Nhận diện tính hợp pháp và tính hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả trong Nghị định của Chính phủ

01/09/2018

TS. CAO VŨ MINH

Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.

Tóm tắt: Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. Bên cạnh các biện pháp khắc phục hậu quả được nêu trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Nghị định của Chính phủ còn quy định thêm rất nhiều các biện pháp khắc phục hậu quả khác. Bài viết phân tích một số bất cập, hạn chế về biện pháp khắc phục hậu quả do Chính phủ quy định đồng thời đề xuất phương hướng hoàn thiện.
Từ khóa: biện pháp khắc phục hậu quả, hình thức xử phạt, vi phạm hành chính, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Abstract: Penalty ofthe administrative violations is the actions by the competent person to apply the penalty modality, remedial measures to the concerned individuals, entities committing acts of the administrative violations. Apart from the remedial measures in the Law on Handling Administrative Violations of 2012, the related Decree issued by Government also provides several further remedial measures. This article provides analysis of some inadequacies and limitations on the remedial measures as stipulated by the Government and also the orientational recommendations for further improvements.
Keywords: remedial measures; penalty modality; administrative violation, Law on Handling of Administrative Violations of 2012.
Untitled_1112.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Phân loại các biện pháp khắc phục hậu quả
Nhằm đảm bảo hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống vi phạm hành chính (VPHC) thì xử phạt hành chính được xem là một giải pháp hữu hiệu. Biện pháp cưỡng chế được áp dụng chủ yếu và bắt buộc đối với VPHC là các hình thức xử phạt.
Điểm a khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý VPHC năm 2012 (Luật năm 2012) quy định “mọi VPHCphải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do VPHC gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật”.Với tư duy đó, nếu chỉ áp dụng các hình thức xử phạt thì mới nhằm đến mục đích răn đe, trừng phạt đối với chủ thể vi phạm nhưng lại chưa tối ưu hóa được vai trò của Nhà nước trong việc phục hồi những quan hệ xã hội bị VPHC xâm hại. Vì vậy, bên cạnh việc áp dụng các hình thức xử phạt, pháp luật còn quy định các biện pháp nhất định nhằm khắc phục hậu quả do VPHC gây ra. Theo đó, biện pháp khắc phục hậu quả được hiểu là hình thức cưỡng chế do Nhà nước tiến hành, buộc chủ thể VPHC phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý nhất định nhằm hạn chế hoặc khôi phục lại tình trạng ban đầu do VPHC gây ra.
Căn cứ khoản 1 Điều 28 Luật năm 2012, có thể chiabiện pháp khắc phục hậu quả thành hai nhóm: i. các biện pháp khắc phục hậu quả do luật định; ii. các biện pháp khắc phục hậu quả do văn bản dưới luật quy định.
* Các biện pháp khắc phục hậu quả do luật định:
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;
b) Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;
c) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh;
d) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;
đ) Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại;
e) Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn;
g) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;
h) Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng;
i) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện VPHC hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện VPHC đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật;
Các biện pháp khắc phục hậu quả này được định danh chính thức trong Luật năm 2012. Ngoài ra, Luật năm 2012 cũng quy định cụ thể các chủ thể có quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả và các biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể mà chủ thể đó có quyền áp dụng. Trên cơ sở đó, Chính phủ ban hành nghị định xử phạt VPHC trong các lĩnh vực quy định cụ thể hành vi vi phạm bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả tương xứng. Tuy vẫn tồn tại những hạn chế nhất định[1], song nhìn chung các biện pháp khắc phục hậu quả do luật định tương đối đầy đủ và hợp lý.
* Các biện pháp khắc phục hậu quả khác do nghị định quy định
Các biện pháp khắc phục hậu quả khác do nghị định quy định khá nhiều, tản mạn rải rác trong gần 70 nghị định quy định xử phạt VPHC trong các lĩnh vực. Theo đó, Chính phủ xác định hơn 200 biện pháp khắc phục hậu quả khác nhau như: “buộc phải hạ phần hàng quá tải, dỡ phần hàng vượt quá kích thước quy định theo hướng dẫn của lực lượng chức năng tại nơi phát hiện vi phạm”[2], “buộc đảm bảo quyền lợi của thí sinh đối với hành vi làm mất bài thi”[3], “buộc nộp lại đất, đá, cát, sỏi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi VPHC”[4]...
2. Tính hợp pháp và tính hợp lý trong các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của nghị định
Thứ nhất, các biện pháp khắc phục hậu quả có tính chất cấm đoán, hạn chế quyền con người, quyền công dân không phù hợp với Hiến pháp và luật.
Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo nguyên tắc hiến định này, chỉ có văn bản luật mới có thể đặt ra quy định hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, ngoài Quốc hội, các cơ quan nhà nước khác không có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cũng như xác định nghĩa vụ mới cho công dân.
Với quy định: “các biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định”, Luật năm 2012 ủy quyền lập pháp cho Chính phủ quy định chi tiết các biện pháp khắc phục hậu quả trong từng lĩnh vực chuyên ngành. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc ủy quyền lập pháp phải thực hiện đúng phạm vi, nguyên tắc, nội dung đã được luật định. Điều quan trọng là những biện pháp này không được hạn chế quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có nhiều biện pháp khắc phục hậu quả do Chính phủ quy định đã “tự ý” cắt xén các quyền cũng như thêm các nghĩa vụ mới cho công dân.
Ví dụ, Điều 35 Nghị định số 95/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 88/2015/NĐ-CP) xử phạt VPHC trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, quy định phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi “ở lại nước ngoài trái phép sau khi hết hạn Hợp đồng lao động, hết hạn cư trú”. Vi phạm này đồng thời bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là “buộc về nước” và “cấm đi làm việc ở nước ngoài trong thời hạn 02 năm”. Theo chúng tôi, “buộc về nước” đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để gọi là biện pháp khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, “cấm đi làm việc ở nước ngoài trong thời hạn 02 năm” được áp dụng với tư cách là một biện pháp khắc phục hậu quả thì hoàn toàn không thỏa đáng.
Theo quy định của Điều 35 Hiến pháp năm 2013,“công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”. Làm việc ở trong nước hay ở nước ngoàilà một quyền hiến định của công dân. Vì vậy, quyền làm việc chỉ bị hạn chế trong sáu trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Hành vi “ở lại nước ngoài trái phép sau khi hết hạn Hợp đồng lao động, hết hạn cư trú” tuy VPHC nhưng không rơi vào sáu trường hợp bị hạn chế quyền. Do đó, biện pháp “cấm đi làm việc ở nước ngoài trong thời hạn 02 năm” quy định trong Nghị định số 95/2013/NĐ-CP là không phù hợp với Hiến pháp năm 2013.
Bên cạnh đó, Điều 42Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006 quy định, người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải thỏa mãn các điều kiện: i. có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; ii. tự nguyện đi làm việc ở nước ngoài; iii. có ý thức chấp hành pháp luật, tư cách đạo đức tốt; iv. đủ sức khỏe theo quy định của pháp luật Việt Nam và yêu cầu của nước tiếp nhận người lao động; v. đáp ứng yêu cầu về trình độ ngoại ngữ, chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề và các điều kiện khác theo yêu cầu của nước tiếp nhận người lao động; vi. được cấp chứng chỉ về bồi dưỡng kiến thức cần thiết; vii. không thuộc trường hợp cấm xuất cảnh theo quy định của pháp luật Việt Nam. Pháp luật Việt Nam quy định công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh nếu thuộc trường hợp “đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến công tác điều tra tội phạm”, “đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự, dân sự, kinh tế”, “vì lý do ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm lây lan”[5]… Nếu công dân không thuộc các trường hợp đã nêu thì đương nhiên không bị cấm xuất cảnh. Do đó, nếu cá nhân có hành vi “ở lại nước ngoài trái phép sau khi hết hạn Hợp đồng lao động, hết hạn cư trú” đã bị xử phạt và bị “buộc về nước” thì không thể cấm họ đi làm việc ở nước ngoài trong thời hạn 02 năm. Biện pháp cấm đoán này là trái với Điều 42Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006.  
Ngoài ra, quy định về biện pháp “cấm đi làm việc ở nước ngoài trong thời hạn 02 năm” còn bất hợp lý vì không có khả năng khôi phục lại tình trạng ban đầu do VPHC đã gây ra. Vì vậy, biện pháp này được áp dụng nhằm ngăn ngừa vi phạm mới chứ không thể khắc phục hậu quả do vi phạm cũ gây ra. Do đó, không thể xem đây là biện pháp khắc phục hậu quả.
Khoản 7 Điều 27 Nghị định số 96/2014/NĐ-CP xử phạt VPHC trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng quy định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “không cho mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động trong thời gian chưa khắc phục xong vi phạm” đối với hành vi “che giấu, thanh toán đối với những khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp”. Theo chúng tôi, việc áp dụng biện pháp “không cho mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động trong thời gian chưa khắc phục xong vi phạm” là không thỏa đáng, vi phạm quyền tự do kinh doanh của cá nhân, tổ chức.
Điều 30 Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “tùy theo loại hình hoạt động, sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản, TCTD được thành lập: chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp ở trong nước, kể cả tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi đặt trụ sở chính”. Đối với chi nhánh, văn phòng đại diện thì điều kiện thành lập được quy định trong Thông tư số 40/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011. Tuy nhiên, Thông tư số 40/2011/TT-NHNN không có bất kỳ quy định nào cấm thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện trong thời gian chưa khắc phục xong hậu quả của VPHC. Nghị định số 96/2014/NĐ-CP quy định biện pháp không cho mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động với nội dung cấm thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện là không phù hợp với Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Một điều đáng để suy ngẫm là trong khi pháp luật quy định rất rõ thẩm quyền của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định cấp Giấy phép thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện nhưng quyền này lại có thể bị phủ định bởi Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng; Cục trưởng Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng khi các chủ thể này áp dụng biện pháp “không cho mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động trong thời gian chưa khắc phục xong vi phạm”[6]. Vậy tại sao Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng; Cục trưởng Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng là cấp dưới của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước lại có quyền phủ định quyết định của cấp trên?[7]. Đây là một điều không thực sự hợp lý dưới góc độ triển khai thực hiện quyền lực nhà nước.
Thứ hai, một số biện pháp khắc phục hậu quả “hành chính hóa” các quan hệ dân sự, không phù hợp với các văn bản do Quốc hội ban hành.
Trong hoạt động xử phạt VPHC, nhiều quan hệ dân sự đã bị “hành chính hóa” và kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với các quan hệ dân sự này. Về mặt lý luận, việc áp dụng quy phạm pháp luật của luật hành chính để giải quyết những vấn đề cụ thể của ngành luật khác như kinh tế, dân sự là không chính xác. Quan hệ pháp luật hành chính sử dụng đặc trưng phương pháp điều chỉnh quyền uy - phục tùng khác hẳn với quan hệ pháp luật dân sự đề cao yếu tố thỏa thuận. Do đó, dùng phương pháp mệnh lệnh “can thiệp” vào những quan hệ dân sự đề cao sự tự nguyện của các bên đã gây ảnh hưởng đáng kể đến quyền tự do ý chí, tự chủ thỏa thuận của các chủ thể trong xã hội.
Trách nhiệm hành chính là trách nhiệm pháp lý của cá nhân, tổ chức trước Nhà nước. Do vậy, việc phải thực hiện biện pháp chế tài của cá nhân, tổ chức VPHC là trách nhiệm của họ trước Nhà nước chứ không phải trước một tổ chức hay cá nhân cụ thể nào trong xã hội. Đây là điểm khác biệt giữa trách nhiệm hành chính với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, việc phải thực hiện các biện pháp chế tài của tổ chức, cá nhân bị truy cứu trách nhiệm dân sự là nghĩa vụ của họ trước một cá nhân, tổ chức cụ thể có các quyền và lợi ích dân sự bị xâm hại[8]. Vì vậy, Điều 13 Luật năm 2012 quy định: “người VPHC nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự”. Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều nghị định xử phạt VPHC quy định việc bồi thường thiệt hại là một biện pháp khắc phục hậu quả.
Cụ thể, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP quy định, “buộc bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm gây ra theo quy định của pháp luật” là một biện pháp khắc phục hậu quả là chưa hợp lý. Điều 602 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: “Chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp chủ thể đó không có lỗi”. Như vậy, bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm gây ra được xác định là một trường hợp cụ thể của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp này, cá nhân, tổ chức bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm gây ra. Vì lẽ đó, thẩm quyền “buộc bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm gây ra” sẽ do Tòa án quyết định thông qua thủ tục tố tụng. Điều này cũng được quy định trực tiếp trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014[9]. Do đó, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP “cho phép” nhiều chủ thể, thậm chí đến Thanh tra viên chuyên ngành bảo vệ môi trường, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường của Sở Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang thi hành công vụ[10] có quyền áp dụng “buộc bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm gây ra” như một biện pháp khắc phục hậu quả là không phù hợp với quy định của BLDS năm 2015 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.
Nghị định số 155/2016/NĐ-CP, Nghị định số 134/2013/NĐ-CP quy định biện pháp khắc phục hậu quả “buộc bồi thường toàn bộ số tiền bị thiệt hại”đối với vi phạm trong lĩnh vực điện lực[11]. Về bản chất, quan hệ giữa bên bán điện và khách hàng sử dụng điện là một quan hệ dân sự (hợp đồng giữa bên bán điện và bên mua điện)[12]. Do đó, nếu VPHC trong lĩnh vực điện lực gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì bên vi phạm phải bồi thường theo pháp luật dân sự. Việc Nghị định số 134/2013/NĐ-CP quy định cho nhiều chủ thể áp dụng “buộc bồi thường toàn bộ số tiền bị thiệt hại” với tư cách một biện pháp khắc phục hậu quả là không phù hợp với quy định củaLuật Điện lực năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)[13].
Tương tự, Nghị định số 178/2013/NĐ-CP xử phạt VPHC về an toàn thực phẩm quy định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: “buộc chịu mọi chi phí cho việc xử lý ngộ độc thực phẩm, khám, điều trị người bị ngộ độc thực phẩm” đối với hành vi “kinh doanh dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố không bảo đảm an toàn thực phẩm dẫn đến ngộ độc thực phẩm” và “cơ sở sản xuất, kinh doanh nơi có cơ sở chế biến suất ăn sẵn, căng tin kinh doanh ăn uống, bếp ăn tập thể, bếp ăn, nhà hàng ăn uống của khách sạn, khu nghỉ dưỡng, nhà hàng ăn uống xảy ra ngộ độc thực phẩm”[14]. Tuy nhiên, “buộc chịu mọi chi phí cho việc xử lý ngộ độc thực phẩm, khám, điều trị người bị ngộ độc thực phẩm” được áp dụng với tư cách là biện pháp khắc phục hậu quả như quy định trong Nghị định số 178/2013/NĐ-CP là không chính xác. Điều 6 Luật An toàn thực phẩm năm 2010 quy định: “tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý VPHC hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường và khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật”. Khoản 5 Điều 53 Luật An toàn thực phẩm năm 2010 làm rõ hơn: “tổ chức, cá nhân cung cấp thực phẩm mà gây ngộ độc phải chịu toàn bộ chi phí điều trị cho người bị ngộ độc và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật về dân sự.
Qua các quy định trên, có thể khẳng định, việc cung cấp thực phẩm gây ngộ độc cho người tiêu dùng thì phải bồi thường. Tuy nhiên, việc bồi thường này phải theo pháp luật dân sự chứ không thể theo chế tài xử phạt VPHC. Trong khi đó, Điều 608 BLDS năm 2015 còn khẳng định: “cá nhân, pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường”. Việc bồi thường này bao gồm các khoản: i. chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; ii. thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; iii. chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; iv. thiệt hại khác do luật quy định[15]. Do đó, “chi phí cho việc xử lý ngộ độc thực phẩm, khám, điều trị người bị ngộ độc thực phẩm” chỉ là một khoản chi phí trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và “buộc chịu mọi chi phí cho việc xử lý ngộ độc thực phẩm, khám, điều trị người bị ngộ độc thực phẩm” phải được thực hiện theo thủ tục tố tụng dân sự chứ không phải theo thủ tục hành chính.
Khác vớiNghị định số 178/2013/NĐ-CP, Nghị định số 55/2009/NĐ-CP xử phạt VPHC về bình đẳng giới quy định “người thực hiện VPHC gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân, ngoài bị xử phạt VPHC còn phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự[16]. Rõ ràng, cách quy định như Nghị định số 55/2009/NĐ-CP là hợp lý hơn so với Nghị định số 178/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên, bên cạnh điều khoản vừa nêu, Nghị định số 55/2009/NĐ-CP lại quy định thêm biện pháp khắc phục hậu quả: “buộc chịu mọi chi phí khám bệnh, chữa bệnh hợp lý trong trường hợp hành vi VPHC gây thiệt hại về sức khỏe, tinh thần”[17]. Theo các quy định này, người vi phạm vừa bị áp dụng pháp khắc phục hậu quả “buộc chịu mọi chi phí khám bệnh, chữa bệnh hợp lý trong trường hợp hành vi VPHC gây thiệt hại về sức khỏe, tinh thần” vừa bị “bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự”. Nếu vậy, ranh giới giữa hai chế tài này như thế nào? Thiết nghĩ, các khoản chi phí khám bệnh, chữa bệnh nếu muốn xác định có hợp lý hay không chỉ có thể được thực hiện bởi tòa án thông qua thủ tục tố tụng tố tụng nghiêm ngặt chứ không thể thực hiện thông qua thủ tục hành chính.
Thứ ba, nhiều biện pháp khắc phục hậu quả không khả thi, không rõ ràng nên khó áp dụng vào thực tiễn.
Hiện nay, trong các nghị định có rất nhiều các biện pháp khắc phục hậu quả nhưng không mang tính khả thi. Từ đó, dẫn đến tình trạng khó áp dụng vào thực tiễn. Ví dụ, Nghị định số 103/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 41/2017/NĐ-CP)quy định các biện pháp khắc phục hậu quả mang tiêu chí định tính nên rất khó xác định trên thực tế. Ví dụ, biện pháp khắc phục hậu quả “chuyển giao số thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng bị thương cho cơ sở cứu hộ đểchữa trị, phục hồi và thả về môi trường sống khi đủ điều kiện” rất khó được áp dụng trong thực tế. Về thực tiễn, phải nhận thức rằng việc xác định tiêu chí “khi đủ điều kiện” là không hề đơn giản. Bên cạnh đó, tiêu chí “khi đủ điều kiện” được đánh giá trên cơ sở nào và ai là người có thẩm quyền đánh giá thì lại không được quy định cụ thể. Ngoài ra, biện pháp “buộc tiếp tục nuôi thủy sản đến khi kết quả kiểm nghiệm dư lượng hóa chất, kháng sinh dưới mức giới hạn tối đa cho phép”cũng không khả thi bởi thủ tục, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả chưa được pháp luật quy định. Có lẽ vì sự phức tạp và bất khả thi nên mặc dù Nghị định số 103/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 41/2017/NĐ-CP)liệt kê “chuyển giao số thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng bị thương cho cơ sở cứu hộ để chữa trị, phục hồi và thả về môi trường sống khi đủ điều kiện”, “buộc tiếp tục nuôi thủy sản đến khi kết quả kiểm nghiệm dư lượng hóa chất, kháng sinh dưới mức giới hạn tối đa cho phép”là biện pháp khắc phục hậu quả nhưng Nghị định số 103/2013/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định số 41/2017/NĐ-CP) lại không quy định bất cứ hành vi nào bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này.
Nghị định số 144/2013/NĐ-CP xử phạt VPHC về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em quy định biện pháp khắc phục hậu quả: “buộc thực hiện ngay các biện pháp để khắc phục tình trạng thiếu an toàn”. Mặc dù ý nghĩa của biện pháp này là lớn lao, tuy nhiên, trong trường hợp này, việc sử dụng từ “ngay” là không hợp lý vì không có tiêu chí đánh giá cụ thể thế nào là “ngay”. Sự hạn chế về kỹ thuật lập pháp khi không giải thích rõ ràng thế nào là “thực hiện ngaycác biện pháp để khắc phục tình trạng thiếu an toàn” đã làm cho quy định này trở nên thiếu tính khả thi khi áp dụng trong thực tế.
Thứ tư, các biện pháp khắc phục hậu quả trong nghị định tuy nhiều nhưng không bao quát được hết các hành vi vi phạm. Từ đó dẫn đến thực trạng là nhiều VPHC lẽ ra phải áp dụng biện khắc phục hậu quả để khôi phục lại tình trạng ban đầu do VPHC gây ra nhưng lại không bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả tương ứng.
Điều 8 Nghị định số 159/2013/NĐ-CP xử phạt VPHC về nội dung thông tin trong hoạt động báo chí chỉ quy định áp dụng duy nhất biện pháp khắc phục hậu quả: “buộc cải chính, xin lỗi” mà không áp dụng các biện pháp khác. Như vậy, đối với những vi phạm như “đăng, phát thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng nghiêm trọng”, “đăng, phát thông tin xuyên tạc, vu khống nhằm xúc phạm danh dự, uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân”… thì người có thẩm quyền xử phạt chỉ có quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc cải chính, xin lỗi”. Trong các trường hợp này, “buộc cải chính, xin lỗi” là cần thiết. Tuy nhiên, nếu chỉ cải chính, xin lỗi bằng một bài viết ngắn và “để mặc” sự tồn tại của các thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy thì trong nhiều trường hợp còn lợi bất cập hại. Nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu mà vi phạm đã gây ra thì nhà làm luật cần phải quy định rõ ràng bên cạnh áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc cải chính, xin lỗi”, còn phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: “buộc gỡ bỏ xuất bản phẩm điện tử vi phạm các quy định của pháp luật”. Để lấp lỗ hổng này, Điều 42 Luật Báo chí năm 2016 quy định thêm biện pháp: “đối với báo chí điện tử, ngoài việc đăng, phát lời cải chính, xin lỗi còn phải gỡ bỏ ngay thông tin sai sự thật đã đăng, phát”. Tuy nhiên, biện pháp “buộc gỡ bỏ ngay thông tin”chỉ áp dụng đối với các thông tin sai sự thật. Bất cập này dẫn đến thực trạng là người có thẩm quyền xử phạt bị “trói tay” khi không tìm thấy cơ sở pháp lý vững chắc để buộc người vi phạm phải gỡ bỏ bài viết “kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy”, “tiết lộ bí mật đời tư khi chưa được sự đồng ý của người đó”bởi trong trường hợp này, các thông tincó thể không sai sự thật nên không thuộc phạm vi điều chỉnh củaĐiều 42 Luật Báo chí năm 2016[18].
Điều 14 Nghị định số 148/2013/NĐ-CP xử phạt VPHC trong lĩnh vực dạy nghề quy định hành vi “thi tốt nghiệp thay người khác”sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Ngoài chế tài phạt tiền, vi phạm này không bị áp dụng bất cứ hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả nào khác. Tuy nhiên, nếu xảy ra trường hợp thi thay người khác, đã có kết quả đậu, được cấp văn bằng, chứng chỉ nghề, sau đó mới phát hiện hành vi vi phạm thì giải quyết thế nào?
Theo quy định của Nghị định số 148/2013/NĐ-CP, người thi thay chỉ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Tuy nhiên, nếu chỉ xử phạt người thi thay mà không xử phạt người nhờ thi thay thì chẳng khác nào thỏa hiệp với tư duy “phạt và đồng ý cho tồn tại”. Trong trường hợp này lẽ ra phải quy định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: “buộc thu hồi văn bằng, chứng chỉ nghề đã cấp” thì mới khôi phục được tình trạng ban đầu do VPHC gây ra. Tuy Điều 3 Nghị định số 148/2013/NĐ-CP có quy định biện pháp khắc phục hậu quả “buộc thu hồi văn bằng, chứng chỉ nghề đã cấp” nhưng biện pháp này lại không được áp dụng đối với vi phạm “thi tốt nghiệp thay người khác” được quy định tại Điều 14 Nghị định số 148/2013/NĐ-CP. Điều này dẫn đến thực trạng là không xử lý dứt điểm VPHC và cũng không phù hợp với nguyên tắc “mọi hậu quả do VPHC gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật” được quy định tại Điều 3 Luật Xử lý VPHC năm 2012.
Thứ năm, việc áp dụng sai các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của nghị định gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức lại không được Nhà nước bồi thường là một vấn đề cần được nghiên cứu hoàn thiện.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao công lý và lẽ phải. Điều này đòi hỏi khi ban hành một quyết định hành chính hay thực hiện một hành vi hành chính trái pháp luật thì các chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý. Một trong những trách nhiệm được đề cập đến đó là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy định Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp áp dụng một trong các biện pháp khắc phục hậu quả trái pháp luật. Tuy nhiên, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 chỉ “gói gọn” trách nhiệm bồi thường trong việc áp dụng trái pháp luật một trong các biện pháp khắc phục hậu quả do Luật này quy định[19]. Ở đây đặt ra câu hỏi: trong trường hợp người có thẩm quyền áp dụng trái pháp luật các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của nghị định mà gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường hay không? Vấn đề này cần được nghiêm túc nghiên cứu để có những giải pháp hoàn thiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. 

 


[1] Cao Vũ Minh - Nguyễn Nhật Khanh, “Quy định pháp luật về biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt VPHC”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6, 2017.
[2] Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 về xử phạt VPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
[3] Nghị định số 138/2013/NĐ-CP ngày 22/10/2013 về xử phạt VPHC trong lĩnh vực giáo dục.
[4] Nghị định số 104/2017/NĐ-CP ngày 14/9/2017 xử phạt VPHC trong lĩnh vực phòng, chống thiên tai; khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi; đê điều.
[5] Xem thêm Điều 21 Nghị định số 136/2007/NĐ-CP về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 94/2015/NĐ-CP) quy định các trường hợp công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh.
 
[6] Theo Nghị định số 96/2014/NĐ-CP thì Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng; Cục trưởng Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng có quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “không cho mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động trong thời gian chưa khắc phục xong vi phạm”.
[7] Khoản 2 Điều 17 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Chánh Thanh tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ”. Khoản 8 Điều 24 Nghị định số 123/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/9/2016 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định: “Bộ trưởng quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức, đình chỉ công tác, khen thưởng, kỷ luật người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu: vụ, cục, thanh tra, văn phòng, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ và phòng thuộc vụ (nếu có), phòng thuộc Thanh tra Bộ, phòng thuộc Văn phòng Bộ theo quy định của pháp luật”.
[8] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Trần Minh Hương (chủ biên), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2012, tr. 328.
[9] Điều 161 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định: “Tranh chấp liên quan đến bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng”.
[10] Khoản 1 Điều 50 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
[11] Điểm d khoản 12 Điều 12 Nghị định số 134/2013/NĐ-CP ngày 17/10/2013 xử phạt VPHC trong lĩnh vực điện lực, an toàn đập thủy điện, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
[12] Điều 46 Luật Điện lực năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012).
[13] Cao Vũ Minh, Bất cập trong quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực điện lực”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 07, 2018.
[14] Khoản 2 Điều 20, khoản 3 Điều 21, khoản 3 Điều 22 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 xử phạt VPHC về an toàn thực phẩm.
[15] Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015.
[16] Điểm c khoản 3 Điều 5 Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 xử phạt VPHC về bình đẳng giới.
[17] Khoản 4 Điều 5 Nghị định số 55/2009/NĐ-CP xử phạt VPHC về bình đẳng giới.
[18] Các thông tin “kích động bạo lực”, “tiết lộ bí mật đời tư khi chưa được sự đồng ý của người đó” có thể không phải là thông tin sai sự thật nhưng việc đăng, phát những thông tin này mang tính tiêu cực cho xã hội nên bị xử phạt. Tuy nhiên, theo Điều 42 Luật Báo chí năm 2016, nếu đó không phải là thông tin sai sự thật thì cơ quan nhà nước không có quyền yêu cầu chủ thể vi phạm gỡ bỏ thông tin này.
[19] Khoản 3 Điều 17 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy định:
“Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp áp dụng một trong các biện pháp khắc phục hậu quả VPHC sau đây trái pháp luật:
a) Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;
b) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;
c) Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng”.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 17 (369), tháng 9/2018)