Nguyên tắc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền

09/01/2025

Tóm tắt: Kiểm soát quyền lực luôn là nhu cầu, là yếu tố bảo đảm sự liêm chính, tính trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, kiểm soát quyền lực nhà nước cũng có nguy cơ trở thành “gánh nặng” gây tốn kém thời gian và nguồn lực của các cơ quan là đối tượng của sự kiểm soát. Chính vì vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước và đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước cần theo những nguyên tắc nhất định. Trong bài viết này, các tác giả phân tích, đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước và các nguyên tắc cần tuân thủ trong đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước.
Từ khóa: Kiểm soát quyền lực nhà nước; nguyên tắc đánh giá; hiệu quả.
Abstract: Power control is always a need; it is also a factor that ensures the integrity, accountability, and operational efficiency of the state apparatus. However, state power control retains potential risks that may become a "burden" of wastes of time and resources of the agencies that are the objects of power control. Therefore, state power control and assessment of the effectiveness of state power control are required to comply with certain principles. Within this article, the authors provide an analysis and assessment of the effectiveness of state power control and the principles that are required to be followed in the assessment of the effectiveness of state power control.
Keywords: State power control; assessment principle; effectiveness.
 5_103.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Kiểm soát quyền lực nhà nước và hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước
1.1. Khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước được hiểu là bất kỳ hoạt động nào được thực hiện bởi bất kỳ chủ thể nào nhằm tác động một cách trực tiếp và gián tiếp tới quá trình thực hiện quyền lực nhà nước nhằm mục đích bảo đảm quyền lực nhà nước đó được thực hiện một cách đúng đắn. Ở góc độ cụ thể, kiểm soát quyền lực là bất kỳ hoạt động nào tác động lên các cơ quan nhà nước cụ thể nhằm mục đích bảo đảm các cơ quan đó hoạt động một cách đúng đắn. Sự đúng đắn ở đây có thể là phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, chủ trương đường lối của Đảng hoặc bảo đảm tính hiệu quả, trách nhiệm trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Khi hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước thì đó là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Song, các hoạt động mang tính quyền lực kiểm soát khác với hoạt động mang tính quyền lực nhà nước truyền thống, như hoạt động lập pháp, hành pháp hay tư pháp, vốn được nhìn qua lăng kính của thuyết phân quyền. Hoạt động lập pháp có mục đích điển hình là làm ra các đạo luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoạt động hành pháp có mục đích điển hình là điều hành, quản lý xã hội. Hoạt động tư pháp xét xử các tranh chấp trong xã hội, buộc các bên tuân thủ các chuẩn mực công lý mà Tòa án đưa ra. Hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước không nhằm tác động lên xã hội mà nhằm vào bản thân việc thực hiện quyền lực nhà nước, hay nói một cách trực tiếp hơn, chính là cơ quan nhà nước. Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước luôn nhắm tới việc thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm việc thực hiện quyền lực nhà nước được đúng đắn.
Kiểm soát quyền lực nhà nước có vai trò không thể thiếu trong nhà nước pháp quyền bởi vì một quy luật chung là quyền lực luôn có xu hướng tha hóa. Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đã nhận định rằng bất kỳ ai nắm giữ quyền lực đều có xu hướng tất yếu là lạm dụng quyền lực và người đó sẽ luôn tiếp tục xu hướng này cho đến khi bị giới hạn. Từ đó, ông đi tới một kết luận: “Để cho người ta không lạm quyền thì lẽ tất yếu của vạn vật là quyền lực phải bị kìm chế bởi quyền lực[1].
Thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước chính là công cụ và cũng là biện pháp để vừa đối phó, vừa ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực nói trên, bảo đảm bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả, thực sự là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
1.2. Các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước
Nói tới phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước tức là nói tới cách thức, phương pháp của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong bộ máy nhà nước hiện đại, quyền lực nhà nước có thể được thực hiện dưới nhiều hình thái với những nội dung, đặc điểm đa dạng. Để bảo đảm sự hiệu quả của hoạt động kiểm soát cũng như hiệu quả của bản thân hoạt động của các cơ quan nhà nước bị kiểm soát, các hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, do đó cũng có sự đa dạng tương ứng. Tuy nhiên, dù có sự đa dạng như thế nào thì các hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước cũng có thể được xếp vào nhóm các phương thức có cùng đặc điểm về phương pháp, cách thức tiến hành. Hai phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước được đề cập nhiều nhất là phương thức kiểm soát bên trong, theo nghĩa sự kiểm soát đến từ bên trong bộ máy nhà nước và phương thức kiểm soát bên ngoài, theo nghĩa sự kiểm soát đến từ bên ngoài bộ máy nhà nước[2].
Từ khái niệm về kiểm soát quyền lực nhà nước, nhìn một cách chung nhất có thể xác định các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước sau: kiểm soát bên trong, kiểm soát bên ngoài, kiểm soát chủ động và kiểm soát tự động.
Kiểm soát bên trong là hoạt động kiểm soát diễn ra bên trong nội bộ một hệ thống cơ quan nhà nước. Hoạt động kiểm soát này thường được cơ quan nhà nước cấp trên của hệ thống thực hiện đối với cơ quan nhà nước cấp dưới của hệ thống nhằm bảo đảm cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn đã được giao một cách hiệu lực và hiệu quả. Ví dụ điển hình nhất của phương thức kiểm soát bên trong là việc các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên thực hiện quyền kiểm soát đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới thông qua các hình thức như xét báo cáo, phê duyệt, phê chuẩn, kiểm tra, thanh tra... Kiểm soát bên trong cũng có thể được tiến hành trong nội bộ một cơ quan nhà nước, thông thường là do thủ trưởng cơ quan thực hiện đối với cấp dưới của mình nhằm bảo đảm cấp dưới thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao.
Khác với kiểm soát bên trong, kiểm soát bên ngoài do một chủ thể bên ngoài cơ quan nhà nước chịu sự kiểm soát thực hiện. Chủ thể của hoạt động kiểm soát lúc này là một cơ quan nhà nước bên ngoài hệ thống của đối tượng chịu sự kiểm soát. Đối tượng chịu sự kiểm soát lúc này là cơ quan nhà nước không thuộc cùng hệ thống với chủ thể thực hiện quyền kiểm soát. Ví dụ điển hình nhất của trường hợp này là các cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện quyền giám sát đối với các cơ quan nhà nước cùng cấp. Về lý luận, chủ thể của kiểm soát ngoài có thể là các chủ thể không phải là cơ quan nhà nước như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và người dân.
Kiểm soát bên trong và kiểm soát bên ngoài là những khái niệm mang tính tương đối, căn cứ vào tiêu mốc để xác định hướng tác động “bên trong” hay “bên ngoài” của hoạt động kiểm soát quyền lực. Tùy thuộc vào đối tượng chịu sự kiểm soát và góc nhìn của hoạt động kiểm soát để xác định đâu là kiểm soát bên trong hay kiểm soát bên ngoài một cách phù hợp. Tất nhiên, cách xác định bao quát nhất vẫn là phương thức kiểm soát từ bên trong hay bên ngoài bộ máy nhà nước.
Kiểm soát chủ độngkiểm soát tự động là các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước được nhận diện dựa trên tính chất của phương thức thực hiện kiểm soát. Kiểm soát chủ động là việc một chủ thể nào đó bằng việc thực hiện quyền kiểm soát tác động lên đối tượng chịu sự kiểm soát, qua đó đạt được mục tiêu và mục đích của hoạt động kiểm soát, ví dụ Quốc hội xét báo cáo công tác của Chính phủ, chất vấn các thành viên Chính phủ, Viện kiểm sát phê duyệt lệnh bắt giam người bị tình nghi của cơ quan điều tra, Hội đồng nhân dân chất vấn hoạt động của Ủy ban nhân dân cùng cấp… Đây là phương thức kiểm soát phổ biến nhất. Về hình thức, đây cũng được xem là phương thức kiểm soát hiệu quả. Tuy nhiên, phương thức này thường khá tốn kém bởi được thực hiện theo mô hình “cơ quan kiểm soát cơ quan” và vì vậy để kiểm soát một bộ máy thì lại phải sinh ra một bộ máy khác để kiểm soát.
Khác với kiểm soát chủ động, kiểm soát tự động được tiến hành dựa trên cơ sở áp đặt nghĩa vụ công khai, minh bạch thông tin lên đối tượng chịu sự kiểm soát. Trong phương thức này không xác định một chủ thể kiểm soát cụ thể. Trọng tâm của hoạt động kiểm soát lúc này là đối tượng chịu sự kiểm soát. Thông qua phạm vi thông tin phải công khai, minh bạch, toàn bộ hoạt động của đối tượng chịu sự kiểm soát cũng được phơi bày công khai trước công chúng. Khi đó, công chúng, giới chuyên môn, cơ quan báo chí có thể phân tích tính hợp lý trong quyết định hay phương án hành xử của cơ quan nhà nước. Hoạt động công khai, minh bạch thông tin do đó có tác dụng kiểm soát đối với cơ quan nhà nước. So với phương thức kiểm soát chủ động thì phương thức kiểm soát tự động đỡ tốn kém hơn nhiều, bởi nó không phát sinh nhu cầu hình thành thêm các thiết chế chuyên trách kiểm soát quyền lực nhà nước.
1.3. Đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước
Hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước, hay nói cách khác là hiệu quả của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, là khả năng và mức độ đạt được của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước được tiến hành, căn cứ vào những mục tiêu và mục đích đặt ra. Đặt vấn đề về hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước tức là đặt ra câu hỏi: hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước ở mức độ nào là phù hợp?
Đánh giá hiệu quả của một hoạt động nào đó có nghĩa là phép đo để xác định khả năng hoàn thành công việc như ý muốn trong tương quan với mục tiêu đặt ra. Đặt vấn đề đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước tức là đặt ra câu hỏi liệu hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước đã được thực hiện một cách hiệu quả hay chưa, đã đạt được mục tiêu đề ra với nguồn lực thích hợp hay chưa?
1.4. Ý nghĩa của việc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước
Việc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng, bởi vì nó giúp cho các cơ quan nhà nước trả lời được câu hỏi liệu hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước có đạt được mục tiêu và mục đích đặt ra hay không? Chi phí và lợi ích của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước có được cân đối phù hợp hay không? Qua đó, trả lời câu hỏi kiểm soát quyền lực nhà nước cần được hoàn thiện như thế nào để có thể được thực hiện một cách hiệu quả, đạt được mục tiêu và mục đích đặt ra.
Nếu không đặt ra vấn đề đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ có thể dẫn tới “nguy cơ” mặc nhiên công nhận rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước càng nhiều thì càng tốt (?), làm gia tăng một cách không hợp lý các hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, qua đó có thể dẫn tới tình trạng giảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan là đối tượng kiểm soát nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung. Cũng có thể xảy ra xu hướng tiêu cực theo chiều ngược lại, cho rằng kiểm soát quyền lực nhà nước gây cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan là đối tượng kiểm soát dẫn tới buông lỏng công tác kiểm soát quyền lực nhà nước.
2. Các nguyên tắc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước
Nguyên tắc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo công tác đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước. Cũng có thể nói, những nguyên tắc này đóng vai trò như những quy tắc bao trùm quá trình tiến hành đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước mà đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước cho dù ở góc độ khái quát hay cụ thể đều phải tuân thủ.
Nguyên tắc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước khác với tiêu chí đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước. Nguyên tắc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước là những quy tắc chung bao trùm và định hướng mà hoạt động đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước phải tuân thủ. Trong khi đó, tiêu chí đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước là những chỉ tiêu, hay thang đo cụ thể để căn cứ vào đó đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước trên các khía cạnh. Nói tới tiêu chí đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước là nói tới câu hỏi căn cứ vào đâu để đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước; còn nói tới nguyên tắc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước là nói tới câu hỏi việc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước phải được thực hiện như thế nào. Trên cơ sở đó, có thể thấy việc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước có một số nguyên tắc sau.
2.1. Nguyên tắc bảo đảm tính khách quan của việc đánh giá
Bảo đảm tính khách quan trong đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước có nghĩa là thực hiện các quá trình đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn, dữ liệu và bằng chứng cụ thể, không bị ảnh hưởng bởi ý kiến cá nhân, lợi ích nhóm, chính trị hay bất kỳ sự thiên vị nào khác. Điều này đòi hỏi sự minh bạch, công bằng và trách nhiệm giải trình trong tất cả các bước của quá trình đánh giá, từ thu thập dữ liệu, phân tích, đến việc đưa ra kết luận và khuyến nghị.
Dưới đây là một số yếu tố chính để bảo đảm tính khách quan trong đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước:
- Việc đánh giá cần căn cứ vào dữ liệu và bằng chứng cụ thể. Quyết định và đánh giá dựa trên dữ liệu khách quan, bằng chứng thực tế và phân tích toàn diện, thay vì dựa trên quan điểm, đánh giá chủ quan hay kinh nghiệm cá nhân.
- Quá trình đánh giá phải được thực hiện một cách minh bạch. Tiêu chí, phương pháp đánh giá và kết quả được công bố rõ ràng, minh bạch, giúp tất cả các bên liên quan có thể hiểu và đánh giá được quy trình.
- Quá trình đánh giá cho phép sự tham gia của bên thứ ba độc lập. Trong một số trường hợp, việc sử dụng các tổ chức hay chuyên gia độc lập từ bên ngoài để thực hiện hoặc giám sát quá trình đánh giá có thể giúp tăng cường tính khách quan và tin cậy của kết quả đánh giá.
Bằng cách bảo đảm các yếu tố này, quá trình đánh giá không chỉ đạt được sự công nhận và chấp nhận từ các bên liên quan mà còn góp phần vào việc cải thiện hiệu quả và tính công bằng trong kiểm soát quyền lực nhà nước.
2.2. Nguyên tắc đánh giá tổng thể, toàn diện
Nguyên tắc này yêu cầu việc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước phải được thực hiện một cách tổng thể và toàn diện. Tính hiệu quả cuộc kiểm soát quyền lực nhà nước và được phân tích một cách đa chiều với những góc nhìn bao gồm tất cả các mặt có liên quan. Quá trình đánh giá phải làm rõ được ưu điểm và tồn tại hạn chế của công tác kiểm soát quyền lực nhà nước, phân tích và đánh giá cặn kẽ cả mặt chi phí và mặt lợi ích mà công tác kiểm soát quyền lực nhà nước đã đem lại. Đặc biệt, quá trình đánh giá cần tập trung và tác động đối với hoạt động bình thường của đối tượng được đánh giá bảo đảm sự cân bằng giữa nhu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước và yêu cầu bảo đảm tính hiệu quả trong hoạt động bình thường của đối tượng được đánh giá.
Một số yếu tố chính để bảo đảm tính tổng thể, toàn diện của việc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước như sau:
- Việc đánh giá phải làm rõ nguồn lực về thời gian về con người về vật chất dành cho công tác kiểm soát quyền lực nhà nước ở góc độ vi mô cũng như góc độ vĩ mô.
- Đánh giá một cách khách quan và toàn diện sự tác động tích cực cũng như tiêu cực của công tác kiểm soát quyền lực nhà nước đối với các mặt hoạt động của đối tượng được kiểm soát.
- Việc đánh giá phải đưa ra nhận định về sự cân bằng giữa chi phí và lợi ích của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung và đối với các mặt hoạt động của đối tượng được kiểm soát nói riêng.
2.3. Nguyên tắc bảo đảm tính thực chất của việc đánh giá
Nguyên tắc bảo đảm tính thực chất trong việc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước đề cao việc bảo đảm rằng quá trình đánh giá không chỉ dừng lại ở việc tuân thủ các quy định hình thức bên ngoài mà còn chú trọng đến việc đánh giá sâu sắc, toàn diện về mức độ hiệu quả và ảnh hưởng thực sự của việc kiểm soát quyền lực nhà nước đối với xã hội. Dưới đây là một số yếu tố cốt lõi của nguyên tắc này:
- Xem xét kết quả thực tế của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, tập trung vào việc đánh giá những kết quả thực tế mà việc kiểm soát quyền lực nhà nước mang lại, không chỉ dựa trên các chỉ tiêu hình thức hay quy trình được thực hiện.
- Hoạt động đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước cần xem xét liệu các biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước có góp phần vào sự phát triển bền vững của hệ thống quản lý nhà nước và xã hội hay không.
- Hoạt động đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước cần đưa ra những giải pháp hoàn thiện phương thức và cách thức tiến hành kiểm soát quyền lực nhà nước trong tương lai.
Bằng cách tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc nêu trên, việc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ không chỉ bảo đảm tính chính xác, mà còn góp phần vào việc phát triển và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, cơ quan nhà nước cụ thể nói riêng một cách bền vững và hiệu quả, giúp phát huy các tác động tích cực, giảm thiểu các tác động tiêu cực của kiểm soát quyền lực nhà nước.
3. Thực trạng đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hướng tới xây dựng một Nhà nước phục vụ Nhân dân, gắn bó mật thiết, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân, có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa, trừng trị hiệu quả tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lạm quyền, xâm phạm các quyền con người, quyền công dân. Công cuộc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mở ra môi trường pháp lý - chính trị vững chắc, ở đó các quyền con người, quyền công dân được bảo đảm, Nhà nước được đề cao tính trách nhiệm, hướng tới xây dựng Nhà nước kiến tạo - phát triển, cũng đồng thời, dẫn tới đòi hỏi phải có cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hữu hiệu hơn.
Vấn đề phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước đã có bước phát triển về chất, được thể hiện đầy đủ, rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013. Các Điều 69, 94 và 102 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận nguyên tắc phân công, phối hợp quyền lực nhà nước, quy định rõ các chủ thể thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp”; “Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp”; “Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp”. Đặc biệt, nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” lần đầu tiên trong lịch sử được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp, tại Điều 2: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Để triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 trong kiểm soát quyền lực, các đạo luật liên quan đến kiểm soát quyền lực nhà nước không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, hình thành và thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực phù hợp với vị trí, tính chất của từng thiết chế quyền lực như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Tiếp công dân... Sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau còn được thể hiện ở nhiều luật chuyên ngành được xây dựng mới hoặc sửa đổi như: Luật Đất đai, Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư công, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư...
Có thể nói, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong thời gian vừa qua đã được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chỉ đạo và đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận: “Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực”[3]; “công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được chỉ đạo tập trung, quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, có nhiều đổi mới, có hiệu lực, hiệu quả, nhất là ở cấp Trung ương; hoạt động của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp được tăng cường, ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương”[4].
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, cũng còn một số hạn chế, khuyết điểm. Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cũng đánh giá: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao”.
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) nhận định: "Quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện".
Nghị quyết số 27-NQ/TW tiếp tục khẳng định quan điểm: "Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân" với một trong những nội dung quan trọng của mục tiêu tổng quát: "quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả".
Trên cơ sở đó, một loạt các văn bản của Đảng về kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực cũng được ban hành, góp phần củng cố thể chế, tạo cơ sở chính trị vững chắc cho việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cũng như đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước. Một số quy định quan trọng có thể kể tới như: Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; Quy định số 131-QĐ/TW ngày 27/10/2023 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán; Quy định số 189-QĐ/TW ngày 8/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật…
4. Một số đề xuất, gợi mở
Hiện nay, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam đang ngày càng đạt được những đồng thuận trên nhiều cấp độ, từ các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước cho đến các công trình nghiên cứu và sự nhận thức chung của xã hội về các yêu cầu, nguyên tắc liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, việc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực thế nào, dựa trên những nguyên tắc, thông qua những tiêu chí cụ thể gì thì hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trên thực tế. Việc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay thường khá chung chung, cảm tính. Điều này theo các tác giả, có thể lý giải bởi lý do kiểm soát quyền lực nhà nước có phạm vi rộng lớn, nên việc đưa ra các nguyên tắc bao trùm cho vấn đề này là không dễ. Thay vào đó, việc đề ra các nguyên tắc kiểm soát quyền lực nói chung, thông qua đó, xây dựng các nguyên tắc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực trong từng lĩnh vực cụ thể sẽ được ưu tiên hơn.
Dưới góc độ pháp lý, văn bản có thể cho là gần gũi và trực tiếp nhất về kiểm soát quyền lực nhà nước là Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Nguyên tắc chính thức duy nhất được nêu ra trong văn bản này được tìm thấy tại Điều 9: Nguyên tắc công khai, minh bạch (trong Chương II về Phòng, ngừa tham nhũng trong cơ quan, đơn vị).
Tham khảo các quy định gần đây của Đảng về kiểm soát quyền lực (đã được nêu ở trên) nhận thấy, việc quy định các nguyên tắc cũng không hoàn toàn giống nhau tùy vào từng lĩnh vực cụ thể. Ví dụ, Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộkhông có điều khoản nào về nguyên tắc cho vấn đề này. Trong khi đó,Quy định 131-QĐ/TW (ban hành ngày 27/10/2023) về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toánlại có một điều khoản (Điều 3) về nguyên tắc kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán;tương tự,trong Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, các nguyên tắc được quy định tại Điều 3 - Nguyên tắc kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật...
Như vậy,cùng với các nguyên tắc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước mà các tác giảđã nêu tại mục 2, trên cơ sở một số quy định của Đảng, có thể chỉ ra một số nguyên tắc đang được áp dụng trong thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước mà thông qua đó, có những gợi mở hữu ích trong việc xây dựng được các nguyên tắc phù hợp nhất nhằm đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể:
Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, chặt chẽ, toàn diện của Đảng trong kiểm soát quyền lực nhà nước; chấp hành nghiêm chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
Thứ hai, phòng ngừa là chính; kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm;
Thứ ba, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch trong từng cơ quan nhà nước;
Thứ tư, bảo đảm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền (chủ thể bị kiểm soát); không làm cản trở sự chủ động, sáng tạo, công khai, minh bạch, dân chủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi;
Thứ năm, việc kiểm soát phải độc lập, khách quan, nội dung kiểm soát phải toàn diện, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm.
Theo các tác giả, những nguyên tắc trên đây có thể dùng để tham khảo cho việc tổng kết, đánh giá, xây dựng các nguyên tắc đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước; trên cơ sở đó, xây dựng các tiêu chí cụ thể đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Làm rõ các vấn đề này sẽ góp phần giải quyết những khó khăn, hạn chế đang đặt ra trong quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa ở nước ta hiện nay./.

 


[1] Nguyên văn tiếng Anh: “To prevent this abuse, it is necessary from the very nature of things that power should be a check on power” [Montesquieu, Tinh thần pháp luật (Montesquieu - The spirit of the laws), Thomas Nugent dịch, tái bản lần thứ 5, London, 1773, Chương 4, Quyền 11, tr. 155].
[2] Xem: Nguyễn Đăng Dung (2017), Kiểm soát quyền lực nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Chương VII, VIII; Nguyễn Long Hải (2017), Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 23; Nguyễn Bá Chiến, Bùi Huy Tùng (2012), Bàn thêm về kiểm soát quyền lực nhà nước với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 8, tr. 2-8; Trương Hồ Hải (2016), Kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Luật học, số 11, tr. 21-33.
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 72.
[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 75.