Đánh giá khung pháp lý về quản trị công ty và các kiến nghị hoàn thiện

01/07/2012

TS. LÊ VŨ NAM

Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

1. Khái quát về quản trị công ty
Quản trị công ty (QTCT) là một khái niệm khá phổ biến ở các nước phát triển, nhưng ở Việt Nam, QTCT vẫn còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp. Theo các chuyên gia của Tổ chức Tài chính quốc tế (Iternatoinal Finance Corporation-IFC) thì hiện “không có một định nghĩa duy nhất về QTCT có thể áp dụng cho mọi trường hợp và mọi thể chế. Những định nghĩa khác nhau về QTCT hiện hữu phần nhiều phụ thuộc vào các tác giả, thể chế cũng như quốc gia hay truyền thống pháp lý[1]”. IFC đã đưa ra khái niệm QTCT khá ngắn gọn, theo đó QTCT là “những cơ cấu và những quá trình để định hướng và kiểm soát công ty[2]”. Bộ Nguyên tắc QTCT[3] của các nước thuộc Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development – OECD[4]) được Hội đồng Bộ trưởng OECD phê chuẩn lần đầu vào năm 1999, và từ đó trở thành chuẩn mực quốc tế cho các nhà hoạch định chính sách, nhà đầu tư, công ty và các bên có quyền lợi liên quan khác trên toàn thế giới, cũng đã đưa ra khái niệm về QTCT như sau: “QTCT là những biện pháp nội bộ để điều hành và kiểm soát công ty liên quan tới các mối quan hệ giữa Ban giám đốc, Hội đồng quản trị (HĐQT) và các cổ đông của một công ty với các bên có quyền lợi liên quan. QTCT cũng tạo ra một cơ cấu để đề ra các mục tiêu của công ty và xác định các phương diện để đạt được những mục tiêu đó cũng như để giám sát kết quả hoạt động của công ty. QTCT chỉ được cho là có hiệu quả khi khích lệ được Ban giám đốc và HĐQT theo đuổi được các mục tiêu vì lợi ích của công và của các cổ đông, cũng như phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát hoạt động của công ty một cách hiệu quả, từ đó khuyến khích công ty sử dụng các nguồn lực một cách tốt hơn”.
Tại Việt Nam, khái niệm về QTCT lần đầu tiên được ghi nhận chính thức tại Quy chế QTCT áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán/Trung tâm Giao dịch Chứng khoán được ban hành kèm theo Quyết định số 12/2007/QĐ-BTC ngày 13/03/2007 (Quy chế QTCT năm 2007). Tại Điểm a, Khoản 1, Điều 2 của Quy chế này đưa ra khái niệm QTCT như sau: “QTCT là hệ thống các quy tắc để đảm bảo cho công ty được định hướng điều hành và được kiểm soát một cách có hiệu quả vì quyền lợi của cổ đông và những người liên quan đến công ty”. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng, khái niệm QTCT theo pháp luật Việt Nam là tương đối súc tích nhưng vẫn bao gồm những nội dung và nguyên tắc cơ bản của thông lệ quốc tế về QTCT.
Như vậy, có thể thấy rằng, QTCT là hệ thống các thiết chế, chính sách, quy định và quy trình được xây dựng nhằm định hướng, điều hành và kiểm soát công ty với mục tiêu đảm bảo và cân bằng quyền và lợi ích của công ty, người quản lý và cổ đông, người lao động và cả khách hàng. Qua đó, nâng cao uy tín, niềm tin, sự minh bạch của công ty, giúp công ty hoạt động hiệu quả, đạt được những mục tiêu chung đã đề ra. Thế nhưng, QTCT không những dừng lại ở các mối quan hệ nội bộ mà còn bao gồm cả những mối quan hệ bên ngoài có liên quan và tác động đến tính hiệu quả trong hoạt động của công ty như: các cơ quan quản lý nhà nước, các đối tác kinh doanh và khách hàng của công ty, cộng đồng và xã hội và đặc biệt là môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh của một quốc gia. QTCT hiệu quả giúp hoạt động điều hành công ty được minh bạch, các nhà đầu tư được giảm thiểu rủi ro và được đối xử công bằng, trên cơ sở đó công ty dễ dàng thu hút vốn đầu tư để phát triển sản xuất, kinh doanh góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Để thực hiện QTCT một cách hiệu quả, cần phải dựa trên những nguyên tắc nền tảng nhất định. Nguyên tắc QTCT là những định hướng, tư tưởng chủ đạo chi phối toàn bộ quá trình QTCT nhằm giúp quá trình này mang lại những mục tiêu chung đã đề ra. OECD đã xây dựng 6 nguyên tắc cơ bản và khuyến nghị áp dụng đối với các công ty cổ phần (CTCP) đại chúng ở các quốc gia thành viên và “không mang tính bắt buộc và không nhằm vào các quy định chi tiết của luật pháp quốc gia”. Tuy nhiên, bộ nguyên tắc này cũng “nhằm giúp chính phủ các nước thành viên và không thành viên của OECD đánh giá và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tổ chức và quản lý cho QTCT ở quốc gia họ và cung cấp các hướng dẫn và khuyến nghị cho thị trường chứng khoán, nhà đầu tư, công ty và các bên khác có vai trò trong quá trình phát triển QTCT tốt”. Các Nguyên tắc được trình bày trong phần đầu của tài liệu bao quát các lĩnh vực sau: I) Đảm bảo cơ sở cho một khuôn khổ QTCT hiệu quả; II) Quyền của cổ đông và các chức năng sở hữu chính; III) Đối xử bình đẳng đối với cổ đông; IV) Vai trò của các bên có quyền lợi liên quan; V) Công bố thông tin và tính minh bạch; và VI) Trách nhiệm của HĐQT[5]. Tại Việt Nam, các nguyên tắc QTCT được quy định tại Điểm a, Khoản 1 Điều 2 của Quy chế QTCT 2007 cũng bao gồm 6 nguyên tắc cơ bản: đảm bảo một cơ cấu quản trị hiệu quả; đảm bảo quyền lợi của cổ đông; đối xử công bằng giữa các cổ đông; đảm bảo vai trò của những người có quyền lợi liên quan đến công ty; minh bạch trong hoạt động của công ty; HĐQT và Ban kiểm soát (BKS) lãnh đạo và kiểm soát công ty có hiệu quả. Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra là các nguyên tắc QTCT theo pháp luật Việt Nam đã được xây dựng dựa trên những khuyến nghị của OECD. Tuy nhiên, khác với OECD, các nhà làm luật Việt Nam không có những giải thích và hướng dẫn cụ thể cho từng nguyên tắc. Điều này gây không ít khó khăn trong việc hiểu và áp dụng đúng các nguyên tắc này, tác động không ít đến tính hiệu quả của QTCT tại các doanh nghiệp.
2. Khung pháp lý về QTCT tại Việt Nam về cơ bản đã hình thành
Quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế ở nước ta theo hướng từng bước hội nhập với kinh tế thế giới đã tạo điều kiện cho nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển, trong đó CTCP đóng vai trò quan trọng trong quá trình huy động các nguồn vốn để phát triển đầt nước, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán (TTCK) đã tạo điều kiện cho CTCP phát triển nhanh chóng cả về số lượng lẫn quy mô. Với tính chất đối vốn của mình, CTCP, đặc biệt là các công ty đại chúng dễ dàng huy động vốn thông qua TTCK từ các nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Để CTCP đạt được mục tiêu trên đòi hỏi hoạt động của công ty phải minh bạch, quyền và lợi ích của cổ đông phải được bảo vệ và phải có sự tách bạch giữa vai trò của chủ sở hữu và người quản lý công ty trên cơ sở hoạt động hiệu quả của HĐQT và một cơ chế giám sát, kiểm soát tối ưu. Có vậy mới tạo ra một môi trường kinh doanh, đầu tư lành mạnh, hấp dẫn và TTCK mới có cơ hội để phát triển. Vì thế, QTCT không còn là vấn đề riêng của doanh nghiệp mà đã trở thành mối quan tâm của Chính phủ, các nhà hoạch định chính sách, các nhà đầu tư và của toàn xã hội.
Từ việc xác định vai trò, tầm quan trọng của QTCT trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, xây dựng và phát triển đồng bộ các thiết chế cơ bản của nền kinh tế thị trường, tạo tiền đề để TTCK phát triển, hiện nay tại Việt Nam, khung pháp lý về QTCT đại chúng đã được hình thành và đang từng bước hoàn thiện.
Đầu tiên là Luật Doanh nghiệp năm 2005 (LDN 2005) với tư cách là một đạo luật quan trọng được ban hành để điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp, bao gồm CTCP đã thiết lập cơ sở pháp lý và những nguyên tắc nền tảng cho hoạt động QTCT tại Việt Nam nói chung. Tiếp theo, Nghị định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp được Chính phủ ban hành ngày 01/10/2010 (Nghị định 102/2010/NĐ-CP) cũng đã có những quy định hướng dẫn chi tiết, bổ sung về Giám đốc/Tổng Giám đốc và thành viên HĐQT (Điều 15); quyền khởi kiện đối với thành viên HĐQT và Giám đốc/Tổng giám đốc (Điều 25); các hướng dẫn khác về Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) (Điều 26), về hiệu lực của nghị quyết, quyết định của ĐHĐCĐ về bầu dồn phiếu (Điều 29) đã chi tiết hóa và làm rõ hơn các quy định và nguyên tắc QTCT đã được ghi nhận trong LDN 2005. Đặc biệt, Điều 28 của Nghị định 102/2010/NĐ-CP đã tạo nên một sự đột phá về sự minh bạch của người có liên quan và các giao dịch của họ liên quan đến công ty. Theo đó, công ty phải lập danh sách người có liên quan và các giao dịch của họ liên quan đến công ty và tạo điều kiện cho cổ đông, người quản lý, thành viên BKS tiếp cận, trích lục. Bên cạnh đó, Luật Chứng khoán năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán năm 2010 cũng đã có những quy định liên quan đến quản trị các công ty niêm yết trên TTCK. Luật Chứng khoán 2006 ấn định nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch và nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư (Điều 4) như những nguyên tắc chủ đạo của TTCK, là cơ sở để đảm bảo TTCK hoạt động công khai, công bằng, quyền và lợi ích của nhà đầu tư được bảo vệ. Các nguyên tắc ngày hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc QTCT theo thông lệ quốc tế... Về mặt nội dung, các nguyên tắc này là một cách viết ngắn gọn hơn các nguyên tắc đã quy định trong Quy chế về QTCT năm 2007, nhưng theo chúng tôi, nội hàm là không có sự thay đổi đáng kể. Như vậy, lần đầu tiên ở một văn bản luật của Việt Nam đã chính thức luật hóa các nguyên tắc về QTCT áp dụng cho các công ty đại chúng, chứ không chỉ dừng lại ở các công ty niêm yết như trong Quy chế về QTCT năm 2007. Trước khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán được thông qua, tại Việt Nam chỉ có các công ty có cổ phiếu niêm yết (CTNY) trên các Sở giao dịch chứng khoán/Trung tâm giao dịch chứng khoán mới có nghĩa vụ áp dụng các quy tắc về QTCT theo Quyết định 12/2007/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bản Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán/Trung tâm giao dịch chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 15/2007/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 19/03/2007 (sau đây gọi là Điều lệ mẫu năm 2007). Đây là hai văn bản pháp quy quy định chi tiết nhất về QTCT cho đến thời điểm hiện nay. Bên cạnh đó, các văn bản khác như Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán; Nghị định 84/2010/NĐ-CP ngày 02/08/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 14/2007/NĐ-CP; Thông tư 09/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 15/01/2009 về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán và một số văn bản khác.
Riêng lĩnh vực hoạt động ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, có liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể như: chủ sở hữu, người quản lý, nhân viên của tổ chức tín dụng và khách hàng đồng thời tác động trực tiếp đến kinh tế - xã hội của đất nước đã được các nhà làm luật đặc biệt đến hoạt động quản trị, điều hành nhằm hạn chế và ngăn ngừa các rủi ro có thể xảy ra. Nghiên cứu Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, chúng ta có thể tìm thấy các quy định thể hiện khá rõ điều này, nhiều quy định của Luật này đã tiến dần đến thông lệ quốc tế (ví dụ như quy định về chế định thành viên HĐQT độc lập tại Khoản 2 Điều 50).
3. Một số bất cập của khung pháp lý về quản trị công ty tại Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện
Mặc dù khung pháp lý về QTCT tại Việt Nam đã được hình thành nhằm điều chỉnh các quan hệ liên quan đến hoạt động QTCT, tuy nhiên, thực tiễn áp dụng thời gian qua đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập bắt đầu từ cơ chế điều chỉnh pháp luật đến chất lượng các văn bản và nội dung của các quy định cụ thể. Những vấn đề này cần phải được xem xét, phân tích và đánh giá một cách thấu đáo, khách quan để tìm ra những quy định còn khuyến khuyết, mâu thuẫn, chưa đồng bộ để từ đó hình thành các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động QTCT đại chúng tại Việt Nam là chưa thống nhất và đồng bộ
Xuất phát từ đặc thù của một nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ, các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung thường khá phân tán, trong đó có các quy định về QTCT. LDN 2005 là một đạo luật có đối tượng và phạm vi điều chỉnh khá rộng, bao gồm việc tổ chức, quản lý, điều hành và hoạt động của các nhiều lọai hình doanh nghiệp, trong đó có CTCP. Với vai trò quan trọng như vậy, LDN 2005 đã có những quy định mang tính chất nền tảng cho hoạt động QTCT tại Việt Nam như đã trình bày, nhưng vẫn chưa có quy định cụ thể nào bắt buộc các CTCP phải áp dụng bắt các nguyên tắc về QTCT. Các quy định liên quan đến QTCT trong Luật này thường không mang tính ràng buộc và được thể hiện dưới dạng “nếu điều lệ không có quy định khác”[6]. Trong khi đó, Luật Chứng khoán năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán năm 2010 thì lại quy định nghĩa vụ đối với các công ty đại chúng là phải áp dụng các nguyên tắc về QTCT. Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 cũng có cách tiếp cận tương tự đối với các tổ chức tín dụng. Sự không thống nhất trong các quy định về nghĩa vụ thực hiện QTCT giữa các văn bản luật nói trên đã hình thành một cơ chế điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động QTCT thiếu tính nhất quán và đồng bộ. Điều này chắc chắc đã tác động không nhỏ đến quá trình thực thi pháp luật về QTCT, ảnh hưởng đến tính công bằng trong hoạt động giữa các doanh nghiệp và môi trường đầu tư. Đành rằng, Luật Doanh nghiệp 2005 trao quyền cho các doanh nghiệp tự chủ quyết định những vấn đề về các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ[7] là hoàn toàn đúng theo nguyên tắc và tư duy quản lý, điều hành nền kinh tế thị trường là “doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật không cấm” nhằm phát huy tinh thần sáng tạo, tự chủ tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Nhưng các vấn đề liên quan đến QTCT không dừng lại trong phạm vi nội bộ của doanh nghiệp mà còn vượt ra ngoài  khuôn khổ đó và tác động trực tiếp đến quyền lợi của chủ sở hữu, tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh cũng như tác động đến môi trường đầu tư và các mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Vì vậy, QTCT nên được xem là một trong những nghĩa vụ của các doanh nghiệp mà quy mô và phạm vi hoạt động của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng, môi trường kinh danh và môi trường đầu tư. Đó là các công ty đại chúng. Khảo sát kinh nghiệm thế giới đã chứng minh điều đó. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, Luật Doanh nghiệp với tư cách là một đạo luật chung điều chỉnh tổ chức, quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp cần có quy định mang tính chất nguyên tắc về vấn đề thực hiện QTCT của các doanh nghiệp. Theo đó, các CTCP đại chúng có nghĩa vụ thực hiện QTCT theo quy định của Luật Chứng khoán và các luật chuyên ngành khác; đối với các CTCP chưa phải là đại chúng thì vẫn duy trì cách tiếp cận khuyến khích áp dụng như hiện nay. Cách làm này một mặt, giúp tạo ra một cơ chế pháp lý đồng bộ và nhất quán trong việc điều chỉnh hoạt động QTCT, mặt khác, góp phần hình thành và phát triển môi trường đầu tư công bằng, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi của doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Quy chế QTCT năm 2007 có đối tượng áp dụng khá hẹp và đã bộc lộ nhiều khuyến khuyết
Quy chế QTCT năm 2007 chỉ được áp dụng bắt buộc đối với các công ty niêm yết. Trên cơ sở Quy chế này, các công ty niêm yết đã tiến hành xây dựng Quy chế quản trị nội bộ áp dụng tại công ty mình. Việc tuân thủ Quy chế quản trị nội bộ là cơ sở để đánh giá cơ chế quản trị của một công ty niêm yết. Điều này không chỉ có ý nghĩa trong việc tuân thủ các quy định của Nhà nước mà còn đặc biệt quan trọng đối với nhà đầu tư. Nhiều nghiên cứu cho thấy, nhà đầu tư quan tâm đến cơ chế quản trị doanh nghiệp hơn cả chỉ số doanh thu và lợi nhuận. Rõ ràng có sự tương quan chặt chẽ giữa việc thực hiện QTCT với giá cổ phiếu và kết quả hoạt động của công ty. Quản trị tốt sẽ mang lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư và nhiều lợi ích hơn cho các thành viên khác trong công ty. Kết quả là các nhà đầu tư sẵn sàng trả giá cao hơn cho cổ phiếu của những công ty quản trị tốt. Đối với các công ty có cơ chế quản trị tốt, các ngân hàng cũng dễ dàng cho vay hơn. Vì quản trị tốt sẽ làm giảm khả năng các khoản vay được sử dụng không đúng mục đích và tăng khả năng công ty trả nợ đầy đủ và đúng hạn[8]. Thế nhưng, những vấn đề thu hút đầu tư và nhu cầu huy động vốn từ ngân hàng và vấn đề giá cổ phiếu không chỉ riêng là vấn đề của công ty niêm yết mà của tất cả các công ty đại chúng nói chung. Vì vậy, Quy chế QTCT cần được áp dụng rộng rãi hơn cho tất cả các công ty đại chúng. Có vậy mới đảm bảo sự bình đẳng giữa các công ty niêm yết và công ty không niêm yết; giữa nhà đầu tư trên thị trường giao dịch tập trung và nhà đầu tư trên thị trường phi tập trung, góp phần làm lành mạnh hóa và minh bạch môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Ngoài ra, Quy chế QTCT 2007 chưa bao quát hết các nội dung và thể hiện một cách đầy đủ các nguyên tắc về QTCT theo thông lệ quốc tế. Trước hết, chúng tôi cho rằng các quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong Quy chế QTCT 2007 còn khá sơ sài, thiếu vắng những nội dung quan trọng như: các quyền của cổ đông được đối xử công bằng; quyền được cung cấp thông tin về tình hình tài chính và tình hình hoạt động của công ty định kỳ và bất thường; quyền được xem xét, tra cứu, trích lục các thông tin trong danh sách cổ đông có quyền biểu quyết, Điều lệ và nghị quyết của ĐHĐCĐ; các quy định về quyền khởi kiện của cổ đông, đặc biệt là cổ đông nhỏ đối với thành viên HĐQT, Giám đốc/Tổng Giám đốc[9]… Bên cạnh đó, Quy chế cũng chưa có những quy định những vấn đề liên quan đến những vấn đề quan trọng nhằm đảm bảo tính minh bạch trong công ty như vấn đề kiểm toán nội bộ, kiểm soát nội bộ, quy tắc đạo đức trong kinh doanh của công ty và đạo đức nghề nghiệp của thành viên HĐQT, BKS, Giám đốc/Tổng Giám đốc cũng chưa được đề cập.
Tiếp theo, chế định về thành viên HĐQT độc lập là một trong những yếu tố đảm bảo tính khách quan và hạn chế tư lợi trong quá trình quản trị, điều hành công ty lại được đề cập chưa đúng mức, khái niệm thành viên HĐQT độc lập chưa được dựa trên những cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm đảm bảo tính độc lập của họ. Theo Điểm d Khoản 1 Điều 2 của Quy chế thì “Thành viên HĐQT độc lập là thành viên HĐQT không phải là Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó giám đốc hoặc Phó tổng giám đốc, kế toán trưởng và những cán bộ quản lý khác được HĐQT bổ nhiệm hoặc cổ đông lớn của công ty”. Chúng tôi cho rằng, khái niệm thành viên HĐQT độc lập như trên là chưa thể hiện “tính độc lập” của thành viên này và không phù hợp với thông lệ quốc tế. Thông lệ quốc tế phân biệt các dạng thành viên HĐQT tùy theo mức độ liên quan của thành viên HĐQT với công việc của công ty và bao gồm 3 nhóm: điều hành, không điều hành và độc lập[10]. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước cho thấy, khái niệm về thành viên HĐQT độc lập vừa trình bày trên thực chất là khái niệm thành viên HĐQT không điều hành chứ không phải là khái niệm thành viên HĐQT độc lập. Theo IFC, “một thành viên HĐQT độc lập phải được độc lập trong hành động và tư duy, và không nên có mối quan hệ hoặc các trường hợp có thể phát sinh mối quan hệ có thể ảnh hưởng đến phán đoán độc lập của họ”[11]. Pháp luật mỗi quốc gia đều có những tiêu chí và điều kiện xác định tính độc lập của thành viên HĐQT độc lập[12]. Thiết nghĩ, các nhà làm luật Việt Nam cũng cần tham khảo kinh nghiệm của các nước trong việc hình thành khái niệm thành viên HĐQT độc lập trên cơ sở các điều kiện và tiêu chí phù hợp với thông lệ quốc tế.
Một điều đáng chú ý nữa là trong Quy chế QTCT 2007 vẫn còn những quy định khá mập mờ, chung chung và không rõ nghĩa, gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình áp dụng như: “HĐQT của công ty xây dựng một cơ chế liên lạc thường xuyên với các cổ đông lớn” (Khoản 1 Điều 5) hay “Công ty niêm yết quy định về trình tự, thủ tục triệu tập và biểu quyết tại ĐHĐCĐ gồm các nội dung chính sau… Cách thức kiểm phiếu, đối với những vấn đề nhạy cảmvà nếu cổ đông có yêu cầu, công ty niêm yết phải chỉ định tổ chức trung lập thực hiện việc thu thập và kiểm phiếu” (Điểm d Khoản 1 Điều 6) hoặc “Số lượng thành viên HĐQT ít nhất là năm (05) người và nhiều nhất là mười một (11) người, trong đó khoảng một phần ba tổng số thành viên HĐQT là thành viên độc lập không điều hành” (Khoản 1 Điều 11)… Bên cạnh đó, một vài quy định của Quy chế QTCT 2007 theo quan sát của chúng tôi là chưa thật sự phù hợp với LDN 2005. Khoản 2, Điều 11 của Quy chế QTCT 2007 có quy định cho phép HĐQT trong trường hợp có một thành viên bị mất tư cách thành viên theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty, bị cách chức hoặc vì một lý do nào đó không thể tiếp tục làm thành viên, HĐQT có quyền “bổ nhiệm người khác thay thế” và “thành viên HĐQT thay thế trong trường hợp này phải được biểu quyết thông qua tại ĐHĐCĐ gần nhất”. Trong khi đó, Điểm c Khoản 2 Điều 96, LDN 2005 quy định, việc bầu thành viên HĐQT là thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ và Khoản 3 Điều 115 cũng của Luật này thì, khi phát sinh chỗ trống trong HĐQT, chỉ có ĐHĐCĐ mới có thể bầu bổ sung thành viên mới. Việc Quy chế QTCT 2007 có quy định cho phép HĐQT bổ nhiệm thành viên HĐQT rõ ràng là trái với LDN 2005 và tiềm ẩn những rủi ro rất lớn cho công ty khi xảy ra trường hợp ĐHĐCĐ không phê chuẩn thành viên mới được bổ nhiệm bởi HĐQT, hoặc tệ hơn nữa là cổ đông khởi kiện tại Tòa án yêu cầu hủy bỏ quyết định trái LDN 2005. Hậu quả của việc này có thể rất lớn nếu có thành viên HĐQT bị hủy bỏ tư cách, dẫn đến việc xem xét lại tính hợp pháp của tất cả các cuộc họp HĐQT mà thành viên đó đã tham gia cũng như tính hợp pháp của các quyết định đã được HĐQT thông qua trong các cuộc họp đó.
Với những khiếm khuyết trên, rõ ràng là đã đến lúc cần phải xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành Quy chế mới về QTCT tại Việt Nam. Một Dự thảo quy chế mới cần xem xét loại bỏ những bất cập, hạn chế mà chúng tôi đã trình bày. Đồng thời, cần giải thích rõ nội hàm của từng nguyên tắc QTCT chứ không nên dừng lại ở mức độ liệt kê như hiện nay. Thực tế cho thấy, chế định về QTCT và bản thân những khái niệm, nguyên tắc liên quan đến nó được du nạp vào Việt Nam từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển dưới áp lực và nhu cầu của quá trình hội nhập và từng bước đã được “nội luật hóa” trong các văn bản pháp luật. Do vậy mà nội dung các quy định và nguyên tắc về QTCT, phần lớn là được dịch từ tiếng nước ngoài với những thuật ngữ mới lạ gây không ít khó khăn cho những người quản lý công ty và các viên chức của cơ quan nhà nước trong việc hiểu và nắm bắt nội dung, yêu cầu của từng quy định. Có lẽ đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện QTCT con mang tính mơ hồ, đối phó từ phía các công ty niêm yết thời gian qua. Từ đó cho thấy sự cần thiết phải giải thích một cách rõ ràng các khái niệm và những nguyên tắc về QTCT.
Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo tính phù hợp với LDN 2005
Bất cập đầu tiên trong việc áp dụng Điều lệ mẫu là thiếu sự giải thích về vai trò, ý nghĩa và cách thức vận dụng Điều lệ mẫu từ phía các nhà làm luật. Tuy pháp luật hiện hành không đưa ra khái niệm về điều lệ công ty nhưng theo cách hiểu thông thường, Điều lệ của các CTCP là văn bản ghi nhận các thỏa thuận giữa những người góp vốn về việc thành lập công ty và được xem là “bộ luật” cơ bản của công ty. Về nguyên tắc, nội dung của Điều lệ công ty là do các cổ đông thỏa thuận miễn là không được trái với pháp luật. Điều 22 LDN 2005 quy định về nội dung điều lệ công ty liệt kê 15 nội dung quan trọng mà điều lệ một công ty phải có và cũng quy định thêm: "các nội dung khác do thành viên, cổ đông thoả thuận nhưng không được trái với quy định của pháp luật". Nội dung Quyết định số 15/2007/QĐ-BTC chỉ ghi đơn giản: "Ban hành kèm theo Quyết định này Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán/Trung tâm Giao dịch chứng khoán", nên đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về tính chất "mẫu" của Điều lệ mẫu được ban hành kèm theo Quyết định này. Cả cơ quan nhà nước và cổ đông của công ty niêm yết đều rất lúng túng trong việc tuân thủ các quy định của Điều lệ mẫu. Nội dung Điều lệ mẫu có 57 điều, quy định nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của CTNY. Ban soạn thảo Điều lệ của nhiều công ty sắp niêm yết thường bối rối với câu hỏi, họ phải vận dụng nội dung của 57 điều này vào thực tế hoạt động của công ty như thế nào cho phù hợp? Ngoài nội dung 57 điều này, có thể thêm hoặc bỏ bớt đi được không, vì nhiều vấn đề thực tế đã được quy định trong LDN 2005. Chuyên viên các Sở GDCK cũng có cách hiểu khác nhau về tính chất "mẫu" của Điều lệ mẫu này, có chuyên viên yêu cầu CTNY áp dụng nguyên nội dung Điều lệ mẫu, có chuyên viên lại chấp nhận cho sửa đổi, bổ sung nội dung, miễn là không trái với quy định của pháp luật và các điều khoản khác trong Điều lệ mẫu[13]. Theo một đánh giá, việc áp dụng các nguyên tắc quản trị và điều lệ mẫu trong các doanh nghiệp vẫn còn mang tính hình thức. Chẳng hạn, Điều lệ mẫu được ban hành, đa số công ty niêm yết "sao chép" luôn mà không cụ thể hóa theo các đặc điểm của riêng mình[14].
 Bên cạnh đó, đi sâu phân tích nội dung các quy định trong Điều lệ mẫu cũng đã cho thấy có khá nhiều quy định bất cập và một số trường hợp không thống nhất với LDN 2005. Cụ thể là:
Thứ nhất, về trình tự triệu tập họp ĐHĐCĐ, Điểm a Khoản 1 Điều 17 của Điều lệ mẫu quy định, người triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ phải chuẩn bị danh sách các cổ đông đủ điều kiện tham gia và biểu quyết tại đại hội trong vòng 30 ngày trước ngày bắt đầu tiến hành ĐHĐCĐ. Đối chiếu với nội dung tương tự ta thấy, LDN 2005 có quy định trái hẳn quy định trên. Theo Khoản 1 Điều 98 LDN 2005 thì danh sách cổ đông có quyền dự họp ĐHĐCĐ được lập khi có quyết định triệu tập và phải lập xong chậm nhất 30 ngày trước ngày khai mạc họp ĐHĐCĐ nếu Điều lệ công ty không quy định một thời hạn khác ngắn hơn. Sư khác biệt ở đây là thời hạn “trong vòng 30 ngày” và “chậm nhất 30 ngày”. Để thực hiện được quy định của Điều lệ mẫu và không trái LDN 2005 thì CTNY chỉ có cách lập danh sách cổ đông dự họp chính xác 30 ngày trước ngày dự họp, nếu sớm hơn thì vi phạm Điều lệ mẫu và chậm hơn thì vi phạm LDN 2005. Thực tế, hầu như không có công ty niêm yết nào thực hiện được đúng như vậy.
Thứ hai, Khoản 6 Điều 25, Điều lệ mẫu có quy định "Trừ khi luật pháp và Điều lệ quy định khác, HĐQT có thể uỷ quyền cho nhân viên cấp dưới và các cán bộ quản lý đại diện xử lý công việc thay mặt cho công ty". Chúng tôi cho rằng, quy định này không hợp lý và trái với tinh thần của Quy chế QTCT và Điều lệ mẫu là tạo ra cơ sở pháp lý giúp công ty quản trị, điều hành minh bạch và hiệu quả. Việc ủy quyền cho “nhân viên cấp dưới” và “các cán bộ quản lý” nhưng không quy định là cấp nào cụ thể dễ dẫn đến hành vi lạm quyền một cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại cho CTNY. Mặt khác, quy định trên là trái với Khoản 4 Điều 2 của chính Điều lệ mẫu. Theo đó, người đại diện theo pháp luật của công ty là Giám đốc/Tổng giám đốc hoặc Chủ tịch HĐQT, tùy theo quy định của Điều lệ. Điều 95 LDN 2005 cũng có quy định tương tự. Quy định trên cũng trái với quy định về đại diện pháp nhân và về quan hệ ủy quyền tại Điều 91 và các Điều 139 đến 143 Bộ luật Dân sự đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2006.
Thứ ba, theo qui định tại Khoản 10 Điều 19, Điều lệ mẫu, HĐQT có thể yêu cầu các cổ đông hoặc đại diện được uỷ quyền tham dự ĐHĐCĐ chịu sự kiểm tra hoặc các biện pháp an ninh mà HĐQT cho là thích hợp. Trường hợp có cổ đông hoặc đại diện được uỷ quyền không chịu tuân thủ những quy định về kiểm tra hoặc các biện pháp an ninh nói trên, HĐQT sau khi xem xét một cách cẩn trọng có thể từ chối hoặc trục xuất cổ đông hoặc đại diện nói trên tham gia Đại hội. Qui định này hoàn toàn trái với Điểm a Khoản 1 Điều 79 của LDN 2005 là cổ đông có quyền tham dự và phát biểu trong các ĐHĐCĐ và thực hiện quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện được uỷ quyền. Theo qui định này thì rõ ràng không có cá nhân, tổ chức nào có quyền ngăn cản cổ đông tham dự ĐHĐCĐ. Ấy vậy mà Điều lệ mẫu bằng quy định trên đã cho phép HĐQT được hạn chế một quyền rất quan trọng của cổ đông.
Những phân tích trên đây cho thấy, đã đến lúc phải xem xét, sửa đổi nội dung Điều lệ mẫu để khắc phục những tồn tại hiện nay và hướng dẫn chi tiết hơn về tính chất của Điều lệ mẫu, giúp cho các cổ đông, CTCP và tổ chức tư vấn trên thị trường thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình một cách dễ dàng nhất. Việc sửa đổi này cần được tiến hành trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm về thông lệ QTCT của các nước mà vẫn đảm bảo thống nhất với Bộ luật Dân sự 2006, LDN 2005, Luật Chứng khoán 2006 và các văn bản pháp luật khác có liên quan nhằm tạo ra một sự thống nhất và đồng bộ cần thiết - một yếu tố quan trọng để đảm bảo tính thực thi cao. Bên cạnh đó, cần có quy định giải thích ý nghĩa, vai trò và xác định các nguyên tắc cơ bản trong việc áp dụng các quy định trong Điều lệ mẫu trong quá trình xây dựng bản Điều lệ của công ty. Mặt khác, cần mở rộng phạm vi áp dụng Điều lệ mẫu là bao gồm tất cả các công ty đại chúng tại Việt Nam.
Tóm lại, khung pháp lý về QTCT đại chúng tại Việt Nam mặc dù đã hình thành nhưng cần tiếp tục hoàn thiện. Quá trình này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định hiện hành kết hợp với kinh nghiệm từ thực tế áp dụng pháp luật, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế và hệ thống pháp luật phát triển. Sự hoàn thiện pháp luật về QTCT đại chúng chắc chắn đóng vai trò không nhỏ trong việc cải thiện môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh, góp phần do các công ty đại chúng hoạt động hiệu quả hơn./.
 
 

[1] IFC: Chương trình Tư vấn của IFC tại Đông Á - Thái Bình Dương, Cẩm nang quản trị công ty, năm 2010, tr. 6.
[2] IFC, tlđd, tr. 6.
[3] Xem tại: http://www.oecd.org/dataoecd/20/17/45034702.pdf
[4] Tổ chức OECD thành lập năm 1961 trên cơ sở Tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Âu (OEEC) với 20 thành viên sáng lập gồm các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới như Mỹ, Canada và các nước Tây Âu. Hiện nay, số thành viên của OECD là 30 quốc gia. Mục tiêu ban đầu của OECD là xây dựng các nền kinh tế mạnh ở các nước thành viên, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả kinh tế thị trường, mở rộng thương mại tự do và góp phần phát triển kinh tế ở các nước công nghiệp. Những năm gần đây, OECD đã mở rộng phạm vi hoạt động, chia sẻ kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm phát triển cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
 Xem tại: http://www.mofahcm.gov.vn/vi/tintuc_sk/tulieu/nr060206163738/nr060207090236/ns0602070...
 
[5] Các nguyên tắc quản trị công ty của OECD, tr. 17-61.
[6] Ví dụ, tại Khoản 1 Điều 111, LDN 2005 quy định: “Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác”.
[7] Khoản 7 Điều 8 LDN 2005.
[8] Xem bài Quản trị công ty: Đừng lơ là, tại: http://www.saga.vn/view.aspx?id=13180
 
[9] Quyền này đã được quy định tại Điều 25 của Nghị định 102/2010/NĐ-CP.
[10] IFC (2010), tlđd, tr. 121.
[11] International Finance Corporation (2002), Indicative Independent Director Definition
[12] Ví dụ: Quy chế niêm yết chứng khoán tại SGDCK Hồng Kông quy định, thành viên HĐQT độc lập không điều hành phải: 1) Là người không có trách nhiệm hành chính hoặc quản lý tại công ty; 2) Là người độc lập về quản lý, không có mối quan hệ trực tiếp với người quản lý công ty; 3) Là người không có bất kỳ lợi ích khác ngoài thù lao được trả cho vai trò thành viên độc lập (Xem tại: Rules Governing the Listing of Securities on the Stock Exchange of Hong Kong Ltd (2005)). Tại Việt Nam, Nghị định 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và họat động của ngân hàng thương mại cổ phần ngày 16/07/2009 đã đưa ra 9 nhóm điều kiện đối với thành viên HĐQT độc lập (Điều 22).
 
[13] Nguyễn Kim Long (2009), “Điều lệ mẫu cho công ty niêm yết: mẫu đến đâu?”, Đầu tư chứng khoán, số 116, tr.9 và 21.
[14] Hoàng Nguyên, “Nâng cao chất lượng quản trị Công ty niêm yết: Đừng để chỉ là hình thức”, Lao Động, số 256, ngày 11/11/2009 

(Nguồn tin: Bài viết đăng trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 14(222), tháng 7/2012)


Thống kê truy cập

33963802

Tổng truy cập