Hoàn thiện các quy định của Luật Thương mại năm 2005 để đảm bảo sự thống nhất với Bộ luật Dân sự năm 2015

01/07/2018

TS. TRẦN VĂN BIÊN

Viện Nhà nước và Pháp luật.

Tóm tắt: Bộ luật Dân sự vốn được xem là "hiến pháp của luật tư", do vậy, khi Bộ luật Dân sự mới ra đời, thì những văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực luật tư khác cũng cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung. Luật Thương mại năm 2005 ban hành cùng thời điểm với Bộ luật Dân năm 2005. Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, khi Bộ luật Dân năm 2015 có hiệu lực, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại năm 2005.
Từ khóa: Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015, hoàn thiện pháp luật.
Abstract: The Civil Code is considered as “the Constitution of Private Laws”, after the new Civil Code is released, other legal documents on private sectors are also need to be amended. The Commercial Law of 2005 was promulgated at the same time with the Civil Code of 2005. Therefore, in order to ensure the uniformity of the legal system, once the Civil Code of 2015 comes into enforcement, the amendments are required to the Commercial Law of 2005.
Keywords: Commercial Law of 2005; Civil Code of 2015; law improvements
 Untitled_1100.png
Ảnh minh họa: nguồn internet

1. Quy định có tính chất hạn chế quyền
Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Nguyên tắc hiến định này sau đó đã được cụ thể hóa tại Điều 2 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, theo đó: “Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” và “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng” (khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015).
Trong các chế định cụ thể, BLDS năm 2015 cũng đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến thực hiện, bảo vệ quyền dân sự theo hướng việc hạn chế, thay đổi, chấm dứt quyền dân sự không phải theo quy định của pháp luật như trong BLDS năm 2005 trước đây, mà phải do “luật định”[1].
Ở đây, có một vấn đề cần được lưu ý là: không chỉ các quy định “cấm” mới có bản chất hạn chế quyền dân sự, mà các quy định khác như “buộc”, “không được”, “không trái”, “trái với”… cũng có thể có hậu quả hạn chế quyền dân sự[2].
Luật Thương mại (LTM) năm 2005 được ban hành cùng thời điểm với BLDS năm 2005, vì vậy, để phù hợp với BLDS năm 2005, một số điều của Luật này sử dụng cụm từ “không trái với quy định của pháp luật”. Cụ thể là:
- Khoản 1 Điều 11 quy định: “Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó”;
- Điều 12 quy định: “Trừ trường hợp có thoả thuận khác, các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng không được trái với quy định của pháp luật”;
- Khoản 2 Điều 109 quy định: “Quảng cáo có sử dụng sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo trái với truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và trái với quy định của pháp luật”.
Chúng tôi cho rằng,để phù hợp vớiBLDS năm 2015, cần sửa đổi các quy định của LTM  năm 2005 theo hướng việc hạn chế quyền dân sự phải do luật định.
2. Quy định về tập quán
Khoản 1 Điều 5 BLDS năm 2015 quy định: “Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự”.
Khoản 4 Điều 3 LTM năm 2005 quy định: “Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại”.
So sánh hai quy định trên có thể thấy sự không thống nhất về cách định nghĩa về tập quán, trong quan hệ dân sự được xác định là “quy tắc xử sự”, còn tập quán trong quan hệ thương mại được xác định là “thói quen”.  
Chúng tôi cho rằng,để phù hợp vớiBLDS năm 2015, cầnsửa đổi quy định của LTM năm 2005 về tập quán trong quan hệ thương mại như sau: “Tập quán thương mại là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực thương mại”.
3. Quy định về hợp đồng
3.1 Về hình thức bắt buộc của hợp đồng
Tự do thoả thuận là một trong những nguyên tắc quan trọng trong giao kết hợp đồng. Điều này có nghĩa là các bên được phép lựa chọn hình thức thích hợp khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn pháp lý trong các giao dịch hợp đồng giữa các bên cũng như để bảo vệ trật tự pháp luật và lợi ích công cộng, đối với một số loại hợp đồng luật đòi hỏi chủ thể giao kết hợp đồng phải tuân theo những hình thức và thủ tục nhất định.
Khoản 2 Điều 119 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”. Như vậy, BLDS năm 2015 giới hạn chỉ khi vi phạm điều kiện có hiệu lực về hình thức do luật quy định, chứ không rộng như BLDS năm 2005 trước đây là do pháp luật quy định[3] thì hợp đồng mới có thể bị tuyên là vô hiệu.
Trong khi đó khoản 2 Điều 24 LTM năm 2005 quy định: “Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”; khoản 2 Điều 74 quy định: “Đối với các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”.
Chúng tôi cho rằng,để phù hợp vớiBLDS năm 2015, cần sửa đổi các quy định của LTM năm 2005 về hình thức bắt buộc đối với một số loại hợp đồng mà các bên phải tuân thủ là trong trường hợp luật quy định.
3.2 Về thời hiệu khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng
Điều 429 BLDS năm 2015 quy định: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Trong khi đó, Điều 319 LTM năm 2005 quy định thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại (trong đó có tranh chấp hợp đồng) như sau: “Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là hai năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 237 của Luật này”.
Như vậy, giữa hai văn bản luật có sự khác nhau về thời hiệu khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng. Chúng tôi cho rằng,để phù hợp vớiBLDS năm 2015, cần sửa đổi Điều 319 LTM năm 2005 về thời hiệu khởi kiện thống nhất với BLDS năm 2015 là 03 năm.
4. Quy định về mua bán hàng hóa
4.1 Về giao nhận hàng hóa
Điểm b khoản 2 Điều 277 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp không có thoả thuận thì địa điểm thực hiện nghĩa vụ được xác định như sau:
a) Nơi có bất động sản, nếu đối tượng của nghĩa vụ là bất động sản;
b) Nơi cư trú hoặc trụ sở của bên có quyền, nếu đối tượng của nghĩa vụ không phải là bất động sản.
Khi bên có quyền thay đổi nơi cư trú hoặc trụ sở thì phải báo cho bên có nghĩa vụ và phải chịu chi phí tăng lên do việc thay đổi nơi cư trú hoặc trụ sở, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
Điểm d khoản 2 Điều 35LTM năm 2005 quy định: “Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán”.
Như vậy, giữa hai văn bản này có sự khác nhau trong quy định về địa điểm thực hiện nghĩa vụ giao nhận hàng hóa.Bên cạnh đó, LTM năm 2005 cũng chưa có những quy định cụ thể về phương thức giao nhận hàng hoá trong trường hợp các bên không có thoả thuận. Trong khi đó, BLDS năm 2015 quy định rất rõ về vấn đề này[4].
Về thời hạn giao hàng, Điều 37LTM năm 2005quy định:
“1. Bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thoả thuận trong hợp đồng.
2. Trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác định thời điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua.
3. Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng”.
Trong khi đó, Điều 278 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ do các bên thoả thuận, theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
2. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
Trường hợp bên có nghĩa vụ đã tự ý thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn và bên có quyền đã chấp nhận việc thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ được coi là đã hoàn thành đúng thời hạn.
3. Trường hợp không xác định được thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 Điều này thì mỗi bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ vào bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho bên kia biết trước một thời gian hợp lý”.
Như vậy, khác với LTM năm 2005, thời hạn thực hiện nghĩa vụ (bao gồm cả nghĩa vụ giao hàng) ngoài trường hợp theo thỏa thuận của các bên, thì thời hạn này còn có thể là theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Chúng tôi cho rằng,để phù hợp vớiBLDS năm 2015, cần sửa đổi LTM năm 2005 theo hướng:
- Sửa đổi Điều 35 quy định phù hợp với Điều 277 BLDS năm 2015.
- Bổ sung quy định về phương thức giao nhận hàng hoá trong trường hợp các bên không có thoả thuận trên cơ sở tham khảo và phù hợp với quy định tại Điều 436 BLDS năm 2015.
- Bổ sung khoản 1 Điều 37 quy định: Bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
4.2 Trách nhiệm phát sinh trong quá trình thực hiện các điều khoản về đối tượng hợp đồng mua bán
Về cơ bản, các quy định của LTM năm 2005 về trách nhiệm phát sinh liên quan đến đối tượng hợp đồng đã tôn trọng triệt để nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, LTM năm 2005 chưa bao hàm quy định cụ thể về hai trường hợp bên bán không phải chịu trách nhiệm trước bên mua về khiếm khuyết của hàng hóa, bao gồm: i. Vật bán đấu giá, vật bán ở cửa hàng đồ cũ (trường hợp này đương nhiên, không cần xác định về việc bên mua biết hoặc phải biết về khuyết tật của hàng hóa); ii.Bên mua có lỗi gây ra khuyết tật của vật, như quy định tại BLDS năm 2015.
Về quy định khắc phục trong trường hợp giao thiếu hàng, giao hàng không phù hợp với hợp đồng (Điều 41)và giao thừa hàng (Điều 43)củaLTM 2005so với BLDS năm 2015thì còn thiếu nội dung “Bên bán giao ít hơn số lượng đã thoả thuận thì bên mua có quyềnhủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu việc vi phạm làm cho bên mua không đạt được mục đích giao kết hợp đồng”.
 Chúng tôi cho rằng,để phù hợp vớiBLDS năm 2015, cần sửa đổi LTM năm 2005 theo hướng:
- Bổ sung trong quy định:Trường hợp bên bán không phải chịu trách nhiệm trước bên mua về khuyết tật của hàng hóa, bao gồm: (i) Vật bán đấu giá, vật bán ở cửa hàng đồ cũ và (ii) Bên mua có lỗi gây ra khuyết tật của vật.
-Bổ sung khoản 2Điều 41 về quyền hủy bỏ hợp đồngvà yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng đã thoả thuận.
4.3 Về nghĩa vụ của bên bán trong trường hợp hàng hóa là đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
Điều 48 LTM năm 2005 quy định: “Trường hợp hàng hoá được bán là đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì bên bán phải thông báo cho bên mua về biện pháp bảo đảm và phải được sự đồng ý của bên nhận bảo đảm về việc bán hàng hóa đó”.
Trong khi đó, tại BLDS năm 2015 khoản 4, 5 Điều 321 (quyền của bên thế chấp)quy định:
“4. Được bán, thay thế, trao đổi tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp này, quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số tiền thu được, tài sản hình thành từ số tiền thu được, tài sản được thay thế hoặc được trao đổi trở thành tài sản thế chấp.
Trường hợp tài sảnthế chấplà kho hàng thì bên thế chấp được quyền thay thế hàng hóa trong kho, nhưng phải bảo đảm giá trị của hàng hóa trong kho đúng như thỏa thuận.
5. Được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý hoặc theo quy định của luật”.
Như vậy, quy định của Điều 48 LTM năm 2005 chưa phù hợp với quy định về biện pháp thế chấp trong BLDS năm 2015. Theo đó, bên thế chấp có quyền bán tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, kho hàng hoặc tài sản khác theo quy định của luật mà không cần có sự đồng ý của bên nhận thế chấp.
Chúng tôi cho rằng,để phù hợp vớiBLDS năm 2015, cần sửa đổi quy định của Điều 48 LTM năm 2005 theo hướng, đối với trường hợp bên thế chấp có quyền bán tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, kho hàng hoặc tài sản khác theo quy định của luật mà không cần có sự đồng ý của bên nhận thế chấp.
4.4 Về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Điều 441 BLDS năm 2015 quy định về thời điểm chịu rủi ro trong hợp đồng mua bán tài sản như sau:
1. Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.
2. Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
Trong khi đó,  LTM năm 2005 chưa đề cập đến việc chuyển rủi ro đối với hàng hóa mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu.
Như vậy, cần sửa đổi LTM năm 2005 theo hướng bổ sung quy định về việc chuyển rủi ro đối với hàng hóa mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu theo hướng phù hợp với Điều 441 BLDS năm 2015.
4.5 Về chuyển quyền sở hữu
Điều 161BLDS năm 2015 về thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản quy định:
1. Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; trường hợp luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao.
Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản.
2. Trường hợp tài sản chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Về vấn đề chuyển quyền sở hữu,Điều 62 LTM năm 2005 quy định: “Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác, quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển giao”.
Như vậy, so với BLDS năm 2015, vấn đề chuyển quyền sở hữu được LTM năm 2005 quy định còn khá đơn giản và chưa đầy đủ. Vì vậy, để phù hợp vớiBLDS năm 2015, cần được sửa đổi LTM năm 2005 theo hướng dẫn chiếu sang quy định tại Điều 161BLDS năm 2015.
5. Quy định về những người không được tham gia đấu giá
Khoản 1 Điều 198 LTM năm 2005 quy định: “Người không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của BLDS hoặc người tại thời điểm đấu giá không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình” thì không được tham gia đấu giá.
Theo quy định của Điều 20 BLDS năm 2015, người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên và những người này có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều 22[5], 23[6] và 24[7] của Bộ luật này. Đồng thời, BLDS năm 2015 cũng không còn quy định người chưa đủ 6 tuổi là người không có năng lực hành vi dân sự nữa, thay vào đó đã quy định cụ thể, linh hoạt hơn về xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của người chưa thành niên (Điều 21).
So với LTM năm 2005, bên cạnh người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, BLDS năm 2015 còn bổ sung thêm trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Điều này dẫn đến sự không tương thích giữa LTM năm 2005 và BLDS năm 2015.
Để phù hợp vớiBLDS năm 2015, cầm sửa đổi khoản 1 Điều 198LTM năm 2005 như sau: “Người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của BLDS” thì không được tham gia đấu giá.
6. Quy định về lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền
Điều 357 BLDS năm 2015 quy định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền như sau:
“1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”.
Điều 468 BLDS năm 2015 về lãi suất quy định:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.
Quy định của BLDS năm 2015 về lãi suất rất thuận tiện cho việc áp dụng khi quy định trực tiếp mức lãi suất giới hạn tối đa mà các bên không được thỏa thuận vượt quá trong các quan hệ nghĩa vụ có liên quan đến lãi suất.
Trong khi đó, Điều 306 LTM năm 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Quy định của điều luật này không rõ ràng và khó thực hiện vì “lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường” là rất rộng và khó xác định. Kể cả trong trường hợp chúng takhu trú áp dụng mức lãi suất nợ quá hạn trung bình của các ngân hàng thương mại trên thị trường thì cũng không thuận tiện cho việc áp dụng và làm mất nhiều thời gian.
Chúng tôi cho rằng,để phù hợp vớiBLDS năm 2015, cần sửa đổi Điều 306 LTM năm 2005 như sau: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015”.
7. Quy định về mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại
Khoản 3 Điều 418 BLDS năm 2015 quy định: “Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thoả thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”.
Khoản 2 Điều 307 LTM năm 2005 quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.
Như vậy, quy định của hai văn bản luật này về thỏa thuận áp dụng chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại có sự thiếu thống nhất. Trong đó, quy định của khoản 2 Điều 307 LTM năm 2005 là chưa phù hợp với BLDS năm 2015.
Cần sửa đổi quy định của LTM năm 2005 theo hướng thống nhất với BLDS năm 2015 về mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại. Theo đó, nếu các bên chỉ có thỏa thuận về việc bên vi phạm hợp đồng phải chịu phạt vi phạm mà không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì nên tôn trọng ý chí của các chủ thể trong hợp đồng.
8.Quy định về áp dụng tập quán quốc tếcác trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài
Theo quy định tại Điều 666 BLDS năm 2015, tập quán quốc tế được áp dụng nếu hậu quả của việc áp dụng tập quán quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Điều 670 BLDS năm 2015 quy định pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường hợp “hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Tuy nhiên, khoản 2 Điều 5 LTM năm 2005 lại quy định: “Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Vì vậy,để phù hợp vớiBLDS năm 2015, cần sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 5 LTM năm 2005 như sau: “Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”./.

 


[1] Khoản 2 Điều 9, Điều 13, khoản 2 Điều 14, Điều 18, Điều 25, khoản 3 Điều 31, điểm c khoản 4 Điều 33, khoản 2 Điều 34, khoản 3 Điều 36, khoản 2, khoản 3 Điều 38, Điều 74, khoản 2, khoản 3 Điều 87, khoản 2 Điều 101, điểm c khoản 1 Điều 117, khoản 2 Điều 117, khoản 1 Điều 149, Điều 158, Điều 160, khoản 1 Điều 161, Điều 162, khoản 2 Điều 214, khoản 1 Điều 219, khoản 4 Điều 220, khoản 8 Điều 221, điểm b khoản 3 Điều 225, Điều 236, khoản 8 Điều 237, Điều 246, Điều 247, khoản 2 Điều 278, khoản 4 Điều 312, khoản 1 Điều 320, khoản 5 Điều 321, khoản 6 Điều 323, Điều 360, khoản 1 Điều 372, điểm b khoản 1 Điều 388, khoản 7 Điều 422, Điều 431, khoản 1 Điều 459, khoản 3 Điều 465, khoản 4 Điều 466, khoản 1 Điều 468, khoản 2 Điều 470, khoản 1 Điều 473, Điều 514, khoản 2 Điều 570, khoản 1 Điều 573, Điều 584, Điều 598, điểm b khoản 1 Điều 630…
[2] Ngô Quốc Chiến, Bàn về quy định giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật trong BLDS năm 2015, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/2016, tr. 23-24.
[3] Khoản 2 Điều 124 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”.
[4]Điều 436. Phương thức giao tài sản
1. Tài sản được giao theo phương thức do các bên thoả thuận; nếu không có thoả thuận thì tài sản do bên bán giao một lần và trực tiếp cho bên mua.
2. Trường hợp theo thỏa thuận, bên bán giao tài sản cho bên mua thành nhiều lần mà bên bán thực hiện không đúng nghĩa vụ ở một lần nhất định thì bên mua có thể hủy bỏ phần hợp đồng liên quan đến lần vi phạm đó và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
[5]Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự
1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
[6]Điều 23. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
2. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
[7]Điều 24. Hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.

(Nguồn tin: Bài viết đăng trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14 (366), tháng 7/2018)