong những mục tiêu đặt ra đối với việc ban hành Luật thuế BVMT là bằng việc thu thuế BVMT sẽ khai thác nguồn thu cho NSNN, tạo nguồn lực đầu tư cho việc khắc phục hậu quả, cải thiện môi trường. Do đó, nếu đối tượng chịu thuế được quy định trong Luật quá hẹp thì khó có thể đáp ứng được mục tiêu này.
Thứ ba, về căn cứ tính thuế BVMT là số lượng hàng hoá tính thuế và mức thuế tuyệt đối. Quy định về số lượng hàng hóa tính thuế còn sơ sài. Về phương pháp xác định số lượng hàng hóa tính thuế, để tạo căn cứ rõ ràng trong tổ chức thực hiện, cần thiết phải quy định cụ thể về phương pháp xác định số lượng hàng hóa tính thuế trong các trường hợp: không xác định cụ thể được số lượng hàng hóa tính thuế (cơ quan thuế được phép ấn định số lượng theo các tiêu chí, định mức hay không); trường hợp sản phẩm được mua bán qua nhiều khâu như thu mua gom (cách xác định sản lượng tính thuế ở từng khâu); trường hợp sản phẩm dùng để sản xuất ra sản phẩm khác trong cùng một doanh nghiệp (khai thác than để sản xuất điện)…
Thứ tư, về căn cứ xác định khung thuế suất, việc xác định thuế suất thuế BVMT là vấn đề cốt lõi và phức tạp, phải được dựa trên những luận cứ khoa học chặt chẽ, căn cứ thực tiễn xác đáng. Tuy nhiên, có thể thấy các tiêu chí để xây dựng khung thuế suất đối với một số đối tượng chịu thuế như trong Luật Thuế BVMT là chưa đủ căn cứ thực tiễn nên tính thuyết phục chưa cao. Việc xác định khung thuế suất đối với một số mặt hàng như xăng, dầu, than... dựa trên mức phí BVMT là chưa hợp lý vì tính chất điều tiết của hai công cụ là khác nhau. Mặt khác, phí BVMT xác định mức thu cụ thể, nhưng thuế BVMT lại quy định khung thuế suất. Vì vậy, để các quy định của Luật mang tính thuyết phục, điều cần làm là phải lý giải rõ căn cứ tính thuế, tác động về kinh tế - xã hội, mức độ gây ô nhiễm môi trường đối với từng mặt hàng dựa trên những luận cứ khoa học, có số liệu minh chứng cụ thể, tránh tình trạng áp dụng thuế suất chủ quan, không bảo đảm công bằng trong áp dụng chính sách. Cần áp dụng mức thuế suất cao đối với sản phẩm gây ô nhiễm môi trường mà có sản phẩm khác thay thế nhằm khuyến khích sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường, góp phần thay đổi hành vi tiêu dùng, thói quen sử dụng. Tuy nhiên, đối với sản phẩm không có sản phẩm khác thay thế thì cần cân nhắc áp dụng thuế suất không cao; tránh làm tăng giá sản phẩm, gây bất lợi cho người tiêu dùng.
Thứ năm, về thẩm quyền xác định thuế suất trong khung thuế suất, theo quy định thì Quốc hội quy định khung thuế suất, UBTVQH sẽ quy định các mức thuế suất cụ thể. Việc giao UBTVQH quy định các mức thuế suất cụ thể là hợp lý, bảo đảm tính linh hoạt trong điều hành, phù hợp với biến động trong điều kiện kinh tế chưa ổn định. Tuy nhiên, Luật Thuế BVMT không nên quy định khung thuế suất mà cần phải quy định mức thuế suất cụ thể ngay trong Luật nhằm bảo đảm nguyên tắc thuế suất do Quốc hội quyết định để áp dụng ổn định. Riêng đối với trường hợp đặc thù như xăng dầu, than, để bảo đảm lộ trình thực hiện phù hợp với tình hình biến động giá cả và đáp ứng việc thực hiện cam kết quốc tế thì có thể quy định khung thuế suất và giao UBTVQH quyết định mức thuế suất trong từng thời kỳ.
Thứ sáu, việcquy địnhbiên độ khung thuế suất là quá rộng đối với hầu hết các nhóm hàng, mặt hàng. Để khắc phục điều này, cần phải chia nhỏ các nhóm hàng ra, có khung thuế suất riêng đối với từng mặt hàng; đối với hàng hóa chịu sự biến động lớn về giá thì có thể quy định biên độ rộng, còn đối với những mặt hàng khác cần thu hẹp biên độ lại.
Việc ban hành và áp dụng Luật Thuế BVMT phải tạo ra được công cụ quản lý vĩ mô hữu hiệu nhằm xác định và bảo đảm việc thực hiện trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân gây tác động tiêu cực đến môi trường; nâng cao nhận thức của người dân trong việc thực hiện nghĩa vụ BVMT; hạn chế tối đa ảnh hưởng của sản xuất, kinh doanh đến môi trường. Các quy định của Luật phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam, một mặt động viên hợp lý nguồn thu cho khắc phục hậu quả môi trường nhưng mặt khác vẫn phải bảo đảm sức cạnh tranh của môi trường đầu tư, ổn định thị trường, giá cả, kiềm chế lạm phát, không xáo trộn sản xuất, kinh doanh trong nước, đặc biệt không làm tăng gánh nặng tài chính từ chính sách đối với người tiêu dùng, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước với nhân dân. Điều này phải được đặt trong mối quan hệ tổng thể với các quy định của pháp luật có liên quan, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của toàn hệ thống, phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo đảm việc thực hiện cam kết quốc tế./.
 

[1]Một số tài liệu sử dụng thuật ngữ “Người gây ô nhiễm phải trả giá”, “Người gây ô nhiễm phải trả”. Theo cách hiểu của chúng tôi, “giá” ở đây được cụ thể thành tiền các chủ thể bỏ ra để mua quyền tác động, khai thác các yếu tố môi trường; nên sử dụng thuật ngữ “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” dễ tiếp cận hơn.
[2]Hiện nay, có nhiều quan điểm về các nguyên tắc cơ bản của Luật Môi trường. Theo chúng tôi, Luật Môi trường có 5 nguyên tắc cơ bản, bao gồm: i) Nguyên tắc Nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền con người được sống trong một môi trường trong lành; ii) Nguyên tắc phòng ngừa; iii) Nguyên tắc coi môi trường là một thể thống nhất; iv) Nguyên tắc phát triển bền vững; và v) Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
 
[3]OECD (1975), The Polluter Pays Principles: Definition, Analysis, Implementation, Organization for Economic Co-operation and Development, Paris.
[4] Arthur Cecil Pigou (1877-1959): nhà kinh tế học người Anh đã kế tục Marshall ở vị trí Chủ nhiệm Khoa kinh tế chính trị học của Trường đại học Cambridge năm 1908.
[5]Trên thế giới, ngoài các hình thức trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm theo PPP như ở Việt Nam, còn tồn tại nhiều hình thức khác, chẳng hạn như tiền phải trả cho việc mua quota phát thải (quota ô nhiễm), tiền đánh vào ô nhiễm tiếng ồn và độ rung,…
 
[6]Khoản 1, Điều 112, Luật BVMT 2005.
[7]Luật này được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2010, có hiệu lực ngày 01/01/2012. Sau đó, Chính phủ ban hành Nghị định 67/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế BVMT (Nghị định này sau đó được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 69/2012/NĐ-CP ngày 14/9/2012)
[8] Khoản 1, Điều 2, Luât thuế BVMT 2010.
[9]Điều 3, Luật Thuế BVMT 2010.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 16(272), tháng 8/2014)


Thống kê truy cập

33951944

Tổng truy cập