Một số vấn đề pháp lý cần hoàn thiện về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về mại dâm
10/01/2025
Tóm tắt: Mại dâm là tệ nạn gây nên sự nhức nhối trong xã hội, ngày càng diễn ra phức tạp, khó kiểm soát. Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật khác nhau để quy định các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh đối với hành vi mại dâm, trong đó có các quy định về xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về mại dâm vẫn còn hạn chế, gây khó khăn cho công tác xử phạt trong thực tiễn, cần sớm được hoàn thiện.
Từ khóa: Mại dâm; vi phạm hành chính về mại dâm; xử phạt vi phạm hành chính.
Abstract: Prostitution is a social evil causing several oustanding concerns in society and becomes increasingly complicated to control. In recent years, the State has issued various legal regulations to prescribe measures to prevent and combat prostitution, including legal regulations on sanctioning administrative violations. However, legal regulations on administrative sanctions for prostitution violations reveal shortcomings, causing difficulties in practical sanctions and they need to be reviewed and improved.
Keywords: Prostitution; administrative violation on prostitution; sanctioning of an administrative violation.

Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Một số hạn chế của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về mại dâm
Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, năm 2021, số người bán dâm ước tính là 11.066 người, trong đó tập trung nhiều ở một số khu vực như: Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. Cả nước có 126.833 cơ sở kinh doanh dịch vụ tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tệ nạn xã hội, trong đó có tồn tại tệ nạn mại dâm
[1]. Tệ nạn mại dâm có ảnh hưởng tiêu cực trên hầu hết các phương diện (xã hội, kinh tế, sức khỏe con người). Với những ảnh hưởng tiêu cực đó của tệ nạn mại dâm đối với xã hội, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có nhiều chủ trương, biện pháp để ngăn chặn tình trạng trên, nhưng chưa đem lại kết quả như mong muốn
[2].
Trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính (VPHC), các vi phạm về mại dâm hiện nay được quy định từ Điều 24 đến Điều 27 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, thực tiễn xử phạt VPHC về mại dâm cho thấy, số lượng vi phạm không hề giảm đi mà ngày càng có chiều hướng gia tăng, hình thức thực hiện vi phạm ngày càng phức tạp dưới những hình thức trá hình như massage, xông hơi, karaoke
[3]. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này xuất phát từ các hạn chế trong quy định pháp luật về xử phạt VPHC đối với vi phạm về mại dâm.
Thứ nhất, vướng mắc khi áp dụng hình thức xử phạt chính đối với các VPHC về mại dâm.
Hình thức xử phạt là biện pháp chế tài hành chính được pháp luật quy định đối với chủ thể VPHC, thể hiện sự đánh giá của Nhà nước về mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và chủ thể vi phạm
[4]. Nghị định số 144/2021/NĐ-CP quy định các VPHC về mại dâm áp dụng hai hình thức xử phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền. Trong đó, có hai trường hợp vi phạm vừa có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đó là: (
i)hành vi bán dâm cho một người
[5]; (
ii)hành vi mua, bán khiêu dâm, kích dục
[6]. Cách quy định này có ưu điểm là tạo điều kiện cho người có thẩm quyền chủ động trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý nhà nước nhằm áp dụng pháp luật phù hợp với từng hoàn cảnh, mục đích nhất định. Vì thế, tùy vào tình hình cụ thể, người có thẩm quyền có thể xem xét áp dụng hình thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đối người vi phạm. Tuy nhiên, nhược điểm của cách quy định này là trong một số trường hợp nhất định, làm phát sinh sự chồng chéo trong việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo với hình thức phạt tiền
[7].
Hiện nay, Điều 22 Luật Xử lý VPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022) quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức VPHC không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi VPHC do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản”. Quy định này cho thấy, đối với cá nhân từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện các VPHC về mại dâm thì trong mọi trường hợp đều áp dụng hình thức xử phạt là cảnh cáo. Do vậy, đối với nhóm đối tượng này chỉ cần đáp ứng điều kiện về độ tuổi thì người có thẩm quyền sẽ đương nhiên áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo mà không cần quan tâm điều kiện nào khác kèm theo. Trong khi đó, đối với cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên thực hiện các VPHC về mại dâm thì hình thức xử phạt cảnh cáo chỉ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện: (i) VPHC không nghiêm trọng; (ii) có tình tiết giảm nhẹ; (iii) theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Nếu thiếu một trong ba điều kiện này thì không thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo.
Trong khi đó, đối với hình thức phạt tiền, khoản 4 Điều 23 Luật Xử lý VPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022) quy định: “
Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi VPHC là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt”. Hướng dẫn nội dung này, Nghị định số 118/2021/NĐ-CP quy định chi tiết hơn như sau: “
Khi xác định mức phạt tiền đối với tổ chức, cá nhân vi phạm vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, thì được giảm trừ tình tiết tăng nặng theo nguyên tắc một tình tiết giảm nhẹ được giảm trừ một tình tiết tăng nặng. Mức phạt tiền cụ thể đối với một hành vi VPHC là mức trung bình của khung phạt tiền được quy định đối với hành vi đó. Trong trường hợp có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên, thì áp dụng mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có từ 02 tình tiết tăng nặng trở lên, thì áp dụng mức tối đa của khung tiền phạt”
[8].
Giả thiết một tình huống như sau: C là cô gái 25 tuổi, đang mang thai được 2 tháng thực hiện hành vi bán dâm bị cơ quan chức năng phát hiện quả tang. Trong trường hợp này, C đã vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 25 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP với hình thức xử phạt chính là “cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng”. Do C đang mang thai được 2 tháng nên khi xử phạt sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người VPHC là phụ nữ mang thai” quy định tại khoản 5 Điều 9 Luật Xử lý VPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022). Đối chiếu với các điều kiện áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo có thể thấy vi phạm của C đã hội đủ các điều kiện theo luật định. Vì vậy, người có thẩm quyền hoàn toàn có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với VPHC nêu trên của C. Tuy nhiên, cũng với tình huống nêu trên, người có thẩm quyền xử phạt cũng có thể lựa chọn phương án phạt tiền đối với C trong khoảng từ trên 300.000 đồng đến dưới 400.000 đồng do có tình tiết giảm nhẹ “Người VPHC là phụ nữ mang thai” theo hướng dẫn của khoản 4 Điều 23 Luật Xử lý VPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022).
Câu hỏi có tính thực tiễn đặt ra là người có thẩm quyền sẽ dựa vào tiêu chí nào để quyết định áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hay phạt tiền đối với C. Rõ ràng trong trường hợp này, pháp luật về xử phạt VPHC nói chung và Nghị định số 144/2021/NĐ-CP nói riêng không có câu trả lời mà việc áp dụng cảnh cáo hay phạt tiền hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người có thẩm quyền xử phạt trên cơ sở “tùy nghi hành chính”
[9]. Như vậy, cách quy định này vô hình trung cũng đã đồng nhất cảnh cáo và phạt tiền, trong khi hậu quả pháp lý của hai hình thức xử phạt này rất khác nhau. Cần lưu ý rằng, việc xử phạt VPHC đối với các vi phạm về mại dâm cũng phải tuân thủ một nguyên tắc quan trọng đó là “
bảo đảm công bằng”
[10], nội dung nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động xử phạt VPHC phải bảo đảm cho người vi phạm được xử lý phù hợp với tính chất và mức độ vi phạm, có căn cứ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, không làm oan, sai nhưng đồng thời phải bảo đảm xử lý nghiêm minh; các VPHC về mại dâm có tính chất, mức độ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ như nhau thì phải bị xử phạt với hình thức giống nhau. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, nội dung của nguyên tắc xử phạt quan trọng này không được bảo đảm thực hiện, dẫn đến mục đích phân hóa trách nhiệm hành chính không đạt được
[11].
Thứ hai, mức phạt tiền đối với các VPHC về mại dâm còn quá thấp, chưa đủ sức răn đe.
Phạt tiền là hình thức xử phạt buộc cá nhân, tổ chức VPHC phải nộp một khoản tiền nhất định vào ngân sách nhà nước.Trong các hình thức xử phạt, hình thức phạt tiền được quy định phổ biến nhất vì phạt tiền có nhiều mức phạt phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi vi phạm. Nhiều nước trên thế giới quy định phạt tiền là hình thức phạt hành chính
[12].
Với ý nghĩa đó, Nghị định số 144/2021/NĐ-CP quy định tất cả các VPHC về mại dâm đều áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền. Quy định này đánh vào lợi ích kinh tế của chủ thể vi phạm nhằm mục đích giúp họ nhận thấy thiệt hại về mặt vật chất để nghiêm chỉnh chấp hành quy định của pháp luật. Tuy nhiên, điểm hạn chế còn tồn tại là mức phạt tiền đối với các VPHC về mại dâm trong Nghị định số 144/2021/NĐ-CP còn quá thấp, chưa tương xứng với mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm nên không đủ sức răn đe, ngặn chặn vi phạm xảy ra trong tương lai. Đơn cử, người có hành vi bán dâm thì chỉ bị cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng. Trường hợp bán dâm cho 02 người trở lên cùng một lúc thì cũng chỉ bị phạt tiền với mức từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng
[13]. Chính vì lý do này, nhiều trường hợp người bán dâm sẵn sàng chấp nhận nộp phạt để tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm bởi lợi ích kinh tế họ có được từ hành vi bán dâm cao hơn nhiều so với mức phạt mà Nghị định số 144/2021/NĐ-CP quy định.
Điển hình vào năm 2023, Phòng Cảnh sát hình sự, Công an TP. Hồ Chí Minh phát hiện đường dây môi giới mại dâm quy mô lớn với thành phần là người mẫu, hoa khôi, hoa hậu trong các cuộc thi sắc đẹp với giá bán dâm mỗi lần từ 45 triệu đồng đến hơn 200 triệu đồng (từ 2.000 USD đến 10.000 USD)
[14]. Chính vì có mức thu nhập cao như vậy nên các cô gái bán dâm này sẵn sàng nộp phạt 300.000 đồng đến 500.000 đồng để tiếp tục vi phạm. Trong khi đó, đối với người mua dâm, tuy mức xử phạt cao hơn so với người bán dâm, nhưng cũng chẳng “thấm” vào đâu nên không đáp ứng được mục đích trừng trị, răn đe người vi phạm. Cụ thể, người nào có hành vi mua dâm chỉ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng, trường hợp mua dâm từ 02 người trở lên cùng một lúc cũng chỉ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng
[15]. Bên cạnh đó, đa số hành vi mua dâm, bán dâm chỉ bị xử phạt VPHC chứ chưa thể cấu thành tội phạm để bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì thế người vi phạm có tâm lý coi thường pháp luật, sẵn sàng nộp phạt để tiếp tục thực hiện vi phạm
[16]. Do đó, Nghị định số 144/2021/NĐ-CP cần tăng mức tiền phạt đối với các VPHC về mại dâm thì mới đủ sức răn đe chủ thể vi phạm, từ đó mới hy vọng giảm thiểu tình trạng vi phạm về mại dâm đang diễn ra phổ biến trong thực tế.
Thứ ba, một số vi phạm về mại dâm bị xử phạt VPHC trong Nghị định số 144/2021/NĐ-CP có sự trùng lặp với nhau.
Theo quy định của Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003, bảo kê mại dâm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm
[17]. Từ quy định này có thể xác định hành vi “bảo kê mại dâm” bao gồm các dạng hành vi sau:
(i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm; (ii) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm. Tuy nhiên, Nghị định số 144/2021/NĐ-CP lại có sự trùng lặp trong việc quy định về xử phạt đối với hành vi “bảo kê mại dâm”. Cụ thể, Nghị định số 144/2021/NĐ-CP quy định người có hành vi “che giấu, bảo kê cho các hành vi mua dâm, bán dâm” thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng
[18]. Trong khi đó, các hành vi là biểu hiện cụ thể của hành vi “bảo kê mại dâm” lại được quy định với những mức phạt khác cao hơn. Cụ thể, hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm” sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng
[19], còn hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm” sẽ bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 75.000.000 đồng
[20]. Như vậy, có thể thấy rằng, cùng một dạng hành vi với bản chất như nhau nhưng Nghị định số 144/2021/NĐ-CP lại quy định thành 3 nhóm vi phạm với 3 khung tiền phạt khác nhau là không hợp lý. Bất cập này có thể tạo ra sự lạm dụng và thiếu nhất quán trong quá trình xử phạt VPHC đối với các vi phạm về “bảo kê mại dâm” trên thực tế bởi lẽ việc xử phạt theo quy định nào hoàn toàn phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền, trong khi mức tiền phạt áp dụng khác nhau sẽ gây ra những thiệt hại nhất định đến lợi ích vật chất của người bị xử phạt.
Thứ tư, chưa có sự phân định rạch ròi giữa xử phạt VPHC và xử lý hình sự đối với các vi phạm về mại dâm.
Để thực hiện phòng, chống mại dâm, Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003 quy định Nhà nước thực hiện đồng bộ các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, kinh tế - xã hội, hành chính, hình sự và các biện pháp khác để phòng, chống mại dâm; kết hợp chặt chẽ các biện pháp phòng, chống mại dâm với phòng, chống ma tuý và phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS
[21]. Do vậy, chủ thể thực hiện các vi phạm về mại dâm có thể bị xử phạt VPHC hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm. Tuy nhiên, so sánh các quy định pháp luật về xử lý các vi phạm về mại dâm, tác giả phát hiện một số hành vi vi phạm có sự trùng lặp giữa xử phạt VPHC và truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo Nghị định số 144/2021/NĐ-CP, hành vi “môi giới mua dâm, bán dâm” sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng
[22]. Trong khi đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng có quy định về “Tội môi giới mại dâm” tại Điều 328 như sau:
1. Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi;
b) Có tổ chức;
c) Có tính chất chuyên nghiệp;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
b) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Như vậy, cùng một hành vi vi phạm là “môi giới mại dâm” nhưng trách nhiệm pháp lý lại hoàn toàn khác nhau. Một bên là trách nhiệm hành chính và một bên là trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này đã có sự trùng lặp về chế tài giữa hành chính và hình sự khi xử lý hành vi môi giới mại dâm. Điều này sẽ gây ra khó khăn cho chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật trên thực tế bởi lẽ trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự là hai loại trách nhiệm pháp lý hoàn toàn độc lập với nhau. Thậm chí, sự bất cập này còn là nguyên nhân dẫn đến nhiều khiếu nại, khởi kiện liên quan đến việc áp dụng pháp luật đối với hành vi môi giới mại dâm, từ đó làm giảm hiệu quả của việc đấu tranh, phòng, chống vi phạm pháp luật.
Vấn đề có tính thực tiễn đặt ra cho các chủ thể có thẩm quyền là khi phát hiện hành vi “môi giới mua dâm, bán dâm” thì sẽ áp dụng văn bản nào để giải quyết. Xét về hiệu lực áp dụng, khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”. Trong trường hợp này, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn Nghị định số 144/2021/NĐ-CP nên văn bản sẽ được áp dụng để điều chỉnh là Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuy nhiên, thực tiễn xử lý vi phạm cho thấy, khi các chủ thể có thẩm quyền xử phạt VPHC phát hiện người có hành vi “môi giới mua dâm, bán dâm” thì sẽ áp dụng quy định của Nghị định số 144/2021/NĐ-CP để xử phạt. Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và đặc biệt là Tòa án, khi phát hiện hành vi nói trên sẽ áp dụng Điều 328 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Thực ra cách giải quyết này chỉ là giải pháp tình thế để khắc phục bất cập của pháp luật chứ việc áp dụng trách nhiệm pháp lý khác nhau đối với một vi phạm pháp luật giống nhau là điều hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc truy cứu trách nhiệm pháp lý, đồng thời không phù hợp với yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Do đó, cần xem xét loại bỏ sự chồng chéo giữa hai văn bản này trong việc quy định về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi “môi giới mại dâm” nhằm bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Thứ năm, chưa có quy định hướng dẫn cụ thể cách xác định “số lợi bất hợp pháp” khi áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối với các vi phạm về mại dâm.
VPHC ngoài việc xâm phạm trật tự quản lý nhà nước, còn gây ra những hậu quả nhất định đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Do đó, bên cạnh việc áp dụng các hình thức xử phạt để răn đe, pháp luật còn quy định việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do VPHC gây ra. Để hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện VPHC, Điều 37 Luật Xử lý VPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022) quy định cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp lại số lợi bất hợp pháp là tiền, tài sản, giấy tờ và vật có giá có được từ VPHC mà cá nhân, tổ chức đó đã thực hiện để sung vào ngân sách nhà nước hoặc hoàn trả cho đối tượng bị chiếm đoạt; nếu cá nhân, tổ chức VPHC không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện. Như vậy, Luật Xử lý VPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022) đã khoanh vùng số lợi bất hợp pháp có được từ VPHC gồm tiền, tài sản, giấy tờ và vật có giá; đồng thời quy định rõ số lợi bất hợp pháp do cá nhân, tổ chức VPHC nộp lại sẽ được xử lý bằng 2 cách: (i) Sung vào ngân sách nhà nước hoặc (ii) Hoàn trả cho đối tượng bị chiếm đoạt. Tuy nhiên, Luật Xử lý VPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022) cũng chỉ mới dừng lại ở việc quy định về các khoản lợi được coi là “số lợi bất hợp pháp” cũng như cách thức nộp lại số lợi bất hợp pháp chứ chưa hướng dẫn cụ thể về cách tính giá trị “số lợi bất hợp pháp”
[23].
Đối với các vi phạm về mại dâm, lần đầu tiên Nghị định số 144/2021/NĐ-CP bổ sung việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm” đối với chủ thể vi phạm. Biện pháp khắc phục hậu quả này được áp dụng đối với chủ thể vi phạm thu được số lợi bất hợp pháp từ hành vi bán dâm; mua, bán khiêu dâm, kích dục; che giấu, bảo kê cho các hành vi mua dâm, bán dâm; giúp sức, lôi kéo, xúi giục, ép buộc hoặc cưỡng bức người khác mua dâm, bán dâm; dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm; góp tiền, tài sản để sử dụng vào mục đích hoạt động mua dâm, bán dâm; môi giới mua dâm, bán dâm; lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm; sử dụng việc mua dâm, bán dâm và các hoạt động tình dục khác làm phương thức kinh doanh
[24]. Tuy nhiên, Nghị định số 144/2021/NĐ-CP lại không có quy định hướng dẫn cụ thể cách xác định “số lợi bất hợp pháp” đối với các vi phạm về mại dâm nêu trên, từ đó gây ra khó khăn cho người có thẩm quyền xử phạt khi áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm” trong thực tiễn.
Tra cứu các Nghị định của Chính phủ về xử phạt VPHC trong một số lĩnh vực khác có áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm” nhận thấy đã có một số lĩnh vực có quy định hướng dẫn cụ thể cách thức xác định số lợi bất hợp pháp như Nghị định số 36/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản
[25], Nghị định số 16/2022/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC về xây dựng
[26], Nghị định số 45/2022/NĐ-CP quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
[27]... Do đó, Nghị định số 144/2021/NĐ-CP cần kịp thời bổ sung quy định hướng dẫn về cách xác định “số lợi bất hợp pháp” đối với các VPHC về mại dâm để biện pháp khắc phục hậu quả này được áp dụng thuận lợi trong thực tiễn.
2. Kiến nghị hoàn thiện
Một là, cần sửa đổi Nghị định số 144/2021/NĐ-CP theo hướng bỏ cách quy định một VPHC về mại dâm vừa có thể phạt cảnh cáo, vừa có thể phạt tiền. Theo đó, nếu đánh giá hành vi vi phạm là không nghiêm trọng và không cần thiết phải áp dụng hình thức phạt tiền thì quy định hành vi đó chỉ áp dụng hình thức xử phạt chính là cảnh cáo mà không kèm theo hình thức phạt tiền. Cách quy định này không những giải quyết được tình trạng không rõ ràng trong việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo và phạt tiền khi xử phạt đối với VPHC về mại dâm có tính chất, mức độ, tình tiết giảm nhẹ giống như nhau.
Hai là, mức phạt tiền áp dụng đối với các VPHC về mại dâm còn quá thấp, chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm nên chưa đủ sức răn đe và ngăn chặn các vi phạm trong lĩnh vực này. Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng, cần tăng cường mức phạt để xử phạt thật nặng chủ thể vi phạm, ngược lại có quan điểm lại cho rằng, mấu chốt không phải ở việc tăng mức phạt lên quá cao mà quan trọng là xác định mức phạt thật phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm
[28]. Theo quan điểm của tác giả, các nhà làm luật cần cân nhắc tăng mức phạt tiền đối với các VPHC về mại dâm để răn đe và ngăn chặn các hành vi vi phạm, tuy nhiên không được lạm dụng mà phải điều chỉnh cho phù hợp với tình hình vi phạm thực tế và có sự phân hóa trách nhiệm hành chính đối với các vi phạm cụ thể về mại dâm (như giá trị giao dịch mua bán dâm, số người tham gia mua bán dâm, số lần vi phạm...).
Ba là, để loại bỏ tình trạng các VPHC có cùng bản chất giống nhau lại được quy định thành các vi phạm khác nhau với mức tiền phạt rất chênh lệch, Chính phủ cần tiến hành rà soát một cách kỹ lưỡng các vi phạm về “bảo kê mại dâm” bị xử phạt VPHC trong Nghị định số 144/2021/NĐ-CP có sự trùng lặp về mặt nội hàm để bỏ đi các quy định không phù hợp.
Bốn là, đối với hành vi môi giới mại dâm, do có sự trùng lắp giữa Nghị định số 144/2021/NĐ-CP với Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên cần có sự thống nhất trong đường lối xử lý. Minh định giữa xử phạt hành chính và xử lý hình sự đối với hành vi “môi giới mại dâm” không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh, phòng, chống vi phạm này mà còn hạn chế tình trạng nhập nhằng “hành chính hóa các vi phạm hình sự” hoặc “hình sự hóa các VPHC”. Chúng tôi cho rằng, để đấu tranh hiệu quả đối với hành vi môi giới mại dâm cần tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự về tội môi giới mại dâm theo Điều 328 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), thay vào đó Chính phủ sẽ bãi bỏ quy định về xử phạt VPHC đối với hành vi “môi giới mua dâm, bán dâm” trong Nghị định số 144/2021/NĐ-CP.
Năm là, Chính phủ cần bổ sung vào Nghị định số 144/2021/NĐ-CP quy định cụ thể hướng dẫn cách xác định “số lợi bất hợp pháp” đối với các VPHC về mại dâm làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này trong thực tế./.
[1] Phạm Thanh Hưng (2023), “
Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tái hoà nhập cộng đồng cho người mại dâm”, Tạp chí Nghề luật, số 4, tr. 57.
[2] Lê Ngọc Anh (2017), “
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội chứa mại dâm và môi giới mại dâm trong đấu tranh phòng chống tội phạm”, Tạp chí Nghề luật,số 3, tr. 46.
[4] Cao Vũ Minh, Nguyễn Nhật Khanh (2021),
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính”, Nxb. Thanh niên, tr. 7.
[5] Khoản 1 Điều 25 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP.
[6] Khoản 1 Điều 26 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP.
[7] Nguyễn Nhật Khanh (2020), “
Hình thức xử phạt cảnh cáo trong pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí Luật học,số 5, tr. 21.
[8] Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP.
[9] Cao Vũ Minh (2013),
“Bàn về quyền tùy nghi trong hoạt động của các cơ quan hành chính”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11, tr. 10-20.
[10] Điểm b khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022) quy định: “
Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật”.
[11] Nguyễn Nhật Khanh, Trần Quốc Minh (2020), “
Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17, tr. 32.
[12] Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên) (2015),
Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (tập 1), Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr.192.
[13] Khoản 1, 2 Điều 25 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP.
[14] Hồng Đăng, “Vụ tiếp viên hàng không, hoa hậu, hoa khôi bán dâm: Bắt thêm nhiều đối tượng liên quan”, https://congan.com.vn/vu-an/bat-them-nhieu-ma-mi-tu-ong-va-kieu-nu-kinh-doanh-von-tu-co_152647.html, truy cập ngày 10/5/2024.
[15] Khoản 1, 2 Điều 24 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP.
[16] Điều 329 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chỉ quy định về “Tội mua dâm người dưới 18 tuổi” đối với người đủ 18 tuổi trở lên mua dâm người dưới 18 tuổi.
[17] Khoản 8 Điều 3 Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003.
[18] Khoản 2 Điều 26 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP.
[19] Điểm a khoản 4 Điều 26 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP.
[20] Khoản 5 Điều 26 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP.
[21] Điều 7 Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003.
[22] Điểm c khoản 4 Điều 26 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP.
[23] Nguyễn Nhật Khanh (2018), “
Biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 7, tr. 46, 48.
[24] Khoản 4 Điều 25, khoản 6 Điều 26, khoản 4 Điều 27 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP.
[25] Điểm r khoản 3 Điều 4 Nghị định số 36/2020/NĐ-CP.
[26] Khoản 3 Điều 84 Nghị định số 16/2022/NĐ-CP.
[27] Điểm g khoản 3 Điều 4 Nghị định số 45/2022/NĐ-CP.