Hoàn thiện quy định về vật chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

01/09/2012

THÁI CHÍ BÌNH

Tòa án nhân dân thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang

Vật chứng là một trong các loại nguồn chứng cứ (NCC) mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS 2003) ghi nhận, bên cạnh các loại NCC khác. Vật chứng có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình chứng minh vụ án hình sự bởi vật chứng là những vật vô tri, không bị chi phối bởi các yếu tố tình cảm, tâm lý như các loại NCC khác; chúng mang tính khách quan, tồn tại ngoài ý muốn của con người nên phản ánh một cách nguyên si, trung thực về vụ án xảy. Các quy định về vật chứng trong BLTTHS 2003 cũng như các văn bản hướng dẫn đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng giúp hoạt động thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng của cơ quan, người tiến hành tố tụng (CQTHTT, NTHTT) hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, các quy định trong BLTTHS 2003 về vật chứng cũng đang thể hiện nhiều vướng mắc, bất cập dẫn đến việc áp dụng pháp luật tùy tiện, không thống nhất. Vì vậy, việc tìm hiểu những bất cập, mâu thuẫn trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự (PLTTHS) về vật chứng là cần thiết để đề xuất sửa đổi, bổ sung kịp thời chế định này, góp phần tránh bỏ lọt tội phạm, gây oan sai cho người vô tội.  
Untitled_545.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
I. VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG CÁC QUY ĐỊNH VỀ VẬT CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Khái niệm về vật chứng
Trên cơ sở kế thừa các hướng dẫn về vật chứng trước đây, Bộ luật TTHS năm 1988 và BLTTHS 2003 đã nêu khái niệm về vật chứng "Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội"[1]. Tuy nhiên, khái niệm trên chỉ mang tính liệt kê về các loại vật chứng, chứ chưa đi sâu xác định vật chứng là gì đúng như bản chất của chúng. Khái niệm này cũng chưa hoàn chỉnh về cấu trúc, bởi chưa nêu được sự khái quát, mối quan hệ giữa các yếu tố xác định là vật chứng. Xét dưới góc độ logic, khái niệm cũng chưa nêu được bản chất của vật chứng, tức chỉ đề cập đến ngoại diên của khái niệm vật chứng, nêu ra các loại vật được xác định là vật chứng mà chưa đề cập đến nội hàm của nó.
Qua các quy định về chứng cứ tại Chương V của BLTTHS 2003, chúng ta có thể khẳng định, vật chứng là một loại NCC nên về cơ bản, chúng chứa đựng các chứng cứ đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Vì vậy, về bản chất, khái niệm vật chứng phải đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ là tính khách quan, tính liên tục, tính hợp pháp; cũng như đặc điểm của NCC là nơi chứa đựng, cung cấp chứng cứ.
Từ các phân tích trên, chúng tôi đề xuất bổ sung vào Điều 74 BLTTHS 2003 nội hàm của khái niệm vật chứng bên cạnh các loại vật chứng.
2. Căn cứ phân loại vật chứng theo khái niệm vật chứng và quy định về xử lý vật chứng
2.1. Tìm hiểu về việc phân loại vật chứng
 Nhìn chung, vật chứng có các cách phân loại sau:
Căn cứ vào mối quan hệ giữa vật gây vết và vật bị tác động, vật chứng được phân thành các loại: vật chứng là những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật chứng là vật mang dấu vết tội phạm; vật chứng là những vật được coi là đối tượng của tội phạm; vật chứng là tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Căn cứ vào giá trị chứng minh, vật chứng được chia thành các loại: vật chứng có giá trị chứng minh tội phạm; vật chứng có giá trị chứng minh người phạm tội là những vật chứng có chứa đựng chứng cứ có thể xác định được ai là người thực hiện hành vi phạm tội; vật chứng có giá trị chứng minh những tình tiết khác liên quan đến tội phạm là vật chứng chứa đựng chứng cứ có giá trị chứng minh chủ sở hữu, người bị hại, yêu cầu bồi thường,…
Căn cứ vào giá trị sử dụng, vật chứng được phân thành: vật chứng có giá trị sử dụng; vật chứng không có giá trị sử dụng.
Căn cứ vào thời gian tồn tại giá trị sử dụng, vật chứng được chia thành: vật chứng thuộc loại mau hỏng; vật chứng là loại dễ bị phân hủy; vật chứng thuộc loại tài sản có thời hạn sử dụng ngắn.
Căn cứ vào tính chất đặc biệt của vật chứng, người ta chia vật chứng thành: vật chứng là loại tiền, vàng, kim khí quý, đá quý; vật chứng là vật cấm lưu hành: vũ khí, đạn dược, chất cháy, chất phóng xạ, chất ma túy; vật chứng là tài sản thông thường…
Từ việc phân loại trên, ta thấy rằng, tùy theo tiêu chí khác nhau thì vật chứng được phân ra thành các loại khác nhau, nhưng mỗi cách phân loại phải bao hàm tất cả các vật chứng. Mỗi cách phân loại có những ưu điểm và hạn chế của nó, cho nên phân loại vật chứng theo tiêu chí nào phụ thuộc vào mục đích đặt ra nhằm tận dụng ưu điểm của mỗi căn cứ.
2.2. Sự không đồng nhất về tiêu chí phân loại vật chứng trong khái niệm vật chứng và quy định về xử lý vật chứng
Từ phân tích trên, chúng ta thấy, Điều 74 BLTTHS 2003 đã nêu khái niệm vật chứng dựa theo căn cứ mối quan hệ giữa vật gây vết và vật bị tác động: “vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”.
Tuy nhiên, khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003 quy định về xử lý vật chứng (XLVC) lại áp dụng nhiều tiêu chí phân loại khác nhau như: căn cứ mối quan hệ giữa vật gây vết và vật bị tác động; căn cứ vào người sở hữu vật chứng; căn cứ vào thời gian tồn tại giá trị sử dụng; căn cứ vào giá trị sử dụng. Trên cơ sở phân loại vật chứng, điều luật đưa ra các biện pháp xử lý khác nhau: có thể là tịch thu sung công, tịch thu tiêu hủy, bán theo quy định của pháp luật, giao trả lại cho chủ sở hữu... Như vậy, việc phân loại vật chứng theo khái niệm (Điều 74 BLTTHS 2003) với phân loại vật chứng theo hoạt động XLVC (Điều 76 BLTTHS 2003) có sự khác nhau:
Thứ nhất, các vật chứng theo khái niệm chỉ áp dụng một căn cứ phân loại là căn cứ mối quan hệ giữa vật gây vết và vật bị tác động; trong khi, các vật chứng bị xử lý trong hoạt động XLVC lại dựa theo nhiều căn cứ phân loại khác nhau.
Thứ hai, việc phân loại vật chứng theo khái niệm bao hàm toàn bộ vật chứng theo căn cứ được áp dụng. Trong khi việc phân loại theo hoạt động xử lý lại không bao hàm hết vật chứng theo căn cứ được áp dụng. Chẳng hạn, việc XLVC có sử dụng căn cứ phân loại là căn cứ vào mối quan hệ giữa vật gây vết và vật bị tác động. Tuy nhiên, điều luật chỉ quy định việc xử lý đối với các loại vật chứng là “công cụ, phương tiện phạm tội; tiền bạc, tài sản thuộc sở hữu người khác” mà lại không quy định việc xử lý vật chứng là “vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”. Chính quy định XLVC dựa theo nhiều căn cứ và quy định việc xử lý không đầy đủ vật chứng của căn cứ nào sẽ có ưu điểm và nhược điểm sau:
- Ưu điểm: Khi vật chứng thuộc căn cứ phân loại này nhưng lại không có quy định xử lý tương ứng sẽ được vận dụng qua căn cứ phân loại khác để xử lý. Chẳng hạn, nếu vật chứng là “vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm” bị thu thập, bảo quản thì Điều 76 BLTTHS 2003 không quy định hình thức xử lý nên phải xem chúng có phải là “vật cấm lưu hành”, “hàng hóa mau hỏng, khó bảo quản”, thuộc sở hữu của Nhà nước, người khác hay không, chúng có “còn giá trị sử dụng” hay không… để áp dụng quy định xử lý tương ứng theo quy định tại khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003. Điều này sẽ dẫn đến việc để xử lý vật chứng có thể áp dụng hai hay nhiều điểm được quy định tại khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003.
- Nhược điểm: Vì trong điều luật không có quy định loại trừ nên khi một vật chứng có đáp ứng hai hay nhiều tiêu chí phân loại thì chúng cũng có thể bị xử lý bằng hai điểm khác nhau của khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003. Đây có thể là kẽ hở dẫn đến việc XLVC không thống nhất và có thể bị lợi dụng khi XLVC vì động cơ cá nhân.
Bên cạnh đó, vật chứng cần xử lý chỉ thỏa mãn một tiêu chí phân loại nhưng chúng lại không được quy định được xử lý bằng biện pháp nào sẽ làm cho CQ, NTHTT lúng túng, không rõ phải áp dụng quy định nào để xử lý hoặc áp dụng các quy định về XLVC khác để xử lý chúng như thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự gặp phải trong thời gian qua. Chẳng hạn, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự (VAHS), CQTHTT thu giữ vật chứng là vật mang dấu vết tội phạm (xe ôtô mà bị cáo điều khiển có vết va chạm thuộc quyền sở hữu của người thân bị cáo trong vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; chiếc ví do bị cáo để lại tại hiện trường trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có vết vân tay của bị cáo); vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội (con dao được người bị hại chống trả khi tội phạm cố ý gây thương tích được thực hiện; giấy tờ thu giữ trong người bị cáo…). Theo quy định tại Điều 74 BLTTHS 2003, vật mang dấu vết tội phạm, vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội là một trong các loại vật chứng bên cạnh các vật chứng khác. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 76 lại không quy định việc xử lý các loại vật chứng này.
Do không có quy định về XLVC thuộc các trường hợp này nên trong thực tiễn có vụ án Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 76, điểm b khoản 2 Điều 76 hay khoản 3 Điều 76 BLTTHS 2003 để XLVC[2]. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này để XLVC như các trường hợp này là không chính xác. Để khắc phục thiếu sót này, trước mắt cần bổ sung hình thức XLVC là vật mang dấu vết tội phạm, vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội vào khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003. Về lâu dài, cần quy định các loại vật chứng bị xử lý tại khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003 tương thích với các loại vật chứng theo Điều 74 BLTTHS 2003.
3. Một số quy định khác liên quan đến khái niệm vật chứng và các hoạt động thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng
3.1. Quy định về chủ thể thu thập, bảo quản vật chứng
- Chủ thể thu thập vật chứng
BLTTHS hiện hành không quy định rõ ai là người có thẩm quyền thu thập vật chứng. Tuy nhiên, việc thu thập vật chứng phải đảm bảo các quy định về thu thập chứng cứ, cho nên có thể hiểu, chủ thể có thẩm quyền thu thập chứng cứ cũng là chủ thể có thẩm quyền thu thập vật chứng, đó là CQTHTT gồm Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện Kiểm sát, Tòa án[3]. Cụ thể là những NTHTT được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử. Người bào chữa và những người tiến hành tố tụng khác không được tiến hành các hoạt động thu thập vật chứng như CQTHTT. Họ chỉ có thể tự thu thập tài liệu, đồ vật và giao nộp cho CQTHTT theo khoản 2 Điều 65 BLTTHS 2003 nhưng không bắt buộc và không quy định trình tự, thủ tục cho họ thu thập vật chứng. Tùy theo địa vị của mỗi người mà những người tham gia tố tụng có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật bảo vệ quyền lợi cho mình. BLTTHS 2003 không quy định việc thu thập vật chứng của người tham gia tố tụng, nghĩa là họ có thể áp dụng mọi biện pháp để thu thập tài liệu, đồ vật và nếu tài liệu, đồ vật mà họ giao nộp đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ, các đặc điểm của vật chứng thì CQTHTT, NTHTT sử dụng các thông tin mà chúng chứa đựng để giải quyết vụ án. Do đó, cần hiểu không quy định cách thức thu thập vật chứng của người tham gia tố tụng là tạo điều kiện thông thoáng cho họ trong việc thu thập vật chứng, chứ không phải không cho phép họ thu thập vật chứng, nên quyền thu thập vật chứng của họ sẽ rộng hơn so với CQTHTT.  
Trong thực tiễn, ngoài những NTHTT được thu thập vật chứng còn có một số người được giao nhiệm vụ thực hiện hoạt động điều tra ban đầu như: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 111 BLTTHS 2003.
Tuy nhiên, đối chiếu quy định tại khoản 1 Điều 65 với Điều 111 BLTTHS 2003 thấy rằng, giới hạn chủ thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ nói chung, vật chứng nói riêng là chưa đầy đủ. Bởi vì hoạt động của những cơ quan quy định tại Điều 111 BLTTHS 2003 cũng phải tuân thủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS 2003 quy định và họ có quyền khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu (đối với các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân) hay được khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội ít nghiêm trọng; khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu đối với các tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng hay tội ít nghiêm trọng nhưng có những tình tiết phức tạp (Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển). Hiển nhiên, các cơ quan này sẽ tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ nói chung, vật chứng nói riêng khi họ tiến hành các hoạt động điều tra. Do đó, cần bổ sung quy định việc thu thập chứng cứ nói chung, vật chứng nói riêng của các cơ quan này trong khoản 1 Điều 65 BLTTHS 2003.
- Chủ thể bảo quản vật chứng
Đối với chủ thể bảo quản vật chứng, điểm đ khoản 2 Điều 75 BLTTHS 2003 quy định: “Đối với vật chứng đưa về CQTHTT bảo quản thì cơ quan Công an có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; Cơ quan thi hành án (CQTHA) có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án”. Theo quy định này, CQTHA cũng là CQTHTT bên cạnh các cơ quan khác là Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án. Trong khi đó, khoản 1 Điều 33 BLTTHS 2003 quy định: “CQTHTT gồm có: CQĐT, Viện Kiểm sát, Tòa án”. Cho nên, chủ thể bảo quản vật chứng là CQTHTT được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 75 BLTTHS 2003 là mâu thuẫn với quy định về CQTHTT được quy định khoản 1 Điều 33 BLTTHS 2003. Bên cạnh đó, việc quy định cơ quan Công an có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố cũng không rõ ràng. Bởi vì, theo Pháp lệnh về Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, Điều 1 Chương 1 quy định CQĐT bao gồm: CQĐT trong Công an nhân dân, CQĐT trong Quân đội nhân dân, CQĐT của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) và không phải cơ quan Công an nào cũng là CQĐT. Do đó, cần sửa đổi quy định của điểm đ khoản 2 Điều 75 BLTTHS 2003 phù hợp với các quy định khác có liên quan đến CQTHTT và CQĐT.
3.2. Vấn đề tiếp nhận và bảo quản vật chứng
Điểm đ khoản 2 Điều 75 của BLTTHS 2003 quy định: “Đối với vật chứng đưa về CQTHTT bảo quản thì cơ quan Công an có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; CQTHA có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án”. Trong khi đó, điểm b mục 21.2 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 của VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và Viện Kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS 2003 hướng dẫn như sau: “…khi ra quyết định truy tố, Viện Kiểm sát ra quyết định chuyển vật chứng từ kho vật chứng của Cơ quan Công an hoặc từ kho của CQĐT trong Quân đội sang kho vật chứng của CQTHA, đồng thời thông báo bằng văn bản cho CQTHA cùng cấp”. Nhưng tiểu mục 1 mục II Thông tư 06/2007/TT-BTP ngày 05/7/2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự lại quy định: “CQTHA chịu trách nhiệm tiếp nhận, bảo quản vật chứng, tài sản do cơ quan Công an hoặc CQĐT chuyển giao kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại Khoản 2 Điều 75 của BLTTHS 2003”.
Quy định thiếu thống nhất giữa hai thông tư nói trên dẫn tới việc chuyển giao vật chứng trong VAHS ở mỗi địa phương thực hiện theo một cách. Ở Hà Nội, CQTHA vẫn tiếp nhận vật chứng theo quy định của Thông tư 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP. Còn tại tỉnh Khánh Hòa, kể từ khi có Thông tư 06/2007/TT-BTP, CQTHA địa phương không nhận vật chứng do cơ quan Công an chuyển đến. Trong khi đó, tại Thái Nguyên, CQTHA không nhận vật chứng trước khi Tòa án có quyết định xét xử; Tòa án thì không nhận hồ sơ vụ án đã có cáo trạng truy tố khi hồ sơ không có đủ biên bản giao nhận vật chứng giữa CQĐT và CQTHA[4]. Bên cạnh đó, trong giới nghiên cứu khoa học tố tụng hình sự cũng có nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm tiến hành giao nhận vật chứng giữa CQĐT và CQTHA. Có ý kiến cho rằng, theo Thông tư 06/2007/TT-BTP, Tòa án phải chuyển cho Công an hoặc CQĐT quyết định đưa vụ án ra xét xử để các cơ quan đó biết và thực hiện việc giao nhận vật chứng với CQTHA theo quy định tại khoản 2 Điều 75 BLTTHS 2003[5]. Ý kiến khác lại cho rằng, Viện Kiểm sát cùng cấp phải ra quyết định chuyển vật chứng khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đây là căn cứ về thời điểm để Viện Kiểm sát ra quyết định chuyển vật chứng chứ không phải là thời điểm phát sinh trách nhiệm tiếp nhận vật chứng của CQTHA. CQTHA chỉ cần căn cứ vào quyết định chuyển vật chứng của Viện Kiểm sát và biên bản giao vật chứng của cơ quan Công an để tiếp nhận vật chứng[6].
Như vậy, quy định của Thông tư 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP và Thông tư 06/2007/TT-BTP là không phù hợp với quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 75 BLTTHS 2003 vì giai đoạn xét xử được bắt đầu từ thời điểm Tòa án nhận hồ sơ do Viện Kiểm sát chuyển đển và vào sổ thụ lý vụ án. Bên cạnh đó, cách hiểu của Thông tư 06/2007/TT-BTP giống như cách hiểu được quy định ở Thông tư số 06/2003/TT-BCA (V19)[7] nhưng quy định này không phù hợp quy định pháp luật nên đã bị bãi bỏ khi Thông tư 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP được ban hành. Sở dĩ có hướng dẫn như Thông tư 06/2007/TT-BTP và Thông tư 06/2003/TT-BCA là do có cách hiểu không thống nhất với quy định pháp luật về giai đoạn tố tụng. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, có nhiều ý kiến khác nhau về giai đoạn tố tụng hình sự, có những lập luận khác nhau về việc phân chia các giai đoạn trong tố tụng hình sự nhưng đều xác định trong các giai đoạn TTHS không có giai đoạn chuẩn bị xét xử[8]. Do đó, có thể hiểu giai đoạn xét xử bắt đầu xác định từ khi Tòa án tiếp nhận, thụ lý hồ sơ vụ án hình sự do Viện Kiểm sát chuyển đến. Do vậy, vật chứng của vụ án phải được CQTHA tiếp nhận và bảo quản từ thời điểm này chứ không phải từ thời điểm có quyết định đưa vụ án ra xét xử vì chuẩn bị xét xử là một phần của giai đoạn xét xử.
Trước tình hình đó, để thống nhất áp dụng văn bản qui phạm pháp luật về XLVC trong VAHS, ngày 8/6/2009, một tổ chuyên viên của Bộ Công an, VKSNDTC, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã tổ chức hội nghị bàn việc. Hội nghị đã thống nhất đề nghị liên ngành sớm cho ý kiến thực hiện theo Thông tư số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP[9]. Tuy nhiên, như phân tích thì quy định của Thông tư 05 cũng còn mâu thuẫn với điểm đ khoản 2 Điều 75 của BLTTHS 2003. Do đó, thời gian tới, cần có sự sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn nêu trên cho phù hợp với quy định của BLTTHS 2003.
3.3. Thủ tục tiếp nhận vật chứng là ma túy dưới hình thức gói niêm phong
Tại điểm b tiểu mục 1.4 mục 1 phần II Thông tư 06/2007/TT-BTP quy định: “… CQTHA chỉ nhận vật chứng, tài sản là ma túy dưới hình thức gói niêm phong khi có kết luận của Viện Khoa học hình sự”. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải mọi vụ án liên quan đến ma túy đều phải được Viện Khoa học hình sự giám định mà thông thường là Tổ chức Giám định tội phạm - Kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh tiến hành giám định và trên thực tế, CQTHA một số địa phương cũng chấp nhận kết luận giám định của cơ quan này. Do đó, cần sửa đổi quy định này cho phù hợp với thực tiễn.
3.4. Thủ tục bán vật chứng là hàng mau hỏng, khó bảo quản
Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 75, đối với hàng mau hỏng, khó bảo quản thì được “bán theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, quy định này là chưa rõ nghĩa. Điều này dẫn đến việc tùy nghi của các CQTHTT vì họ có thể bán đấu giá theo quy định của pháp luật hoặc bán thông thường và điều này dễ gây thiệt hại đối với chủ sở hữu có tài sản được bán. Sự tùy nghi này được thể hiện qua trường hợp bán tài sản trong vụ án Hùng “xì tẹc” cùng đồng bọn phạm buôn lậu xăng dầu. Sau khi tham khảo giá bán buôn đối với mặt hàng này ở một số công ty có chức năng, Hội đồng định giá tài sản đã quyết định bán với giá 4.050 đồng/lít xăng và 3.050 đồng/lít dầu không thông qua đấu giá, trong khi tại thời điểm đó, giá bán lẻ là 5.300đồng/lít. Vì không bán đấu giá nên giá xăng dầu thực tế bán đã rẻ hơn nhiều so với giá thực tế[10]. Vì vậy, cần có sửa đổi theo hướng hình thức bán loại vật chứng này là bán đấu giá.
3.5. Biện pháp xử lý vật chứng không rõ ràng dẫn đến lúng túng khi áp dụng
Điểm a khoản 2 Điều 76 quy định: “Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành thì bị tịch thu, sung quỹ nhà nước hoặc tiêu huỷ”. Quy định không nói rõ trong trường hợp nào thì loại vật chứng này bị tịch thu sung quỹ và trong trường hợp nào thì bị tịch thu tiêu hủy. Bên cạnh đó, cũng trong điểm a khoản 2 Điều 76 có đề cập đến cấm lưu hành nhưng lại không quy định thế nào là vật cấm lưu hành. Có ý kiến cho rằng, vật thuộc loại cấm lưu hành bao gồm các loại hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện…[11]. Ý kiến khác cho rằng, vật thuộc loại cấm lưu hành bao gồm các đồ vật là đối tượng của tội phạm quy định tại các Điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 BLHS[12]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi vì, theo quy định của BLHS thì hành vi tàng trữ, lưu hành các loại đồ vật theo các Điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 BLHS là tội phạm và bị xử lý bằng tố tụng hình sự. Tuy nhiên, cần có quy định thống nhất về vấn đề này.
3.6. Khái niệm tài sản, vật, tiền bạc trong Điều 76 BLTTHS 2003
Các điểm b và c khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003 quy định: “Vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước…” và “Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ nhà nước”. Tuy nhiên, theo Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 thì “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Cho nên, quy định như điểm b khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003 là chưa bao quát và quy định như điểm c khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003 là trùng lặp và mâu thuẫn. Do đó, cụm từ “vật, tiền bạc” trong điểm b khoản 2 và “tiền bạc hoặc tài sản” trong điểm c khoản 2 cần được sửa đổi thành tài sản để đảm bảo việc thống nhất trong các quy định của pháp luật.
3.7. Xác định thời hạn và cách niêm yết thông báo tìm kiếm khi áp dụng quy định trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp mà không xác định được chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp.
Điểm b khoản 2 Điều 76 quy định: “Vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì sung quỹ nhà nước”. Trong thực tiễn giải quyết các VAHS,  một số trường hợp qua quá trình điều tra, CQTHTT đã thu giữ vật chứng của vụ án nhưng chưa xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Để xác định chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp, sau khi xác minh không có kết quả, CQTHTT đã ra thông báo trong một thời gian nhất định để tìm chủ sở hữu của vật chứng. Nếu trong thời hạn thông báo mà xác định được đối tượng thông báo thì CQTHTT áp dụng điểm b khoản 2 và khoản 3 Điều 76 để quyết định trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp. Nhưng nếu đã hết hạn điều tra, truy tố, xét xử mà vẫn không tìm được chủ sở hữu thì CQĐT chuyển vật chứng cùng hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát trong giai đoạn điều tra; Viện Kiểm sát chuyển vật chứng cùng với hồ sơ cho Tòa án trong giai đoạn truy tố; trong giai đoạn xét xử, thì tùy từng trường hợp sẽ quyết định sung quỹ nhà nước hoặc tiếp tục tạm giữ vật chứng chờ khi hết hạn thông báo thì ra Quyết định sung quỹ nhà nước.
Tuy nhiên, do BLTTHS 2003 không quy định hình thức thông báo và thời hạn thông báo nên đã gây ra lúng túng cho các CQTHTT. Trước đây, Thông tư số 03 TT-LB ngày 23/4/1984 quy định thời gian niêm yết công khai tìm chủ sở hữu là không quá 6 tháng[13]. Sau đó, Quy chế quản lý và xử lý tài sản khi có quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước và tài sản được xác lập quyền sở hữu nhà nước được ban hành kèm theo Quyết định số 1766/1998/QĐ-BTC ngày 07/12/1998 của Bộ Tài chính quy định thời hạn tìm kiếm chủ sở hữu đối với tài sản có giá trị lớn bị đánh rơi, bỏ quên là một năm và tìm kiếm chủ sở hữu đối với bất động sản là năm năm[14]. Nhưng cả hai quy định này đều được áp dụng hướng dẫn các quy định trước khi BLTTHS 2003 ra đời. Theo quy định tại khoản 4 Điều 76 BLTTHS 2003 thì “trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự”. Như vậy, việc xác lập quyền sở hữu và chủ sở hữu mới trong VAHS là những quan hệ mang tính dân sự. Do đó, khi giải quyết việc xác lập quyền sở hữu mới đối với vật chứng có thể được áp dụng các quy định về xác lập quyền sở hữu quy định tại Mục I Chương XIV Bộ luật Dân sự. Cụ thể, thời hạn tìm kiếm chủ sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu là một năm đối với động sản và năm năm đối với bất động sản hay thời hạn xác lập quyền sở hữu đối với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên là một năm[15]. Vì vậy, khi CQTHTT thu giữ vật chứng của vụ án nhưng chưa xác định được chủ sở hữu thì thông báo công khai trong thời hạn một năm đối với động sản, năm năm đối với bất động sản và kể từ ngày đã thực hiện các hoạt động điều tra xác minh nhưng không có kết quả đến khi hết thời hạn đó mà không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì lúc đó, cơ quan có thẩm quyền áp dụng hình thức tịch thu sung quỹ nhà nước.
BLTTHS 2003 không quy định cách thức niêm yết thông báo tìm kiếm, nên có thể áp dụng các quy định tương tự trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo đó, việc tìm kiếm có thể áp dụng qua các hình thức niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thu giữ vật chứng, trụ sở cơ quan đang thụ lý hồ sơ hay thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, do luật không quy định cụ thể nên tùy giá trị từng loại tài sản mà có sự vận dụng linh hoạt. Chẳng hạn, nếu tài sản có giá trị lớn thì áp dụng thông báo tìm kiếm trên các báo, đài; còn trường hợp tài sản có giá trị nhỏ thì chỉ cần niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã - nơi phát hiện tài sản - và tại trụ sở CQTHTT đang giải quyết vụ án là phù hợp. Tuy nhiên, để đảm bảo tính thống nhất trong việc XLVC trong các VAHS, cần đưa quy định này vào BLTTHS hay có văn bản hướng dẫn chính thống về chúng.
3.8. Việc XLVC là công cụ, phương tiện phạm tội nhưng trước đó chúng là đối tượng của các giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật.
BLTTHS 2003 chỉ quy định việc XLVC là công cụ, phương tiện phạm tội tại điểm a khoản 2 Điều 76 mà không quy định rõ nếu vật chứng là đối tượng của giao dịch bảo đảm hợp pháp trước đó. Vì vậy, trong thực tiễn đã có những cách vận dụng khác nhau. Vấn đề này được thể hiện rõ qua vụ án Nguyễn Thị A cùng các đồng phạm khác phạm tội “phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”[16].
Về trường hợp này, tiểu mục a Mục 5 Phần I Thông tư liên tịch số 06/1998/TTLT ngày 24/10/1998 có hướng dẫn XLVC đối với vật chứng được thế chấp bảo đảm nghĩa vụ dân sự mà hợp đồng thế chấp hợp pháp và đã hết hạn mà bên thế chấp không thực hiện nghĩa vụ thì việc xử lý sẽ do các bên thỏa thuận; nếu không thoả thuận được, thì bên nhận thế chấp, cầm cố có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp, cầm cố để thanh toán nợ và phải lập sổ hạch toán để phục vụ cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, nếu rơi vào quy định này thì số tiền bán đấu giá vật chứng còn lại sau khi thanh toán nợ sẽ được Tòa án xử lý sung quỹ hoặc giao trả cho chủ sở hữu. Tuy nhiên, nếu trong thời gian giải quyết VAHS mà thời hạn trong hợp đồng thế chấp chưa hết thì không có quy định hướng dẫn. Cho nên, trong vụ án nêu bên trên, không thể khẳng định cách XLVC của HĐXX sơ thẩm hay HĐXX phúc thẩm đúng. Tuy nhiên, nếu áp dụng tương tự pháp luật thì cách XLVC của cấp sơ thẩm là hợp lý hơn vì hợp đồng thế chấp hết hạn hay không hết hạn không ảnh hưởng đến việc XLVC và đảm bảo quyền lợi chính đáng của Ngân hàng là bên ngay tình, không có lỗi và không biết cũng như cần bắt buộc phải biết việc bị cáo sử dụng tài sản thế chấp làm gì vì pháp luật dân sự không quy định; đồng thời đảm bảo các quy định của PLTTHS sẽ không trái, mâu thuẫn với các quy định của pháp luật dân sự.
Vì vậy, cần bổ sung việc XLVC là công cụ, phương tiện phạm tội mà trước đó chúng đã là đối tượng của giao dịch bảo đảm hợp pháp thì chỉ tịch thu phần giá trị còn lại sau khi đã thanh toán xong nghĩa vụ mà nó phải bảo đảm vào điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003.
3.9. Giao trả lại tài liệu, đồ vật không phải là vật chứng của vụ án  
Trong quá trình điều tra, ngoài việc thu giữ các đồ vật, tài liệu được xác định là vật chứng và được xử lý bằng các quy định về XLVC mà BLTTHS 2003 quy định, CQTHTT, NTHTT còn thu giữ các tài liệu, đồ vật khác nhưng qua quá trình xét xử thấy rằng, tài sản này không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho người phạm tội thì lại không có điều luật nào trong BLTTHS quy định về việc xử lý các tài sản này. Có ý kiến cho rằng, ở giai đoạn xét xử, nếu Tòa án xác định vật, tiền mà CQĐT thu giữ không phải là vật chứng của vụ án thì bằng quyết định có trong bản án, Hội đồng xét xử hoàn trả lại vật, tiền… không phải là vật chứng cho CQĐT để cơ quan này giải quyết[17]. Ý kiến khác lại cho rằng, “trường hợp tài sản không liên quan đến tội phạm hoặc người phạm tội thì tùy từng trường hợp theo giai đoạn tố tụng, CQĐT, Viện Kiểm sát, Tòa án căn cứ vào kết quả điều tra, truy tố, xét xử quyết định trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp theo quy định tại khoản 3 Điều 76 BLTTHS”[18]. Tuy nhiên, việc xử lý như hai ý kiến này là không phù hợp. Bởi vì, khoản 3 Điều 76 BLTTHS 2003 chỉ quy định “…trả lại những vật chứng quy định tại điểm b khoản 2 Điều này cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xửlý vụ án” chứ không phải "tài sản không liên quan đến tội phạm, người phạm tội" như ý kiến thứ hai.  
Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch số 06/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BTC-BCA quy định: “Đối với tài sản không phải là vật chứng, thì CQTHTT không được thu giữ, tạm giữ; nếu đã thu giữ, tạm giữ thì cơ quan đang thụ lý, giải quyết vụ án phải trả lại ngay cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp các tài sản đó. Trong trường hợp thật cần thiết để bảo đảm thi hành án đối với các hình phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường thiệt hại, thì CQTHTT có thẩm quyền huỷ bỏ quyết định thu giữ, tạm giữ và ra quyết định kê biên đối với tài sản đó”[19]. Như vậy, trong trường hợp này, Tòa án phải ra quyết định trả lại có thể bằng quyết định riêng cũng có thể được ghi trong phần quyết định của bản án nên ý kiến thứ nhất cũng không phù hợp. Tuy nhiên, quy định này chỉ được thể hiện trong Thông tư liên tịch và đây là vấn đề quan trọng, thường gặp trong quá trình giải quyết các VAHS nên cần bổ sung quy định này vào BLTTHS 2003 để tránh gặp lúng túng khi xử lý các loại tài sản này.
3.10. Xử lý vật chứng bằng hình thức tịch thu sung quỹ
Điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003 quy định, vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội thì có thể áp dụng hình thức tịch thu sung quỹ. Đối với những vật chứng nhỏ, gọn và có giá trị nhỏ thì việc áp dụng như quy định này không có gì phải bàn cãi, nhưng đối với vật có giá trị lớn như nhà cửa, công trình kiến trúc lớn và chỉ xác định một phần giá trị trong vật đó là công cụ phạm tội, phương tiện phạm tội, do phạm tội mà có, thì tịch thu cả vật hay chỉ phần giá trị đó? Có ý kiến cho rằng, phải tịch thu cả vật đó bởi vật đó đã tham gia vào việc đổi chác. Nhưng có ý kiến cho rằng, chỉ tịch thu phần giá trị tài sản được tham gia vào việc phạm tội[20]. Tuy nhiên, theo quy định về các loại tài sản tại Chương XI Bộ luật Dân sự, tài sản được chia thành vật chính, vật phụ, vật chia được và vật không phân chia được, vật đồng bộ. Nếu vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội là vật chính hoặc vật phụ và vật phân chia được thì chỉ cần tịch thu sung quỹ phần được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội là vật chính, vật phụ hay phần được phân chia từ vật chung, vì bản chất của các vật này đều có thể tách ra so với các bộ phận khác mà chúng vẫn giữ được công dụng hoặc giá trị. Còn nếu vật đó là vật không phân chia được hay vật đồng bộ thì nếu một phần của nó được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì phải tịch thu toàn bộ vật đó.
3.11. Vấn đề XLVC không có giá trị hoặc giá trị sử dụng không đáng kể
Điểm đ khoản 2 Điều 76 quy định: “Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu huỷ”. Việc BLTTHS 2003 quy định việc tịch thu tiêu hủy vật chứng là cần thiết nếu vật chứng đó không còn giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng không đáng kể, nhưng hiện nay cũng chưa có quy định hoặc văn bản hướng dẫn như thế nào là "vật chứng không có giá trị hoặc giá trị sử dụng không đáng kể" để xử lý, dẫn đến việc xử lý còn mang tính tùy tiện, không thống nhất. Trên thực tế, có CQĐT đã tự xác định vật chứng không còn giá trị theo ý chí cá nhân của mình và hành vi này được xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Ví dụ như tại vụ án Chang A Súa phạm tội “Hiếp dâm”. Trong vụ án này, CQĐT có thu tinh dịch trong âm đạo của người bị hại và lông tóc của Chang A Súa nhưng không cho giám định, mà lại tự ý tiêu hủy bằng cách “đốt cho cháy hết” với lý do mẫu vật không đảm bảo để giám định. Trong vụ án hiếp dâm không bắt quả tang và người bị hại không rõ lai lịch của kẻ phạm tội, thì mẫu tinh dịch trong âm đạo người bị hại là chứng cứ duy nhất để truy nguyên tội phạm khi gửi mẫu vật đi giám định xác định ADN[21]. Sai phạm trên thể hiện ở chỗ, việc thu thập vật chứng là do CQĐT thực hiện, còn việc xác định các mẫu vật chứng đó có đảm bảo giám định được hay không là do cơ quan giám định kết luận. Việc CQĐT đã tự tiêu hủy mẫu vật chứng sau khi thu thập được với lý do mẫu vật chứng đó không đảm bảo giám định là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Vì vậy, cần quy định rõ việc xác định vật chứng có giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng không đáng kể do cơ quan có thẩm quyền xác định (cơ quan giám định, cơ quan tài chính, …).
II. NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ VẬT CHỨNG  
Việc phân tích các quy định của pháp luật về vật chứng trong thời gian qua đã làm rõ các bất cập, vướng mắc trong các quy định của pháp luật liên quan đến vật chứng, đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Do đó, để khắc phục các bất cập, vướng mắc này, chúng tôi nêu ra một số kiến nghị:
Thứ nhất, đối với khái niệm vật chứng, kiến nghị bổ sung nội hàm khái niệm vật chứng vào Điều 74 BLTTHS 2003 để đảm bảo sự hoàn chỉnh về khái niệm vật chứng:
“1. Vật chứng là vật được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, chứa đựng các thông tin được xác định là chứng cứ có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2. Vật chứng bao gồm: vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”.
Thứ hai, về chủ thể có nghĩa vụ thu thập vật chứng, kiến nghị bổ sung vào khoản 1 Điều 65 BLTTHS 2003 nội dung như sau: “Để thu thập chứng cứ, CQĐT, Viện Kiểm sát, Toà án và Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 111 BLTTHS 2003 có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án”.
Thứ ba, về trách nhiệm tiếp nhận và bảo quản vật chứng, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm b mục 21.2 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP như sau: “Trường hợp vật chứng được bảo quản tại kho của Cơ quan Công an hoặc tại kho của CQĐT trong Quân đội thì khi hồ sơ được chuyển cho Tòa án thụ lý theo thẩm quyền, VKS ra quyết định chuyển vật chứng từ kho vật chứng của Cơ quan Công an hoặc từ kho của CQĐT trong Quân đội sang kho vật chứng của CQTHA, đồng thời thông báo bằng văn bản cho CQTHA cùng cấp” và tiểu mục 1, mục II của Thông tư 06/2007/TT-BTP như sau: “CQTHA chịu trách nhiệm tiếp nhận, bảo quản vật chứng, tài sản do cơ quan Công an hoặc CQĐT chuyển giao kể từ khi hồ sơ vụ án được VKS chuyển cho Tòa án thụ lý giải quyếttheo quy định tại khoản 2 Điều 75 của BLTTHS 2003”.
Thứ tư, về thủ tục tiếp nhận vật chứng là ma túy dưới hình thức gói niêm phong, điểm b tiểu mục 1.4 mục 1 phần II Thông tư 06/2007/TT-BTP cần sửa đổi, bổ sung như sau: “…CQTHA chỉ nhận vật chứng, tài sản là ma túy dưới hình thức gói niêm phong khi có kết luận giám định của cơ quan chuyên môn”.
Thứ năm, đối với quy định bảo quản vật chứng là hàng hóa mau hỏng, khó bảo quản, cần bổ sung vào điểm d khoản 2 Điều 75 nội dung như sau: “Đối với vật chứng là hàng hoá mau hỏng hoặc khó bảo quản nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 76 của Bộ luật này thì cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán đấu giá theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có thẩmquyền đã ra quyết định bán đấu giá tại Kho bạc nhà nước để quản lý”.
Ngoài ra, để tạo cơ sở pháp lý cho việc giao trả đồ vật, tài liệu không phải là vật chứng của vụ án, kiến nghị bổ sung khoản 1 Điều 75 BLTTHS 2003 như sau: “Đối với tài sản không phải là vật chứng, thì CQTHTT không được thu giữ, tạm giữ; nếu đã thu giữ, tạm giữ thì cơ quan đang thụ lý, giải quyết vụ án phải trả lại ngay cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp các tài sản đó. Trong trường hợp thật cần thiết để bảo đảm thi hành án đối với các hình phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường thiệt hại, thì CQTHTT có thẩm quyền huỷ bỏ quyết định thu giữ, tạm giữ và ra quyết định kê biên đối với tài sản đó”.
Thứ sáu, để quy định về chủ thể bảo quản vật chứng không mâu thuẫn với quy định khác của BLTTHS 2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, điểm đ khoản 2 Điều 75 BLTTHS 2003 cần được sửa đổi, bổ sung như sau: “Đối với vật chứng đưa về CQTHTT, CQTHA bảo quản thì CQĐT có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; CQTHA có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án”.
Thứ bảy, để khắc phục các vướng mắc trong hoạt động XLVC, về lâu dài, cần quy định các loại vật chứng bị xử lý tại khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003 tương thích với các loại vật chứng theo Điều 74 BLTTHS 2003. Trước mắt, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 76 BLTTHS 2003 với các nội dung sau:
“1. Việc XLVC do CQĐT quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện Kiểm sát quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Toà án hoặc Hội đồng xét xử quyết định ở giai đoạn xét xử. Việc thi hành các quyết định về XLVC phải được ghi vào biên bản.
2. Vật chứng được xử lý bằng một trong các cách thức sau đây:
a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành bao gồm các đồ vật là đối tượng của tội phạm quy định tại các Điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 BLHS thì bị tịch thu sung quỹ nhà nước nếu chúng còn giá trị sử dụng hoặc tịch thu tiêu huỷ nếu chúng không còn giá trị sử dụng. Đối với vật chứng được xác định là bộ phận tách bạch với phần khác của vật thì chỉ tịch thu phần tách bạch mà không tịch thu toàn bộ vật;
Đối với vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội mà trước đó chúng đã là đối tượng của giao dịch bảo đảm hợp pháp thì chỉ tịch thu phần giá trị còn lại sau khi đã thanh toán xong nghĩa vụ mà nó phải bảo đảm.
b) Vật chứng là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt; dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; mang dấu vết tội phạm hoặc những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì sung quỹ nhà nước. Thời gian truy tìm chủ sở hữu và hình thức truy tìm được thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự;
c) Vật chứng là tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ nhà nước;
d) Vật chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán đấu giá theo quy định của pháp luật;
đ) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu huỷ. Việc xác định vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được do cơ quan có thẩm quyền xác định (cơ quan giám định, cơ quan tài chính, …).
Vật chứng là một trong những chế định quan trọng của BLTTHS 2003. Để đánh giá những quy định nào là phù hợp, chưa phù hợp thì cần một công trình nghiên cứu chuyên sâu. Tuy nhiên, với những phát hiện về các bất cập, vướng mắc cũng như những đề xuất hoàn thiện trên đây, cần thiết phải có sự sửa đổi, bổ sung các quy định về vật chứng; giúp khắc phục những thiếu sót, chồng chéo trong các quy định của pháp luật; giúp hoạt động của các CQTHTT, NTHTT cũng như sự phối hợp giữa các chủ thể liên quan như giữa CQTHTT, NTHTT với cơ quan chuyên môn đạt hiệu quả cao hơn./.

 


[1] Điều 56 BLTTHS 1988 và Điều 74 BLTTHS năm 2003.
[2] Nguyễn Văn Trượng, Một số vướng mắc khi xử lý vật chứng trong vụ án hình sự, Tạp chí TAND, kỳ II tháng 11/2009 (số 22), tr.29-30; Quách Thành Vinh, Một số trường hợp xử lý vật chứng chưa có căn cứ việc dẫn, Tạp chí  TAND, kỳ II, tháng 02/2010 (số 4), tr.35-36.
[3] Khoản 1 Điều 65 BLTTHS năm 2003.
[5] Dương Thị Thu Hà (2008), Vướng mắc về trách nhiệm ra quyết định chuyển vật chứng, TAND, kỳ I tháng 11 (số 21), tr.24, 27.
[7] Điểm a mục 3 Thông tư 06/2003/TT-BCA (V19)
[8] Trần Quang Tiệp (2004), “Quá trình chứng minh theo quy định của BLTTHS 2003”, Nhà nước và pháp luật, số 7, tr.46-52.
[11] Phụ lục I: Danh mục dịch vụ, hàng hóa cấm kinh doanh Ban hành kèm theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ.
[12] Nguyễn Mai Bộ (2004), Biện pháp ngăn chặn, khám xét và kê biên tài sản trong BLTTHS, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.193-194.
[13] Mục 1 phần III Thông tư liên tịch số 03.TT-LB ngày 23/4/1984.
[14] Khoản 3 Điều 1 Chương I Quy chế quản lý và xử lý tài sản khi có quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước và tài sản được xác lập quyền sở hữu nhà nước.
[15] Điều 239 và Điều 241 Bộ luật Dân sự 2005.
[17] Nguyễn Mạnh Hà (2005), Bảo quản và XLVC theo quy định của BLTTHS 2003, Tạp chí TAND, tháng 1 (số 2), tr.26.
[18] Nguyễn Văn Trượng (2005),Quy định của BLHS và BLTTHS về việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu và thực tiễn áp dụng, Tạp chí TAND, tháng 6 (số 12), tr.6.
[19] Mục 1 phần I Thông tư số 06/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BTC-BCA ngày 24/10/1998 Hướng dẫn một số vấn đề về bảo quản và xử lý tài sản là vật chứng, tài sản bị kê biên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử VAHS.
[20] Vũ Văn Tiếu (2009), Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm, Tạp chí TAND, kỳ I tháng 7 (số 13), tr.29.
[21]Dương Thanh Biểu (2008), Tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.113-114.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17(225), tháng 9/2012)


Thống kê truy cập

33932298

Tổng truy cập