Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp.
Chương I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; các biện pháp đặc biệt được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp; tổ chức thi hành nghị quyết, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp; chế độ, chính sách và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tình trạng khẩn cấp.
Điều 2. Giải thích từ ngữ
- Tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội của đất nước khi cả nước, một hoặc nhiều địa phương có một trong các trường hợp sau xảy ra:
+ Thảm họa lớn do thiên nhiên hoặc con người gây ra, đe doạ nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Nhà nước và Nhân dân.
+ Dịch bệnh nguy hiểm lây lan trên quy mô rộng, đe doạ nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Nhà nước và Nhân dân.
+ Tình hình đe dọa nghiêm trọng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Thảm hoạ lớn là biến động do thiên nhiên, dịch bệnh nguy hiểm lây lan trên quy mô rộng hoặc do con người gây ra hoặc do hậu quả chiến tranh vượt qua cấp độ thảm họa quy định tại Luật Quốc phòng.
Điều 3. Nguyên tắc hoạt động trong tình trạng khẩn cấp
- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân.
- Phân công, phân cấp rõ trách nhiệm chủ trì, phối hợp các bộ, ngành, các cơ quan, tổ chức và chính quyền địa phương các cấp trong thực hiện các biện pháp đặc biệt được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp nhằm kịp thời ngăn chặn, hạn chế và khắc phục hậu quả xảy ra, nhanh chóng ổn định tình hình.
- Các cơ quan, tổ chức, đơn vị hoạt động trong các ngành: Điện, nước, bưu chính viễn thông, phát thanh, truyền hình, vệ sinh, y tế phải bảo đảm duy trì hoạt động thường xuyên, liên tục trong thời gian công bố tình trạng khẩn cấp.
Điều 4. Các hành vi bị nghiêm cấm
- Chống đối, cản trở, cố ý trì hoãn hoặc không chấp hành sự chỉ đạo, chỉ huy của cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong tình trạng khẩn cấp.
- Cố ý gây thảm họa làm tổn hại đến tính mạng, sức khỏe con người; gây thiệt hại tài sản của Nhà nước, Nhân dân, cơ quan, tổ chức; ảnh hưởng đến môi trường, trật tự an toàn xã hội, quốc phòng - an ninh; bỏ trốn sau khi gây thảm họa, gây mất trật tự công cộng, tạo chướng ngại vật nguy hiểm, cản trở hoặc chống lại người thi hành nhiệm vụ trong tình trạng khẩn cấp.
- Lợi dụng tình trạng khẩn cấp để trục lợi, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc gây lãng phí, thất thoát tài sản của nhà nước.
Điều 5. Áp dụng Luật tình trạng khẩn cấp và pháp luật có liên quan
Luật về Tình trạng khẩn cấp sẽ là luật chung về tình trạng khẩn cấp. Trên cơ sở những nguyên tắc chung đã được thiết lập trong luật này; một số lĩnh vực, tình huống chuyên biệt cần phải có quy định tình trạng khẩn cấp có thể được điều chỉnh tại những văn bản luật riêng, ví dụ, Tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh được quy định cụ thể tại Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, tình trạng khẩn cấp do thảm hoạ tự nhiên quy định tại Luật Phòng, chống thiên tai, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh quy định tại Luật Quốc phòng, Luật An ninh quốc gia...
Theo đó, điều này dự kiến quy định về nguyên tắc áp dụng Luật Tình trạng khẩn cấp và pháp luật có liên quan như sau:
- Việc ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; áp dụng các biện pháp đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp trên lãnh thổ Việt Nam thực hiện theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật có liên quan.
- Trường hợp luật khác ban hành trước ngày Luật Tình trạng khẩn cấp có hiệu lực thi hành có quy định khác về việc ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; áp dụng các biện pháp đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp mà không trái với nguyên tắc của Luật này thì thực hiện theo quy định của luật đó.
- Trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật Tình trạng khẩn cấp có hiệu lực thi hành cần quy định đặc thù về việc ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; áp dụng các biện pháp đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp khác với quy định của Luật Tình trạng khẩn cấp thì phải xác định cụ thể nội dung thực hiện hoặc không thực hiện theo quy định của Luật Tình trạng khẩn cấp, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó.
Điều 6. Công khai, đưa tin trong tình trạng khẩn cấp
- Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân có trách nhiệm đăng ngay toàn văn nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Lệnh của Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp, các quyết định của Thủ tướng Chính phủ tổ chức thi hành nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Lệnh của Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp; đưa tin kịp thời về các biện pháp đã được áp dụng tại địa bàn có tình trạng khẩn cấp và tình hình khắc phục hậu quả; đăng toàn văn nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Lệnh của Chủ tịch nước bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
- Các phương tiện thông tin đại chúng khác ở trung ương và địa phương có trách nhiệm đưa tin về việc ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp và quá trình khắc phục hậu quả.
- Thông báo cho các quốc gia thành viên Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Tổng Thư ký Liên hợp quốc về các quyết định đình chỉ thực thi các nghĩa vụ của mình theo Công ước (quy định này nhằm bảo đảm thực thi nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị).
Chương II. BAN BỐ, CÔNG BỐ TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP
Điều 7. Thẩm quyền ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp
Điều này xác định cụ thể thẩm quyền ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp, bảo đảm thống nhất với khoản 10 Điều 74 Hiến pháp năm 2013 (thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội) và khoản 5 Điều 88 Hiến pháp 2013 (thẩm quyền của Chủ tịch nước). Cụ thể:
- Khi xảy ra tình trạng khẩn cấp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
- Căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
- Trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
- Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Lệnh của Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp phải được công bố ngay trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai để người dân biết, thực hiện.
Điều 8. Nội dung ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp
Nội dung ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp phải ghi rõ các nội dung cơ bản sau:
- Lý do ban bố tình trạng khẩn cấp.
- Địa bàn được đặt trong tình trạng khẩn cấp.
- Ngày, giờ bắt đầu tình trạng khẩn cấp.
- Thời hạn áp dụng các biện pháp quy định tại Chương III Luật này.
- Thẩm quyền tổ chức thi hành Nghị quyết hoặc Lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp.
Chương III.CÁC BIỆN PHÁP ĐẶC BIỆT ĐƯỢC ÁP DỤNG TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP
Tại Chương này quy định các biện pháp đặc biệt được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi: (i) Một hoặc nhiều địa phương có thảm họa lớn do thiên thiên nhiên hoặc con người gây ra; (ii) khi có dịch bệnh nguy hiểm lây lan trên quy mô rộng đe doạ nghiêm trọng đến tính sức khỏe, tính mạng, tài sản của Nhà nước và Nhân dân; (iii) khi có tình hình đe doạ nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Các sự cố do rủi ro công nghệ (rò rỉ điện hạt nhân...), sự cố về kinh tế tài chính (khủng hoảng kinh tế, sụp đổ thị trường chứng khoán) là những tình huống ngoại lệ cần được cân nhắc trong bối cảnh phát triển kinh tế.
Việc xác định các biện pháp cụ thể được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp nhằm bảo đảm phù hợp với khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013, đó là: Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Điều 9. Các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa lớn
Trong địa bàn đã công bố tình trạng khẩn cấp khi có thảm hoạ lớn có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp sau đây:
- Tổ chức cấp cứu và cứu người bị nạn; tạm thời sơ tán nhân dân khỏi nơi nguy hiểm, trợ giúp nhân dân ổn định đời sống;
- Cứu hộ và tăng cường bảo vệ công trình phòng thủ dân sự đang bị sự cố hoặc có nguy cơ xảy ra nguy hiểm;
- Bảo vệ hoặc di chuyển tài sản, kho tàng, di sản văn hóa ra khỏi nơi nguy hiểm;
- Dành và ưu tiên chuyên chở vật tư, nguyên liệu, thuốc phòng bệnh, chữa bệnh, hoá chất xử lý dịch bệnh, lương thực, thực phẩm, hàng hoá cần thiết đến những nơi bị thảm hoạ; áp dụng biện pháp quản lý đặc biệt về giá đối với lương thực, thực phẩm, thuốc phòng bệnh, chữa bệnh và một số hàng hoá thiết yếu khác;
- Huy động nhân lực, vật tư, phương tiện để cứu hộ và khắc phục hậu quả của thảm hoạ. Trong trường hợp cần thiết thì trưng dụng phương tiện và tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
- Phân lũ, chậm lũ hoặc áp dụng các biện pháp đặc biệt để ngăn ngừa, hạn chế hậu quả của thảm hoạ;
- Áp dụng các quy định đặc biệt phòng, chống cháy, nổ;
- Áp dụng các quy định đặc biệt về thông tin liên lạc và sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc;
- Tổ chức các lực lượng để bảo đảm an ninh và trật tự, an toàn xã hội trong vùng có thảm hoạ;
- Cấm người, phương tiện không có nhiệm vụ vào những khu vực nguy hiểm;
- Thực hiện vệ sinh môi trường sống, phòng, chống dịch bệnh ở nơi có thảm hoạ.
Điều 10. Các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi khi có dịch bệnh nguy hiểm lây lan trên quy mô rộng
Trong địa bàn có tình trạng khẩn cấp khi có dịch bệnh nguy hiểm lây lan trên quy mô rộng có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp sau đây:
- Tổ chức cấp cứu, khám chữa bệnh cho những người bị nhiễm bệnh và có nguy cơ nhiễm bệnh;
- Hạn chế người, phương tiện ra, vào vùng có dịch bệnh, đặt biển báo hiệu, trạm gác và hướng dẫn việc đi lại tránh vùng có dịch bệnh;
- Cấm đưa hàng hoá, vật phẩm, động vật, thực vật, thực phẩm, đồ uống có khả năng truyền dịch bệnh ra khỏi vùng có dịch bệnh;
- Kiểm dịch, xử lý y tế và cấp giấy chứng nhận kiểm dịch đối với các phương tiện vận tải trước khi ra khỏi vùng có dịch bệnh để di chuyển đến nơi khác;
- Cấm người, phương tiện không có nhiệm vụ vào nơi có người hoặc động vật ốm, chết do dịch bệnh;
- Tẩy uế, khử độc ổ dịch và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng dịch khẩn cấp khác;
- Kiểm tra các cơ sở dịch vụ ăn uống công cộng; đóng cửa các cơ sở phát hiện có tác nhân gây dịch bệnh;
- Thực hiện các biện pháp vệ sinh, phòng chống dịch bắt buộc trong vùng có dịch bệnh;
- Dành và ưu tiên chuyên chở thuốc phòng bệnh, chữa bệnh, hoá chất xử lý dịch bệnh, lương thực, thực phẩm, hàng hoá cần thiết đến những vùng có dịch bệnh;
- Tổ chức các đội công tác chống dịch khẩn cấp thuộc cơ quan y tế, cơ quan kiểm dịch.
Điều 11. Các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội
Trong địa bàn có tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp sau đây:
- Đóng cửa các nhà hát, rạp chiếu phim và các nơi sinh hoạt công cộng khác;
- Cấm bãi công, bãi khoá, bãi thị;
- Cấm, giải tán các cuộc biểu tình, các cuộc tổ chức đông người và những hoạt động của cá nhân, tổ chức xét thấy có hại cho an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội;
- Đặt các trạm canh gác và kiểm soát trong địa bàn có tình trạng khẩn cấp; kiểm tra các vật phẩm, hành lý, phương tiện, giấy tờ của người qua lại các trạm canh gác và kiểm soát;
- Cấm hoặc hạn chế người, phương tiện không có nhiệm vụ ra vào địa bàn có tình trạng khẩn cấp;
- Cấm người, phương tiện đi lại vào những giờ nhất định tại những khu vực nhất định, trừ trường hợp được phép theo quy định của người có thẩm quyền tổ chức thi hành Nghị quyết hoặc Lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp;
- Hạn chế và áp dụng các biên pháp kiểm soát đặc biệt đối với việc xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; tạm dừng việc xuất cảnh, nhập cảnh đối với một số trường hợp đã được cấp thị thực nếu thấy việc tạm dừng là cần thiết để bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội;
- Đình chỉ các chuyến vận chuyển bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ nếu xét thấy không thật cấp thiết ra vào địa bàn có tình trạng khẩn cấp; chỉ định sân bay hạ cánh cho tàu bay, hải cảng cập bến cho tàu thuyền, nhà ga cho tàu hoả, điểm đỗ cho ô tô và các phương tiện giao thông khác; kiểm soát chặt chẽ các chuyến bay quá cảnh qua địa bàn có tình trạng khẩn cấp;
- Áp dụng những biện pháp quản lý đặc biệt đối với vũ khí, công cụ hỗ trợ, chất cháy, chất nổ thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức và cá nhân;
- Buộc những người có thể gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội rời khỏi địa bàn cư trú;
- Tăng cường bảo vệ các cơ quan đầu não và cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước ở trong nước và địa phương; khách mời của Đảng, Nhà nước, đài phát thanh, đài truyền hình, bưu điện, cơ quan thông tấn, cơ quan ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của nước ngoài đóng tại Việt Nam;
- Tăng cường bảo vệ các khu quân sự, công trình quốc phòng, an ninh, kho tàng sân bay, bến cảng và các công trình quan trọng khác của Nhà nước; biên giới quốc gia và các cửa khẩu biên giới, trại giam, trại tạm giam và những cơ quan, địa điểm khác;
- Kiểm soát các phương tiện thông tin đại chúng; kiểm duyệt các ấn phẩm trước khi xuất bản; đình chỉ việc xuất bản và thu hồi các báo chí, chương trình, băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình và các xuất bản phẩm khác có nội dung gây nguy hại cho an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội;
- Áp dụng các biện pháp quản lý đặc biệt đối với việc sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc;
- Huy động nhân lực, tài sản để phục vụ cho việc thi hành quyết định ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, an toàn xã hội. Trưng mua, trưng dụng tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định pháp luật;
- Tổ chức các Đội công tác tuyên truyền để tổ chức, cá nhân chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về tình trạng khẩn cấp;
- Tổ chức các Đội tuần tra đặc biệt thuộc các lực lượng công an, quân đội, Dân quân tự vệ và các Đội tuần tra đặc biệt liên ngành;
- Đội trưởng đội tuần tra đặc biệt trong khi làm nhiệm vụ có quyền ra lệnh bắt ngay hoặc khám người, khám nơi ở, phương tiện, đồ vật của người có hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, người vi phạm các quy định về cấm đi lại và người có hành vi cản trở hoặc chống lại người thi hành nhiệm vụ trong tình trạng khẩn cấp.
Điều 12. Các biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng
Trong địa bàn đã công bố tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp sau đây:
- Đặt các trạm canh gác và kiểm tra, kiểm soát các vật phẩm, hành lý, phương tiện, giấy tờ tùy thân của công dân và các giấy tờ của cơ quan, đơn vị, tổ chức qua trạm canh gác và kiểm soát;
- Hạn chế hoặc vô hiệu hoá hoạt động của các phương tiện thông tin liên lạc để đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội tại một địa phương hay khu vực nhất định;
- Kiểm soát hoặc thu hồi các phương tiện thông tin đại chúng; kiểm duyệt các tác phẩm trước khi xuất bản; đình chỉ hoặc thu hồi các xuất bản phẩm có nội dung gây nguy hại cho an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội;
- Hạn chế hoặc tạm đình chỉ các hoạt động vận chuyển bằng đường hàng không, đường thuỷ, đường sắt, đường bộ và đường ống qua địa bàn trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng…
- Hạn chế hoặc tạm ngừng việc vận chuyển, sử dụng các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ, chất cháy, chất nổ, chất độc, hoá chất độc hại, chất phóng xạ của tổ chức, cá nhân;
- Buộc những người xét thấy có thể gây nguy hại cho an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội rời khỏi các khu vực quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh trên địa bàn trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, hoặc không được rời khỏi nơi thường trú hoặc một khu vực nhất định khác;
- Áp dụng các biện pháp cần thiết để giải tán bãi công, bãi khoá, bãi thị, biểu tình, tụ tập đông người;
- Áp dụng các biện pháp thích hợp khác theo quyết định của Chính phủ nếu cần thiết cần thiết;
- Áp dụng các biện pháp bảo vệ đặc biệt đối với các cơ quan, tổ chức cần được đặc biệt ưu tiên;
- Huy động nhân lực, tài sản để phục vụ cho việc thi hành quyết định ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp về quốc phòng. Trưng mua, trưng dụng tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định pháp luật;
- Tổ chức các Đội công tác đặc biệt, Đội tuần tra đặc biệt trong khu vực thiết lập tình trạng khẩn cấp về quốc phòng;
- Tổ chức lực lượng trấn áp các hành động bạo loạn vũ trang và các hành vi xâm lược;
- Việc áp dụng những biện pháp quy định tại Điều này phải được sự cho phép của cơ quan chỉ huy tình trạng khẩn cấp về quốc phòng quản lý địa bàn trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng.
Chương IV. TỔ CHỨC THI HÀNH NGHỊ QUYẾT, LỆNH CÔNG BỐ TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP
Điều 13. Thẩm quyền tổ chức thi hành Nghị quyết hoặc Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp
Khoản 3 Điều 96 Hiến pháp năm 2013 xác định, Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn “thi hành lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp”. Khoản 1 Điều 98 Hiến pháp quy định, Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn sau: “Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật”. Để thuận tiện cho công tác chỉ đạo, điều hành ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp, nhanh chóng ổn định tình hình đưa xã hội trở lại trạng thái bình thường, nội dung Điều này dự kiến quy định thẩm quyền tổ chức thi hành Nghị quyết hoặc Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp như sau:
- Chính phủ[1] tổ chức và chỉ đạo việc thi hành Nghị quyết hoặc Lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp, quyết định việc áp dụng các biện pháp đặc biệt theo Chương III Luật này và quyết định các cơ quan, tổ chức hoặc người có trách nhiệm thi hành các biện pháp đó.
- Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia, Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự cấp Bộ, ngành trung ương và Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự các cấp địa phương chỉ đạo, chỉ huy ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp, trừ lĩnh vực quốc phòng.
- Ban Chỉ huy tình trạng khẩn cấp về quốc phòng tổ chức, chỉ huy, điều hành tập trung, thống nhất ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp về quốc phòng[2].
Điều 14. Trách nhiệm thi hành các biện pháp đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp
- Cơ quan, tổ chức hoặc người thi hành các biện pháp đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của Luật này, Nghị quyết hoặc Lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và tuyệt đối phục tùng chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên.
- Người thi hành các biện pháp đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp phải đeo phù hiệu thống nhất để dễ nhận biết. Mẫu phù hiệu sẽ do Thủ tướng Chính phủ quy định để bảo đảm sự linh hoạt trong từng thời kỳ.
Điều 15. Điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn có tình trạng khẩn cấp
Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn có tình trạng khẩn cấp để hỗ trợ các lực lượng tại chỗ khắc phục hậu quả của thảm họa, dịch bệnh, ổn định, duy trì an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
Điều 16. Trang bị và sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ trong tình trạng khẩn cấp
- Lực lượng công an, quân đội, Dân quân tự vệ và những người thuộc các Đội tuần tra đặc biệt liên ngành được trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ. .
- Người được trang bị công cụ hỗ trợ được sử dụng công cụ hỗ trợ trong các trường hợp sau đây:
+ Ngăn chặn, bắt giữ người có hành vi đe doạ tính mạng, sức khỏe của người thi hành nhiệm vụ trong tình trạng khẩn cấp hoặc của người khác; người có hành vi xâm phạm tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc của cá nhân; ngăn chặn, bắt giữ người phạm tội;
+ Ngăn chặn, bắt giữ người đang gây rối trật tự công cộng hoặc vi phạm quy định về tình trạng khẩn cấp;
+ Giải tán các vụ tụ tập, biểu tình;
+ Ngăn chặn, bắt giữ người có hành vi gây bạo loạn, phá hoại, phá trại giam, đánh tháo phạm nhân, cướp vũ khí, tấn công mục tiêu hoặc đối tượng được bảo vệ;
+ Ngăn chặn, bắt giữ người dùng vũ lực cản trở người thi hành nhiệm vụ trong tình trạng khẩn cấp;
+ Những trường hợp khác mà pháp luật quy định được phép sử dụng vũ khí.
Điều 17. Biện pháp xử lý người bị bắt, tạm giữ trong tình trạng khẩn cấp
- Đối với người bị bắt hoặc bị tạm giữ theo quy định của pháp luật thì việc xử lý được thực hiện theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính.
- Đối với người bị bắt theo lệnh của Đội trưởng Đội tuần tra đặc biệt thì việc xử lý được thực hiện như sau:
+ Đội trưởng Đội tuần tra đặc biệt hoặc người có thẩm quyền phải kịp thời lập biên bản, lấy lời khai của người bị bắt;
+ Chậm nhất là bốn mươi tám giờ kể từ khi bắt, Đội trưởng Đội tuần tra đặc biệt phải chuyển giao người bị bắt cùng toàn bộ hồ sơ, vật chứng cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để xử lý theo thủ tục tố tụng hình sự nếu xét thấy có dấu hiêu của tội phạm; trong trường hợp hành vi vi phạm của người bị bắt chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng bị xử phạt hành chính thì Đội trưởng Đội tuần tra đặc biệt chuyển giao người đó cùng toàn bộ hồ sơ vi phạm cho cơ quan có thẩm quyền để xử phạt hành chính; trường hợp Đội trưởng Đội tuần tra đặc biệt là người có thẩm quyền xử phạt hành chính thì quyết định xử phạt theo thẩm quyền.
- Người bị bắt và bị xử phạt hành chính nếu có giấy tờ tùy thân hợp lệ, thì được trả tự do ngay sau khi hết thời gian tạm giữ người theo thủ tục hành chính; trong trường hợp người bị bắt không có giấy tờ tuỳ thân thì bị tạm giữ cho đến khi xác minh được về nhân thân của người đó nhưng không quá bảy mươi hai giờ.
Trong thời gian chưa được chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền để xử lý hoặc được trả tự do theo quy định tại Điều này, người bị bắt được tạm giữ tại trụ sở Đội tuần tra đặc biệt.
Điều 18. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định trong tình trạng khẩn cấp
- Xây dựng cơ chế giám sát của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận đối với việc thực hiện các biện pháp hạn chế quyền, tạm đình chỉ việc thực hiện các nghĩa vụ theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị.
- Xây dựng cơ chế kiểm tra của các cơ quan Chính phủ; quy định cụ thể vai trò thanh tra, kiểm tra của Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước đối với việc thực thi các biện pháp cần thiết khi thực thi lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp hoặc quyết định về tình trạng khẩn cấp.
Điều 19. Huy động, vận động đóng góp tự nguyện và phân bổ nguồn lực hỗ trợ trong tình trạng khẩn cấp
- Nguyên tắc huy động, vận động đóng góp tự nguyện và phân bổ nguồn lực hỗ trợ trong tình trạng khẩn cấp được quy định như sau:
+ Tuân theo quy định của pháp luật;
+ Căn cứ vào mức độ thiệt hại xảy ra;
+ Bảo đảm công bằng, công khai, kịp thời, đúng đối tượng;
+ Có sự phối hợp của chính quyền địa phương hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nơi có đối tượng được hỗ trợ;
+ Đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân bị ảnh hưởng do sự cố, thảm họa gây ra; ưu tiên đối tượng dễ bị tổn thương.
- Việc huy động, vận động đóng góp tự nguyện và phân bổ nguồn lực hỗ trợ được quy định như sau:
+ Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Trưởng ngành trung ương, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp huy động nguồn lực theo thẩm quyền để phục vụ công tác cứu trợ khẩn cấp và hỗ trợ theo quy định của pháp luật;
+ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội khác vận động đóng góp tự nguyện và phân bổ nguồn lực để cứu trợ, hỗ trợ khẩn cấp theo quy định của pháp luật;
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân vận động đóng góp tự nguyện phải thực hiện theo quy định của pháp luật; phối hợp với Ủy ban nhân dân hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nơi được hỗ trợ để thực hiện cứu trợ, hỗ trợ cho các đối tượng bị thiệt hại do sự cố, thảm họa gây ra.
- Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Chương V. BÃI BỎ TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP
Điều 20. Thẩm quyển bãi bỏ tình trạng khẩn cấp
- Theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết hoặc Chủ tịch nước ra Lệnh bãi bỏ tình trạng khẩn cấp khi: Thảm hoạ đã được ngăn ngừa, hạn chế hoặc khắc phục, dịch bệnh đã bị chặn hoặc dập tắt, tình hình an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đã ổn định.
- Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Lệnh của Chủ tịch nước bãi bỏ tình trạng khẩn cấp phải được công bố ngay trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai để mọi người đều biết.
Điều 21. Chấm dứt hiệu lực của các văn bản pháp luật về tổ chức thi hành Nghị quyết, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp
- Các văn bản pháp luật về tổ chức thi hành Nghị quyết hoặc Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp sẽ hết hiệu lực thi hành kể từ thời điểm Nghị quyết hoặc Lệnh bãi bỏ tình trạng khẩn cấp có hiệu lực, trừ trường hợp Nghị quyết hoặc Lệnh bãi bỏ tình trạng khẩn cấp có quy định khác.
- Ủy ban nhân dân các cấp tại địa bàn có tình trạng khẩn cấp có trách nhiệm áp dụng các biện pháp để giúp đỡ Nhân dân nhanh chóng ổn định đời sống, khôi phục sản xuất.
- Người bị bắt trước khi tình trạng khẩn cấp được bãi bỏ nhưng chưa chuyển giao cho cơ quan điều tra hoặc cơ quan khác có thẩm quyền xử lý hành chính, tổ chức đang tạm giữ người bị bắt phải làm thủ tục chuyển giao ngay theo qụy định của pháp luật. Người bị bắt được trả trả tự do ngay nếu hết thời gian tạm giữ theo quy định và được xác định người đó không vi phạm pháp luật.
- Người bị bắt, giam, giữ trái pháp luật hoặc bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật khác của người có thẩm quyền gây ra được khôi phục danh dự, quyền lợi, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
- Cơ quan trưng dụng phương tiện, tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải trả ngay phương tiện, tài sản đã trưng dụng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý sử dụng hợp pháp và có trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật đối với phương tiện, tài sản bị mất, hoặc bị hư hại.
Chương VI. TRÁCH NHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP
Điều 22. Trách nhiệm quản lý nhà nước trong tình trạng khẩn cấp
- Nội dung quản lý nhà nước về tình trạng khẩn cấp: Ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về tình trạng khẩn cấp; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và kiến thức về tình trạng khẩn cấp; kiểm tra, thanh tra về tình trạng khẩn cấp; sơ kết, tổng kết, khen thưởng, xử lý vi phạm về tình trạng khẩn cấp.
- Trách nhiệm quản lý nhà nước về tình trạng khẩn cấp: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tình trạng khẩn cấp;
+ Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý thống nhất về tình trạng khẩn cấp về quốc phòng;
+ Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý thống nhất về tình trạng khẩn cấp về an ninh;
+ Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với ứng phó, khắc phục hậu quả của thảm hoạ, dịch bệnh thuộc phạm vi lĩnh vực quản lý của mình;
+ Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với việc ứng phó, khắc phục hậu quả từ các tình huống khẩn cấp trên địa bàn quản lý.
Điều 23. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp với Bộ Quốc phòng và cơ quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm tuyên truyền, vận động Nhân dân chấp hành nghiêm các quy định về tình trạng khẩn cấp; giám sát việc thực hiện pháp luật về tình trạng khẩn cấp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Chương VII. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 24. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ một số điều của các luật có liên quan đến Tình trạng khẩn cấp
Bãi bỏ Pháp luật về Tình trạng khẩn cấp năm 2000.
Điều 25. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày … tháng … năm 20…..
Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, Kỳ họp thứ … thông qua ngày … tháng ... năm 2025
[1] Khoản 3 Điều 96 Hiến pháp quy định Chính phủ “thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân”.
[2] Theo Nghị định 02/2018/NĐ-CP.