Khái niệm và các loại nhãn hiệu trong quy định của pháp luật Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam

01/08/2018

TS. VŨ THỊ PHƯƠNG LAN

Trường Đại học Luật Hà Nội.

Tóm tắt: Trong nền kinh tế toàn cầu, nhãn hiệu của các doanh nghiệp không những được coi là tài sản quý giá của doanh nghiệp mà còn là công cụ để các nền kinh tế xâm nhập một cách hiệu quả hơn vào thị trường các quốc gia khác. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới sẽ làm cho năng suất và hiệu quả kinh tế ngày càng tăng, kéo theo đó là xu hướng hình thành ngày càng nhiều các loại nhãn hiệu đa dạng và có giá trị cao. Việc tìm hiểu và so sánh quy định của pháp luật Hoa Kỳ và Nhật Bản và Việt Nam về các loại nhãn hiệu sẽ không chỉ giúp hiểu biết sâu sắc hơn về pháp luật của các nước về vấn đề này mà còn giúp đánh giá sự tương thích của pháp luật Việt Nam với các quốc gia hiện đang dẫn đầu cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khoá: nhãn hiệu, phân loại nhãn hiệu, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết, bảo hộ nhãn hiệu Hoa Kỳ, bảo hộ nhãn hiệu Nhật Bản.
Abstract: In the global economy, the corporate branding is not only understood as a valuable corporate asset, but also a tool for the economies to more effectively penetrate into the other markets of the world. The Industrial Revolution 4.0 is taking place in several parts of the world, increasing the productivity and efficiency of the world economy, leading to the emergence of more and more diversal and highly valuable brands. It is requested to understand and make comparison of the laws of the United States of America and Japan and Vietnam on trademarks will not only provide a in-depth understandings of the laws of the concerned countries but also help us to assess the similarity of the law of Vietnam with these countries currently leading the Industrial Revolution 4.0
Keywords: brands; brand classification; good brands; service brands; collective brands; certified brands; associated brands; brand protection in the United States of America; brand protection in Japan.
 Untitled_176.jpg
Ảnh minh họa: nguồn internet
1.Quy định củapháp luật Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam về khái niệm nhãn hiệu
1.1 Quy định của pháp luật Hoa Kỳ
Các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu của Hoa Kỳ được điều chỉnh bởi Đạo luật Lanham (Lanham Act) Luật về Nhãn hiệu ban hành năm 1946 và được sửa đổi nhiều lần trong quá trình áp dụng (lần sửa đổi gần đây nhất là ngày 7/10/2016)[1]. Trong Luật này có hai quy phạm liên quan đến định nghĩa về nhãn hiệu có phần nào đó khác nhau. Phần định nghĩa Luật này quy định: “Thuật ngữ nhãn hiệu bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng, hay hình vẽ, hoặc sự kết hợp giữa chúng mà - (1) được sử dụng bởi một người, hoặc (2) được một người có ý định chân thành là sử dụng nó trong thương mại và xin đăng ký theo quy định tại luật này - để xác định và phân biệt hàng hóa của người đó, bao gồm cả các hàng hóa đặc chủng, với những hàng hóa cùng loại được sản xuất hoặc được bán bởi những người khác và để chỉ rõ nguồn gốc của hàng hóa thậm chí khi mà không xác định được nguồn gốc đó”.
Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, các yếu tố được công nhận trong khái niệm nhãn hiệu chỉ bao gồm những yếu tố truyền thống như tên gọi, biểu tượng, hình vẽ hay sự kết hợp giữa chúng mà thôi. Các yếu tố mới không mang tính chất truyền thống nhưng vẫn có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp khác nhau như âm thanh, hay mùi, dường như chưa được bao trùm trong định nghĩa này. Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển mạnh mẽ và đa dạng của nền kinh tế, Hoa Kỳ là một trong những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và cho đăng ký các nhãn hiệu chứa đựng các yếu tố mới này. Thực tiễn này diễn ra là nhờ việc giải thích một điều khoản có tính mở trong Điều 2 Luật Nhãn hiệu năm 1946 của Hoa Kỳ. Điều luật này quy định: “Không có nhãn hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa của người nộp đơn với những hàng hóa của những người khác lại bị từ chối đăng ký vào sổ đăng ký…”. Theo tinh thần của điều khoản này, bất kỳ dấu hiệu nào, không phân biệt định hình hay không định hình nếu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp thì đều có thể được coi là nhãn hiệu, miễn là nó có khả năng phân biệt hàng hóa của người này với hàng hóa cùng loại của người khác.
1.2 Quy định của pháp luật Nhật Bản
Pháp luật hiện hành của Nhật Bản về nhãn hiệu là Đạo luật về Nhãn hiệu (Trademark Act) ban hành năm 1959 và được sửa đổi lần gần đây nhất năm 2015. Pháp luật Nhật Bản về nhãn hiệu có thiên hướng nghiêng về phía truyền thống. Khác với quy định mở của pháp luật Hoa Kỳ, pháp luật Nhật Bản quy định nhãn hiệu là các chữ cái, con số, dấu hiệu, hình họa ba chiều hay sự kết hợp giữa chúng có thể có màu sắc, thỏa mãn một trong hai điều kiện sau: thứ nhất, đối với nhãn hiệu gắn lên hàng hóa, nó phải được sử dụng đối với hàng hóa mà một người sản xuất, xác nhận hay đem vào lưu thông; hoặc thứ hai, đối với nhãn hiệu dịch vụ, nó được sử dụng đối với dịch vụ mà một người cung cấp hay xác nhận trong quá trình thương mại. Và theo quy định này, đến nay pháp luật Nhật Bản cũng như Cục Sở hữu công nghệ Nhật Bản vẫn chưa công nhận cho đăng ký nhãn hiệu âm thanh và mùi[2].
1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam
Hiện nay, các vấn đề liên quan đến đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (Luật SHTT 2005 - sửa đổi năm 2009) và các văn bản hướng dẫn như Nghị định số 122/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về sở hữu công nghiệp và một số văn bản khác.
Điều 4 khoản 16 Luật SHTT 2005 quy định: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Quy định này nhấn mạnh đến chức năng và cũng là mục đích của nhãn hiệu, là để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Xét về nội dung, có thể thấy đây là một định nghĩa mở, không có sự hạn chế các dấu hiệu cụ thể được sử dụng làm nhãn hiệu. Về mặt pháp lý, bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau đều có thể trở thành nhãn hiệu.
2. Quy định cùa pháp luật Hoa Kỳ, Nhật Bản, Việt Nam về các yếu tố có thể cấu thành nhãn hiệu
Nếu xét ở nghĩa rộng nhất của khái niệm nhãn hiệu, tức là dựa vào chức năng phân biệt nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ của nó, nhãn hiệu có thể được tạo thành bởi rất nhiều loại yếu tố khác nhau, bao gồm:
- Các từ ngữ, chữ cái và chữ số, ví dụ một hay nhiều từ ngữ, chữ cái, một hay nhiều số hay sự kết hợp giữa chúng. Đây cũng là một dạng nhãn hiệu phổ biến. Tuy nhiên, không phải bất kỳ chữ cái hay chữ số nào cũng có thể đăng ký làm nhãn hiệu. Đặc biệt là các chữ cái đứng đơn lẻ và không được cách điệu thì thường bị đa số pháp luật các nước và pháp luật quốc tế coi là không có tính phân biệt và vì thế không có khả năng đăng ký nhãn hiệu. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hình và hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không thông dụng thì không được đăng ký làm nhãn hiệu, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu[3]. Luật về Nhãn hiệu của Hoa Kỳ, với một cách tiếp cận luôn luôn mở, không đề cập gì đến điều kiện về sự kết hợp có thể phát âm được hay với những số lượng chữ cái, chữ số tối thiểu để một nhãn chữ cái hoặc chữ số có thể được đăng ký như một nhãn hiệu. Pháp luật Nhật Bản lại không quy định một cách cứng nhắc buộc việc kết hợp các chữ cái phải theo một thứ tự có thể phát âm được. Các nhãn chỉ gồm chữ cái và chữ số, nếu chỉ có một chữ cái hoặc chữ số thì sẽ bị coi là quá đơn giản và theo đó không được đăng ký. Ngoài ra, một quy định khá đặc biệt nữa là nếu hai chữ cái alphabet được nối với nhau bằng dấu gạch ngang (-) thì sẽ bị coi là quá đơn giản không được đăng ký trong khi nếu nối với nhau bằng dấu “&” thì lại được coi là có tính phân biệt và có khả năng đăng ký[4].
- Hình vẽ: Bao gồm các hình vẽ trang trí, các nét vẽ, biểu tượng hoặc hình họa hai chiều của hàng hóa hay bao bì. Hầu hết pháp luật các quốc gia đều công nhận các hình vẽ, biểu tượng có tính phân biệt và có khả năng đăng ký bảo hộ cao. Tuy nhiên, ngoại trừ pháp luật Hoa Kỳ, pháp luật Nhật Bản, Việt Nam đều không công nhận đăng ký nhãn hiệu cho các dấu hiệu hình học hai chiều đơn giản ví dụ hình tam giác ngược hoặc xuôi, hình vuông, hình tròn, hình bình hành, hình quả tim, nguyệt quế… Các hình học cơ bản này muốn được đăng ký làm nhãn hiệu thường phải được trình bày một cách cách điệu để tạo thành sự khác biệt giống như trường hợp chữ “S” có nhiều nét lồng vào nhau làm nhãn hiệu dòng xe SEAT của Tây Ban Nha.
- Các dấu hiệu màu sắc: Loại này bao gồm các từ ngữ, hình vẽ và bất kỳ sự kết hợp nào giữa chúng có màu sắc hoặc sự kết hợp màu sắc hoặc bản thân màu sắc. Việc sử dụng các chữ cái, hình họa với màu sắc hoặc kết hợp với màu sắc nói chung thường làm tăng thêm tính phân biệt của chúng. Vì thế, các đơn đăng ký đối với những dấu hiệu trong đó có nói rõ màu sắc dùng hay mô tả trong đơn thường dễ được đăng ký hơn.
- Các dấu hiệu và hình ảnh ba chiều: Đây là một loại nhãn hiệu mới đang được các doanh nghiệp ngày càng ưa chuộng. Các dấu hiệu và hình ảnh ba chiều thường tạo ra hình ảnh rất mạnh, dễ tác động và in sâu vào tâm trí người tiêu dùng vì thế chúng có khả năng phân biệt rất cao (ví dụ: ngôi sao ba cánh nổi nằm trong vòng tròn của xe Mercedes, hình con sư tử đứng hai chân nổi của xe Peugeot, hình con ngựa bay đúc nguyên khối của xe Roll-Royce).
- Các dấu hiệu thính giác (nhãn hiệu âm thanh) và các dấu hiệu khứu giác (nhãn hiệu mùi): Đây là hai loại nhãn hiệu mới phát triển trong thời gian gần đây do nhu cầu phát triển đa dạng của nền kinh tế, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của thương mại hàng hóa. Các doanh nghiệp năng động phát hiện ra rằng âm thanh cũng có khả năng làm cho người tiêu dùng nhận biết được hàng hóa mà mình cần dùng hay giúp người tiêu dùng phân biệt được nguồn gốc sản xuất khác nhau của hàng hóa cùng loại, ngay cả khi người tiêu dùng chưa nhìn thấy hàng hóa. Đối với nhãn hiệu khứu giác (nhãn hiệu mùi) chưa có sự phát triển mạnh mẽ như nhãn hiệu âm thanh. Một trong những lý do của thực tiễn này là vì, không giống như nhãn âm thanh hay nhãn ba chiều, việc mô tả các mùi là hết sức khó khăn, đặc biệt là các mùi tự tạo không có trong thiên nhiên. Một lý do nữa là trong việc giúp người tiêu dùng phân biệt và nhận ra sản phẩm quen dùng, các mùi không có hiệu quả cao như hình ảnh hoặc âm thanh. Vì thế cho đến nay vẫn chỉ mới có một số mùi nhất định đăng ký cho một số hàng hóa đặc thù nhất định. Đó là những mùi đặc trưng (hay còn gọi là mùi cơ bản) mà không cần mô tả ai cũng có thể biết và nhận ra chúng, ví dụ mùi vanila đăng ký cho một số loại bánh kẹo hay hương liệu, mùi hoa Plimeria đăng ký cho chỉ may và sợi thêu.
- Những dấu hiệu khác (không nhìn thấy được): Ví dụ những dấu hiệu loại này được nhận biết qua xúc giác thường dành để gắn lên những loại hàng hóa giúp cho người khiếm thị nhận biết được hàng hóa mình cần chọn. Về bản chất, lý thuyết về những dấu hiệu khác không nhìn thấy được có khả năng đăng ký làm nhãn hiệu được phát triển trên cơ sở “tính mở” của khái niệm nhãn hiệu như quy định của Hoa Kỳ. Về nguyên tắc, bất kỳ dấu hiệu nào có thể phân biệt hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác đều có thể được coi là nhãn hiệu. Có thể có những nhân tố mà ngày nay chúng ta chưa xác định được nhưng trong tương lai, với sự ra đời và phát triển của của các môi trường mới như internet, thực tại ảo (Virtual Reality), chúng có thể thỏa mãn chức năng phân biệt của một nhãn hiệu.
Qua quy định của pháp luật Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam về khái niệm nhãn hiệu, có thể thấy Hoa Kỳ và Việt Nam có quy định cởi mở nhất. Về mặt pháp lý, tất cả các dấu hiệu trên đây đều có thể được đăng ký nhãn hiệu ở hai quốc gia này. Điểm khác biệt có lẽ nằm ở thực tiễn thi hành pháp luật về nhãn hiệu. Trong khi thực tiễn này ở Việt Nam còn tương đối nghèo nàn thì thực tiễn ở Hoa Kỳ đã rất phong phú. Nền kinh tế lớn nhất và phát triển sôi động nhất trên thế giới đã thúc đẩy các nhà sản xuất, các doanh nghiệp tận dụng triệt để lợi thế từ các quy định về bảo hộ nhãn hiệu. Các loại nhãn hiệu mới nhất như nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi đều đã được đăng ký bảo hộ ở Hoa Kỳ. Nhà sản xuất và bán lẻ kem hàng đầu thế giới Wall của Hoa Kỳ đã đăng ký giai điệu âm nhạc đặc trưng trên các xe bán kem lưu động làm nhãn hiệu âm thanh độc đáo cho sản phẩm kem của mình. Sự ra đời của Internet và thương mại điện tử càng làm cho môi trường kinh doanh trở nên đa dạng và nhãn hiệu âm thanh phát huy được vai trò của mình một cách tích cực hơn.Ví dụ nhà sản xuất hoặc phân phối có thể “nhắc nhở” khách hàng mua sản phẩm của mình khi người này đang duyệt các trang web bán các sản phẩm cùng loại bằng một tín hiệu âm thanh đặc trưng cho sản phẩm của mình. Ở Hoa Kỳ hiện có hai dạng nhãn âm thanh thường được sử dụng. Đó là những nốt nhạc hoặc tiết tấu nhạc ngắn được sáng tác (ví dụ các âm thanh của chương trình Windows) hoặc các âm thanh trong tự nhiên (ví dụ tiếng gầm của loài thú hay hay tiếng rì rào của biển cả). Hiện tại đã có hàng trăm nhãn hiệu âm thanh khác nhau được đăng ký tại Cục Sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ, từ dịch vụ giải trí đa phương tiện đến chương trình máy tính và kinh doanh nhà hàng[5]… Cũng giống như nhãn hiệu ba chiều, để được đăng ký bảo hộ thì nhãn hiệu âm thanh phải được thể hiện thành các nốt nhạc và tiết tấu nhạc trên giấy. Và do đó, trên thực tế cái cần bảo hộ là giai điệu nhạc gắn lên hàng hóa, dịch vụ trong khi đó cái được bảo hộ lại là những nốt nhạc và tiết tấu nhạc mà người nộp đơn thể hiện trên giấy. Nhãn hiệu mùi hương cũng đã được sử dụng, ví dụ mùi hoa cỏ tươi tái hiện mùi hoa Plimeria đã được đăng ký cho mặt hàng chỉ may và sợi thêu[6].
So với pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam, pháp luật Nhật Bản với cách tiếp cận truyền thống hiện chưa tính đến các yếu tố mùi và âm thanh trong cấu thành nhãn hiệu và do đó loại bỏ các nhãn hiệu âm thanh và mùi ra khỏi thực tiễn đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu của mình[7].
3. Quy định của pháp luật Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam về các loại nhãn hiệu
Trong thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu của các nước và quốc tế, nhãn hiệu thường được chia thành các loại khác nhau dựa trên các căn cứ phân loại khác nhau và tùy thuộc vào đặc điểm của từng loại. Những loại nhãn hiệu phổ biến nhất được quy định trong pháp luật của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam là nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết và nhãn hiệu nổi tiếng. Pháp luật Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam quy định về các loại nhãn hiệu này có những điểm giống và khác nhau khá cơ bản.
3.1 Nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ
Tất cả các văn bản pháp luật của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Việt Nam phân tích ở đây đều có sự phân biệt giống nhau giữa nhãn hiệu hàng hóa (NHHH) và nhãn hiệu dịch vụ (NHDV). Sự phân biệt giữa hai loại nhãn hiệu này chỉ ở chỗ NHHH là những dấu hiệu phân biệt được gắn lên các sản phẩm là hàng hóa; còn các NHDV là những dấu hiệu phân biệt dành cho các sản phẩm dịch vụ, tức là các sản phẩm vô hình do một người hay một doanh nghiệp thực hiện để phục vụ một hay nhiều người hay doanh nghiệp khác. Ngoài sự khác biệt này, NHHH và NHDV cơ bản trùng nhau về bản chất. Bởi vì NHDV cũng mang đầy đủ chức năng biểu hiện nguồn gốc và phân biệt đối với dịch vụ giống như các chức năng tương tự của NHHH đối với hàng hóa. Trong pháp luật của cả ba quốc gia, NHDV được đăng ký, gia hạn và hủy bỏ theo cùng một cách như NHHH và được chuyển giao hoặc cấp phép sử dụng theo cùng những điều kiện như NHHH. Vì thế, các quy định điều chỉnh NHHH ở các nước cũng được áp dụng, về nguyên tắc, giống hệt của NHDV.
3.2 Nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận
Trong nhiều trường hợp, nhãn hiệu xác định một nhóm doanh nghiệp là nguồn gốc của hàng hóa sản xuất ra hoặc dịch vụ cung cấp. Người ta có thể chia các nhãn hiệu do một tập thể các doanh nghiệp làm chủ Văn bằng hoặc cùng sử dụng một nhãn hiệu chung ra làm hai dạng: nhãn hiệu tập thể (NHTT) và nhãn hiệu chứng nhận (NHCN). Theo pháp luật của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam, mục đích sử dụng của hai loại nhãn hiệu này có sự khác nhau. NHTT biểu thị sự liên minh của một số doanh nghiệp sử dụng nhãn hiệu. Trong khi đó NHCN dẫn chiếu đến những tiêu chuẩn nhất định mà các sản phẩm sử dụng nhãn phải đáp ứng.
Dưới đây là những đặc điểm giống và khác nhau trong những quy định của pháp luật của ba quốc gia về vấn đề này.
3.2.1 Nhãn hiệu tập thể (NHTT)
Theo định nghĩa của Luật Nhãn hiệu của Hoa Kỳ năm 1946, thuật ngữ “NHTT” có nghĩa là NHHH hoặc NHDV được sử dụng bởi các thành viên của một hiệp hội, các nhóm hay tổ chức tập thể khác, hoặc được hiệp hội, nhóm tập thể khác này có ý định chân thành trong việc sử dụng nó với mục đích thương mại và xin đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền và bao gồm các nhãn chỉ ra mối quan hệ thành viên trong liên minh, trong hiệp hội hay trong tổ chức tập thể.
Như vậy, pháp luật Hoa Kỳ phân biệt có hai loại NHTT: Thứ nhất, NHTT dưới dạng NHHH hay NHDV được đăng ký và sử dụng bởi một tổ chức tập thể và thành viên của tổ chức tập thể. Chức năng của NHTT này là phân biệt nguồn gốc thương mại của sản phẩm mang nhãn của bản thân tổ chức tập thể. Lúc này tổ chức tập thể có tư cách không khác gì một tổ chức đơn lẻ đứng ra đăng ký nhãn hiệu. Và bản thân NHTT lúc này cũng không khác gì một NHHH hay NHDV thông thường; Thứ hai, NHTT được gọi là nhãn hiệu tư cách thành viên tập thể. Những nhãn hiệu thuộc loại này là những NHTT chân chính. Chúng được sử dụng bởi thành viên của một tổ chức tập thể với mục đích chỉ ra tư cách thành viên trong tổ chức đó. Bản thân tổ chức tập thể có thể đứng ra đại diện đăng ký nhãn hiệu loại này và thực thi các quyền của chủ sở hữu. Tuy nhiên, người trực tiếp có quyền gắn nhãn hiệu đó lên sản phẩm là các thành viên của tổ chức tập thể. Vì vậy, giữa các thành viên thường phải có quy chế về việc sử dụng NHTT này[8].
Pháp luật nhãn hiệu của Nhật Bản chỉ công nhận một loại NHTT được sử dụng chung bởi các thành viên của một tổ chức tập thể. Các nhãn hiệu nếu không được sử dụng bởi cả tổ chức tập thể và các thành viên hay chỉ được sử dụng bởi bản thân tổ chức tập thể thì sẽ không có khả năng đăng ký như một NHTT. Tuy nhiên, khi đăng ký NHTT, tổ chức kinh tế tập thể chỉ cần điền vào một mẫu đơn đăng ký được làm sẵn và nộp các tài liệu chứng minh tư cách pháp nhân của mình. Các cơ quan phụ trách việc đăng ký có thể sẽ yêu cầu nộp quy chế sử dụng nhãn hiệu khi cần thiết[9].
Đối với pháp luật Việt Nam, NHTT vẫn là một khái niệm tương đối mới. Luật SHTT 2005 (sửa đổi năm 2009) chỉ bao hàm một số quy định rất sơ sài về NHTT. Theo đó, nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó[10]. Đối với NHTT, quyền nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ thuộc về tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp, các thành viên của tổ chức đó được sử dụng nhãn hiệu theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể[11]. Khi đăng ký NHTT, người nộp đơn cũng phải nộp một bản quy chế sử dụng NHTT đó cho Cục SHTT[12]. Căn cứ vào các quy định ngắn gọn này, có thể nhận định NHTT của Việt Nam cũng có một số đặc điểm đáng chú ý sau: thứ nhất, giống pháp luật Hoa Kỳ, pháp luật Việt Nam cũng công nhận khả năng sử dụng NHTT bởi nhiều cá nhân hay pháp nhân trong một tập thể; thứ hai, quyền sở hữu NHTT có thể được trao cho một cá nhân hoặc pháp nhân đại diện cho tập thể. Đây là một điểm khác biệt đáng kể so với pháp luật tương ứng của Hoa Kỳ; thứ ba, pháp luật Việt Nam yêu cầu người nộp đơn xin đăng ký NHTT phải nộp một bản dự thảo quy chế sử dụng nhãn để điều chỉnh quá trình sử dụng nhãn của các thành viên của tập thể.
3.2.2 Nhãn hiệu chứng nhận (NHCN)
NHCN là một loại nhãn hiệu mới xuất hiện gần đây trong thực tiễn thương mại thế giới. Có lẽ Hoa Kỳ là quốc gia quen thuộc nhất với loại hình nhãn hiệu này. Luật Nhãn hiệu năm 1946 của Hoa Kỳ qua nhiều lần sửa đổi, cùng với tài liệu hướng dẫn chính thức đăng ký nhãn hiệu của Cục Sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ đề cập khá chi tiết về NHCN và những đặc điểm của nó. Kể từ năm 2005, khi Luật SHTT được ban hành, pháp luật của Việt Nam mới quy định về nhãn hiệu chứng nhận.
Trong Luật Nhãn hiệu của Hoa Kỳ năm 1946, NHCN và NHTT được xếp vào cùng một điều khoản để điều chỉnh - Điều 4. Tuy nhiên, NHCN lại có nhiều điểm hết sức khác biệt với NHTT. Theo hướng dẫn của Cục Sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ, NHCN được hiểu là bất kỳ từ, tên gọi, hình ảnh hay sự kết hợp chúng được sử dụng bởi một người không phải là chủ của nó; hay người chủ của nó có ý định chân thành là cho phép người khác sử dụng nó trong thương mại để chứng nhận xuất xứ địa lý hay xuất xứ khác, nguyên vật liệu sử dụng, cách thức sản xuất, chất lượng, độ chính xác hay các đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ của những người sử dụng nó.
Hiểu một cách chung nhất, NHCN là loại nhãn hiệu được sử dụng hoặc dự định được sử dụng nhằm mục đích phân biệt các hàng hóa hoặc dịch vụ đã được chứng nhận với các hàng hóa cùng loại khác về nguồn gốc, nguyên liệu, phương pháp sản xuất hoặc chất lượng, độ chính xác hoặc các đặc điểm khác.
Xét về bản chất, NHCN rất khác các loại nhãn hiệu khác. Mặc dù NHCN cũng được sử dụng hay dự định được sử dụng đối với các hàng hóa, dịch vụ và có thể vì thế mà giống với NHHH hay NHDV, song chúng vẫn khác với NHHH và NHDV ở chỗ chúng không phân biệt nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn. Nếu có thì rất ít và không phải là chức năng chính của nó. Có thể khẳng định điều này qua diện sử dụng NHCN là rất rộng, bao gồm nhiều doanh nghiệp trong cùng một hiệp hội, thậm chí không cùng một hiệp hội nhưng thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sử dụng nhãn do chủ sở hữu nhãn đặt ra và được chủ nhãn đồng ý. Ví dụ điển hình của trường hợp này là các nhãn hiệu thuộc dòng ISO - International Standard Organization (ISO 9001, ISO 9002, ISO 14000).
Hơn nữa các NHCN không những không được sử dụng bởi người chủ nhãn hiệu mà còn không được sử dụng cho hàng hóa, dịch vụ của người chủ nhãn hiệu. Đây chính là cơ sở quan trọng nhất để cơ quan đăng ký nhãn hiệu của Hoa Kỳ phân biệt giữa NHTT và NHCN. Người chủ NHCN chỉ đơn thuần là người đứng ra đăng ký nhãn hiệu này và chỉ rõ nó nhằm xác nhận một tiêu chuẩn nhất định, thường là tiêu chuẩn về chất lượng, nếu không là đặc điểm về quy trình sản xuất hay sử dụng nhân công lao động. Trách nhiệm của họ là phải đảm bảo tất cả các doanh nghiệp hay cá nhân có mang nhãn phải tuân thủ đúng điều kiện được mang nhãn đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Do đặc điểm này mà chủ NHCN thường là các hiệp hội doanh nghiệp, các liên minh doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước hay chính bản thân Nhà nước.
Một điểm khác biệt nữa giữa NHCN và NHTT là NHCN chỉ được sử dụng theo những tiêu chuẩn đã được xác định rõ ràng, còn đối với NHTT, yêu cầu này không được đặt ra. Chỉ có một số doanh nghiệp cụ thể được sử dụng NHTT. Ví dụ, thành viên của tổ chức sở hữu NHTT, trong khi đó NHCN có thể được sử dụng bởi bất kỳ ai miễn là tuân thủ được những tiêu chuẩn đã được xác định của nhãn hiệu đó và được người chủ chấp nhận. Vì thế có thể nói, những người sử dụng NHTT thành lập một “câu lạc bộ” trong khi đó những người sử dụng NHCN thì sẽ thành lập một “cửa hàng tự do” ai có đủ điều kiện thì vào.
Những điểm đặc thù nêu trên của NHCN đều được quy định trong pháp luật hiện hành của Hoa Kỳ và Việt Nam. Chính vì những đặc điểm đặc thù của NHCN trên mà một trong những yêu cầu quan trọng trong việc đăng ký NHCN là pháp nhân xin đăng ký phải “có khả năng bảo đảm giá trị” của hàng hóa liên quan. Người sở hữu NHCN phải là người đại diện cho các hàng hóa đăng ký NHCN. Đây là một sự bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ lợi ích công chúng khỏi những hành vi không trung thực.
Khác với Hoa Kỳ và Việt Nam, pháp luật Nhật Bản không quy định NHCN như một loại nhãn hiệu riêng lẻ. Ở Nhật Bản, các NHCN được điều chỉnh giống như nhãn hiệu thông thường về khía cạnh xin bảo hộ, điều kiện và thủ tục đăng ký. Vì được điều chỉnh như một nhãn hiệu thông thường, NHCN ở Nhật Bản phải được đăng ký bảo hộ bởi chính một trong những doanh nghiệp có sử dụng NHCN đó.
3.3 Nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu liên kết
3.3.1 Nhãn hiệu nổi tiếng (NHNT)
Đây là một loại nhãn hiệu được xác định dựa trên cơ sở tính phổ thông của chúng, được nhiều người tin dùng và có tính phân biệt cao. Nhiều nhãn hiệu đối với người tiêu dùng ngoài giá trị phân biệt nguồn gốc thương mại còn là sự bảo đảm đối với chất lượng của sản phẩm mang nhãn. Vì thế tình trạng sao chép và vi phạm quyền đối với NHNT diễn ra khắp nơi trên thế giới và đặt ra nhu cầu bảo hộ loại nhãn hiệu này theo một cách thức đặc biệt hơn nhãn hiệu thông thường. Hầu hết các hệ thống pháp luật đề cập ở đây đều có quy định về NHNT dù là ở các mức độ khác nhau.
Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, việc bảo hộ NHNT sẽ được tiến hành khi có các hành vi bị xem là sự bắt chước không hợp pháp, chỉ dẫn sai nguồn gốc thương mại dẫn đến làm giảm giá trị của một nhãn hiệu nào đó. Trong trường hợp này, chủ NHNT có quyền yêu cầu tòa ra lệnh cấm việc sử dụng vì mục đích thương mại của một người khác đối với nhãn hiệu hay tên thương mại nổi tiếng của mình nếu hành vi sử dụng diễn ra khi nhãn hiệu hay tên thương mại của mình đã trở nên nổi tiếng và gây hại đến sự nổi tiếng của nhãn hiệu. Để quyết định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, tòa án sẽ xem xét các yếu tố sau:         
            - Mức độ của tính phân biệt mà tự thân nhãn hiệu có;
            - Thời gian sử dụng và mức độ sử dụng nhãn hiệu đối với hàng hóa, dịch vụ gắn nhãn;
            - Thời gian và mức độ quảng cáo và đưa ra công chúng nhãn hiệu đó;
            - Phạm vi địa lý của khu vực thương mại liên quan đến nhãn hiệu;
            - Các kênh thương mại hàng hóa, dịch vụ có gắn nhãn;
            - Mức độ nhận ra nhãn hiệu đó tại các khu vực và kênh thương mại có sự tham gia của người chủ nhãn hiệu và người mà chủ nhãn hiệu kiện;
            - Bản chất và mức độ sử dụng các nhãn hiệu trùng hay tương tự bởi bên thứ ba và;
            - Nhãn hiệu đó đã được đăng ký theo các luật có liên quan của Hoa Kỳ chưa[13].
            Khi dựa vào các căn cứ trên, tòa án xác định được một nhãn hiệu nào đó là NHNT thì người chủ có quyền yêu cầu tòa án chấm dứt hành vi xâm hại của người khác đối với nhãn hiệu của mình. Tuy nhiên, nếu một trong ba trường hợp sau xảy ra thì quyền đó của chủ NHNT sẽ không được bảo vệ:
            - Hành vi của người khác sử dụng một cách công bằng NHNT trong hoạt động quảng cáo hay quảng bá sản phẩm thương mại canh tranh nhằm chỉ rõ nguồn gốc thương mại của các sản phẩm, dịch vụ cạnh tranh với sản phẩm của NHNT; hoặc
            - Hành vi sử dụng NHNT không vì mục đích thương mại; hoặc
            - Các hình thức báo cáo tin tức hay bình luận tin tức.
            Pháp luật Hoa Kỳ cũng định nghĩa thế nào là giảm giá trị của NHNT. Điều đó có nghĩa là làm giảm khả năng của một NHNT trong việc xác định và phân biệt hàng hóa, dịch vụ, không lệ thuộc vào việc tồn tại hay không tồn tại các yếu tố sau: (1) sự cạnh tranh giữa chủ NHNT và người khác; hay (2) khả năng xảy ra sự nhầm lẫn hay lừa dối.
            Khác với pháp luật Hoa Kỳ, pháp luật Nhật Bản không có các quy định thành văn về các tiêu chuẩn đánh giá một cách cụ thể mức độ nổi tiếng của một nhãn hiệu. Để đánh giá một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, các cơ quan có thẩm quyền của Nhật Bản, trên thực tế, thường dựa vào các tiêu chí sau:
            - Thời gian sử dụng nhãn hiệu, thời điểm bắt đầu sử dụng, phạm vi lãnh thổ sử dụng và phạm vi hàng hóa dịch vụ mang nhãn;
            - Mức độ của hoạt động quảng cáo;
            - Quy mô của công ty, tình trạng hoạt động, phạm vi kinh doanh và các vấn đề khác của công ty;
            - Các kênh thương mại liên quan đến hàng hóa, phương thức sử dụng nhãn hiệu trên các sản phẩm mang nhãn[14].
            Việc bảo hộ NHNT theo pháp luật Việt Nam còn chưa thực sự cụ thể. Luật SHTT 2005 cũng đã đề cập tới NHNT nhưng mới dừng lại ở mức khái niệm và một số tiêu chí để nhằm thừa nhận Điều 6bis của Công ước Paris trong việc điều chỉnh NHNT, còn để điều chỉnh về mặt nội dung đối với loại nhãn hiệu này thì những quy định như vậy là chưa đủ cụ thể[15]. Nghị định 06/2001/NĐ-CP[16] ngày 1/2/2001 của Chính phủ có quy định chi tiết hơn, song cũng chỉ dừng lại ở một định nghĩa chung chung về NHNT tại khoản 2 Điều 1 Nghị định này. Theo đó, NHNT là nhãn hiệu được sử dụng liên tục cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một cách rộng rãi. Tuy nhiên, điều đáng ghi nhận là Nghị định sửa đổi bổ sung này đã có một quy định khá linh hoạt về nguyên tắc xác định thẩm quyền quyết định nhãn hiệu nào là NHNT. Nguyên tắc đó được đề cập gián tiếp trong khoản 5 Điều 1: “Quyền SHCN đối với NHNT phát sinh trên cơ sở quyết định công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Về lời văn, quy định này không cho biết cơ quan nào chính xác là cơ quan có thẩm quyền, nhưng theo cách hiểu thông thường và trong bối cảnh đây là một văn bản pháp luật của Việt Nam thì phải hiểu cơ quan có thẩm quyền ở đây là cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Ở khía cạnh giải thích đó, đây là một quy định tiến bộ và phù hợp với Hiệp định TRIPs.
3.3.2 Nhãn hiệu liên kết (NHLK)
Đây là một loại nhãn hiệu mới được đưa vào pháp luật về nhãn hiệu của Việt Nam, trong Nghị định 06/2001/NĐ-CP. Pháp luật các nước trên thế giới có sự đề cập ở mức độ rất khác nhau. Pháp luật Hoa Kỳ không coi đây là một loại nhãn hiệu riêng biệt và cũng không quy định cho nó một thuật ngữ riêng. Trong pháp luật Nhật Bản có một khái niệm thường được coi là tương tự với NHLK, đó là khái niệm “defensive mark” hay còn gọi là “nhãn hiệu bảo vệ”.
Pháp luật Việt Nam quy định “nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu tương tự với nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại, tương tự với nhau hoặc có liên quan tới nhau, và các nhãn hiệu trùng nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch vụ tương tự với nhau hoặc có liên quan tới nhau”[17], Luật SHTT 2005 (sửa đổi 2009) cũng quy định: “Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau”[18]. Theo định nghĩa này, có hai loại NHLK. Loại thứ nhất là NHLK bao gồm một loạt các nhãn hiệu tương tự nhau được một chủ sở hữu đăng ký dùng cho các hàng hóa, dịch vụ cùng loại hay tương tự nhau (ví dụ nhãn hiệu LIOA của công ty Nhật Linh được coi là nhãn hiệu chính và để bảo vệ nhãn hiệu đó công ty đã đăng ký bảo hộ cho nhiều nhãn hiệu tương tự như LEEOA, LIWA, LYWA, LYOA[19]). Loại thứ hai là NHLK bao gồm các nhãn hiệu giống hệt nhau nhưng đăng ký cho nhiều sản phẩm, dịch vụ tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau, ví dụ nhãn hiệu SONY có thể được đăng ký cho máy chơi nhạc, tai nghe hoặc điện thoại di động. Mục đích của loại NHLK này là cho phép chủ nhãn hiệu có thể độc quyền sử dụng một loại nhãn hiệu mà không sợ bị sao chép hay bắt chước của người khác. Đối với một NHNT, điều này rất có ý nghĩa bởi người thứ ba có thể lợi dụng sự quá quen thuộc và tin tưởng của người tiêu dùng đối với nhãn hiệu để gắn các nhãn hiệu tương tự hoặc gần giống cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại hay khác loại hoặc để gắn nhãn hiệu giống hệt lên các sản phẩm, dịch vụ không cùng loại. Đối với những nhãn hiệu rất nổi tiếng, chỉ cần sự sao chép không giống lắm thôi cũng đã có thể gây ra sự nhầm lẫn trong người tiêu dùng và ảnh hưởng lớn tới giá trị của nó.
Pháp luật Nhật Bản khác với pháp luật Việt Nam ở chỗ quy định về nhãn hiệu bảo vệ (NHBV) như là một công cụ để bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Theo đó chủ sở hữu một nhãn hiệu có thể đăng ký các NHBV giống hệt với nhãn hiệu đã đăng ký của mình khi nhãn hiệu đã đăng ký trở nên nổi tiếng đối với người tiêu dùng và vì thế người khác không thể sử dụng nhãn tương tự cho các hàng hóa, dịch vụ không cùng loại và qua đó gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nhãn hiệu đã đăng ký[20].
Những so sánh trên đây cho thấy, quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam về nhãn hiệu đang có sự tương thích và mức độ ưu việt khá cao so với pháp luật của Hoa Kỳ và Nhật Bản, đặc biệt là về phạm vi các dấu hiệu có thể sử dụng làm nhãn hiệu và về các loại nhãn hiệu được pháp luật bảo hộ. Vấn đề còn nằm ở chỗ trình độ phát triển của nền kinh tế chưa cho phép hoạt động thực tiễn về vấn đề này diễn ra ở mức độ phong phú tương ứng. Vì vậy, trong tương lai Việt Nam cần chú trọng tới công tác cụ thể hoá và bảo đảm thực thi các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này để hệ thống pháp luật về nhãn hiệu nói chung và các loại nhãn hiệu được pháp luật bảo hộ nói riêng thực sự phát huy tác dụng, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam./.
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.      Giới thiệu pháp luật NHHH, Cục SHCN Nhật Bản-Trung tâm SHCN Châu Á-TBD (JIII) 2001
2.      Đạo luật Lanham của Hoa Kỳ
3.      Luật Nhãn hiệu năm 1959 (2015) của Nhật Bản.
4.      Luật SHTT 2005 (sửa đổi 2009) của Việt Nam
5.      Nghị định 63-CP ngày 24/10/1996
6.      Nghị định 06/2001/NĐ-CP ngày 1/2/2001
7.      Quyết định TTAB (1990) Cục Đăng ký bảo hộ NHHH và sáng chế Hoa Kỳ
8.      Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/2/2007
9.      Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý, “99 câu hỏi về nhãn Hàng hóa và NHHH” NXB Lao động 2001
10. Xem Cục sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ, https://www.uspto.gov/sites/default/files/documents/trademark_rules_statutes_2017-7-21.pdf (truy cập ngày 29/3/2018).

 


[1] Xem Cục Sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ, https://www.uspto.gov/sites/default/files/documents/trademark_rules_statutes_2017-7-21.pdf  (truy cập ngày 29/ /3/2018).
[2] Khoản 1 Điều 2, Luật Nhãn hiệu năm 1959 (2015) của Nhật Bản; Giới thiệu pháp luật Nhãn hiệu hàng hóa, Cục SHCN Nhật Bản - TT SHCN Châu Á - Thái Bình dương (JIII) 2000, tr14.
[3]Điểm a khoản 2 Điều 74 Luật SHTT 2005.
[4] Giới thiệu pháp luật Nhãn hiệu hàng hóa, Cục SHCN Nhật Bản-Trung tâm SHCN Châu Á- Thái Bình dương (JIII) 2000, tr 8.
[6] Quyết định TTAB (1990) Cục đăng ký bảo hộ NHHH và sáng chế Hoa Kỳ
[7] Giới thiệu pháp luật NHHH, Cục SHCN Nhật Bản - Trung tâm SHCN Châu Á- Thái Bình dương (JIII) 2001; Khoản 4, Điều 16, Luật SHTT Việt Nam.
[8] Điều 4 Đạo luật Lanham (15 U.S.C. 1054).
[9] Khoản 1 Điều 7 Luật Nhãn hiệu năm 1959 (2015) của Nhật Bản.
[10] Khoản 17 Điều 4 Luật SHTT 2005 (sửa đổi 2009).
[11] Khoản 3 Điều 87 Luật SHTT 2005 (sửa đổi 2009).
[12]Mục i điểm b khoản 7.1 Điều 7 Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/2/2007.
[13] Điều 43.c (U.S.C 1125) Đạo luật Lanham năm 1946.
[14]Khoản 1 Điều 32, Luật Nhãn hiệu năm 1959 (2015) của Nhật Bản.
[15]Khoản 20 Điều 4 và Điều 75 Luật SHTT 2005.
[16] Nghị định 06/2001/NĐ-CP ngày 1/2/2001.
[17] Khoản 8.a Điều 2 Nghị định 63-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 06/2001.
[18] Khoản 19 Điều 4 Luật SHTT 2005 sửa đổi 2009.
[19] Viện Nghiên cứu và đào tạo về quản lý, “99 câu hỏi về nhãn Hàng hóa và NHHH” NXB Lao động 2001, tr 27.
[20] Giới thiệu pháp luật Nhật Bản, tr 62.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 16(368), tháng 8/2018)