Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về người đại diện, nhà trường, tổ chức của bị hại là người dưới 18 tuổi
06/01/2025
Tóm tắt: Việt Nam đã tham gia Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em và tích cực chuyển hóa các quy định của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, thời gian qua, số vụ án hình sự xâm hại người dưới 18 tuổi đang có chiều hướng gia tăng và phức tạp. Trong phạm vi bài viết, các tác giả phân tích một số quy định còn hạn chế về sự tham gia của người đại diện; nhà trường, tổ chức khi được cử làm đại diện cho bị hại là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và đưa ra kiến nghị hoàn thiện.
Từ khóa: Bảo vệ trẻ em; bị hại là người dưới 18 tuổi; người đại diện.
Abstract: Vietnam has entered the United Nations Convention on the Rights of the Child and has actively initiated international regulations into the national legal system. However, in recent times, the number of criminal cases of abuse against under-18 people has tended to increase in a complicated manner. Within the scope of the article, the authors give an analysis of a number of shortcomings in representative participation; school or organization when appointing a representative of the victim who is under 18 years of age according to Vietnamese criminal procedure law and accordingly provide relevant recommendations for further improvements.
Keywords: Protection of children; under-18 victims; representative.

Ảnh minh họa: Nguồn internet
Theo Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, “trẻ em” được hiểu là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn
[1]. Theo quy định này, các quốc gia thành viên có thể xác định tuổi trưởng thành sớm hơn. Luật Trẻ em năm 2016 của Việt Nam quy định:
“trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”[2]; Điều 21 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định:
“người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”.Như vậy, ở Việt Nam khái niệm về “trẻ em” sẽ không đồng nhất với người dưới 18 tuổi (người chưa thành niên). Tuy nhiên, Điều 11 Luật Thanh niên năm 2020 quy định:
“Nhà nước thực hiện Công ước quốc tế về Quyền trẻ em mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn áp dụng đối với thanh niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phù hợp với điều kiện Việt Nam”. Do đó, người dưới 18 tuổi tại Việt Nam vẫn sẽ được hưởng các quyền về trẻ em đã được quy định trong pháp luật quốc tế và các văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam.
Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015 đã dành một chương riêng biệt về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi nói chung phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, qua nghiên cứu của tác giả, một số quy định về người đại diện; nhà trường, tổ chức của bị hại là người dưới 18 tuổi khi tham gia TTHS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại vẫn còn một số điểm hạn chế, ảnh hưởng đến quá trình các cơ quan có thẩm quyền (CQCTQ) tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự.
1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về người đại diện, nhà trường, tổ chức của bị hại là người dưới 18 tuổi
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015: “
Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”[3]. Khi tham gia tố tụng bị hại có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ được quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 62 như: được đưa ra chứng cứ; tài liệu, đồ vật, yêu cầu; đề nghị giám định, định giá tài sản; được thông báo kết quả điều tra… Tuy nhiên, người dưới 18 tuổi do chưa có sự phát triển toàn diện đầy đủ về thể chất
[4], trí lực, tinh thần; tâm lý rất nhạy cảm, dễ xúc động và thường bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh nên thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi tại Chương XXVIII Bộ luật TTHS năm 2015 có quy định về sự tham gia của người đại diện (NĐD), nhà trường, tổ chức (thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt) để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho người dưới 18 tuổi nói chung và bị hại là người dưới 18 tuổi nói riêng.
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 quy định về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT), NĐD phải là người
“từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm NĐD theo quy định tại các điều 134, 135 và 136 BLDS”[5]. Đồng thời, Thông tư còn quy định cụ thể thứ bậc ưu tiên để CQCTQ tiến hành tố tụng thuận tiện trong việc mời, cử NĐD gồm: cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi; người giám hộ; người do Tòa án chỉ định
[6]. Theo các điều 46, 47, 48, 52 và 54 Mục 4 Chương III BLDS năm 2015 người giám hộ sẽ gồm: giám hộ đương nhiên hoặc do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã nơi người dưới 18 tuổi cư trú cử người giám hộ. Đồng thời, việc xác định NĐD cho bị hại là người dưới 18 tuổi phải tuân thủ nguyên tắc
“bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi’’[7]. Như vậy, tùy tính chất của mỗi vụ án cụ thể, nếu có căn cứ cho rằng cha, mẹ của bị hại là người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng với tư cách là NĐD sẽ không bảo đảm lợi ích tốt nhất thì CQCTQ tiến hành tố tụng có thể quyết định người giám hộ tham gia. Tòa án sẽ chỉ định khi có tranh chấp giữa những người giám hộ quy định tại Điều 52 và Điều 53 BLDS năm 2015 hoặc tranh chấp về việc cử người giám hộ
[8]. Đối với sự tham gia tố tụng của nhà trường, tổ chức (thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt), Bộ luật TTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ quy định chung, không cụ thể nội dung khi nào nhà trường, tổ chức sẽ tham gia tố tụng. Do đó, sự tham gia tố tụng của nhà trường, tổ chức sẽ xuất phát từ yêu cầu thực tiễn mà CQCTQ tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án xét thấy cần phải có sự tham gia của họ.
Về trình tự, thủ tục tham gia tố tụng được quy đinh cụ thể tại Điều 9 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT với một số nội dung đáng chú ý như: sau khi NĐD, nhà trường, tổ chức nhận được thông báo của CQCTQ tiến hành tố tụng về việc có mặt và tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị hại là người dưới 18 tuổi, thì NĐD, thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cơ quan, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt của họ phải có văn bản trả lời cho CQCTQ tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về họ tên, thông tin, địa chỉ liên lạc của người được cử để tham gia tố tụng; trường hợp cần thiết có thể báo tin trực tiếp, qua điện thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi bằng văn bản. Đồng thời, phải có mặt theo đúng thời gian, địa điểm mà CQCTQ tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ việc đã thông báo. Trường hợp vắng mặt có lý do chính đáng hoặc do trở ngại khách quan thì CQCTQ tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể hoãn việc thực hiện hoạt động tố tụng hoặc yêu cầu đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cơ quan, tổ chức khác cử ngay người khác tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dưới 18 tuổi.
Khi tham gia TTHS, NĐD của người dưới 18 tuổi có các quyền: tham gia việc lấy lời khai, hỏi cung người dưới 18 tuổi; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội người dưới 18 tuổi trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra
[9]. Trong giai đoạn xét xử, NĐD, nhà trường, tổ chức có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; phát biểu ý kiến, tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Tòa án
[10].
2. Một số hạn chế trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự về người đại diện, nhà trường, tổ chức của bị hại là người dưới 18 tuổi
2.1. Người được Ủy ban nhân dân cấp xã cử làm giám hộ cho bị hại là người dưới 18 tuổi để tham gia tố tụng hình sự
Trong trường hợp bình thường, theo quy định của pháp luật, NĐD hàng thứ nhất của bị hại là người dưới 18 tuổi sẽ là cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi. Nếu không xác định được cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi hoặc có cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự và không có người giám hộ đương nhiên thì UBND cấp xã nơi người bị hại cư trú sẽ cử người giám hộ theo quy định tại Điều 54 BLDS năm 2015. Đây là một trong những quy định thể hiện tính nhân văn, nhân đạo của Nhà nước nhằm hỗ trợ, chăm sóc người dưới 18 tuổi khi họ không còn người thân thích để làm đại diện cho mình tham gia vào các quy trình TTHS. Tuy nhiên, hiện nay không có quy định cụ thể về tiêu chuẩn, đối tượng để UBND cấp xã làm căn cứ cử người giám hộ tham gia TTHS với tư cách là NĐD nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại là người dưới 18 tuổi. Nên đã có trường hợp cán bộ được cử không có kinh nghiệm, thiếu những kiến thức pháp luật cũng như chưa có những hiểu biết cần thiết về tâm lý, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi. Dẫn đến, rất khó để hỗ trợ một cách tốt nhất cho bị hại là người dưới 18 tuổi khi tham gia lấy lời khai; đưa ra chứng cứ, tài liệu đồ vật, yêu cầu khiếu nại, tố cáo hoặc phát biểu ý kiến, tranh luận… và như vậy, điều luật chưa phát huy được giá trị nhân văn vốn có, người giám hộ lúc này chỉ mang tính hình thức và thủ tục.
Ngoài ra, người giám hộ được cử có những quyền và nghĩa vụ nhất định, theo quy định tại Điều 55, 56 BLDS năm 2015, người giám hộ có nghĩa vụ: chăm sóc, giáo dục người được giám hộ, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ... (nội dung này không phân biệt giữa giám hộ đương nhiên và giám hộ được cử). Do đó, khi được UBND cấp xã cử làm người giám hộ để đại diện cho bị hại là người dưới 18 tuổi, họ còn phải có những trách nhiệm theo quy định của BLDS năm 2015. BLDS năm 2015 có quy định về điều kiện cử người giám hộ là phải có sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ, có nghĩa là phải bảo đảm tinh thần tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu việc cử làm người làm giám hộ bằng các mệnh lệnh hành chính thì rất có thể yếu tố tự nguyện sẽ không được bảo đảm. Trong khi đó, mục đích của việc cử người giám hộ đại diện cho người dưới 18 tuổi chỉ đơn thuần là để bảo vệ quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia TTHS. Vì vậy, cần phân biệt rõ giữa việc cử người giám hộ theo quy định của BLDS và cử người giám hộ để đại diện cho người dưới 18 tuổi trong TTHS. Bên cạnh đó, người giám hộ được cử tham gia tố tụng với tư cách là NĐD khi nào sẽ kết thúc, sau khi kết thúc cần có những thủ tục gì để chấm dứt vai trò “giám hộ” để không phải chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ theo quy định của BLDS cũng chưa được quy định rõ. Thiết nghĩ, pháp luật cần quy định tách bạch hai vấn đề này hoặc có những điều chỉnh khác để áp dụng trong thực tiễn.
2.2. Quyền của người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi khi tham gia tố tụng hình sự
Căn cứ khoản 2 và 3 Điều 62, Điều 155 Bộ luật TTHS năm 2015, NĐD của bị hại là người dưới 18 tuổi có quyền thay mặt bị hại yêu cầu các CQCTQ tiến hành tố tụng khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, đối với các vụ việc xâm hại đến người dưới 18 tuổi, quyền yêu cầu khởi tố được trao cho NĐD. NĐD sẽ thay mặt cho bị hại là người dưới 18 tuổi để quyết định có yêu cầu CQCTQ khởi tố hay không. Tuy nhiên, trong thực tế nếu xảy ra tình huống: bị hại là người dưới 18 tuổi không muốn yêu cầu CQCTQ tiến hành tố tụng khởi tố đối với người thân của họ (cha, mẹ) nhưng NĐD do bức xúc với hành vi phạm tội nên vẫn yêu cầu khởi tố thì sẽ như thế nào
[11], nhất là đối với các vụ việc bạo hành trẻ em nhưng tỷ lệ thương tích là dưới 11% theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo quy định của pháp luật, NĐD có quyền thay mặt bị hại yêu cầu CQCTQ tiến hành tố tụng khởi tố vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi và họ có đầy đủ các quyền được quy định tại khoản 2 Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015. Mặc dù vậy, qua nghiên cứu bản chất quy định tại khoản 1 Điều 155 và các quy định có liên quan, tác giả cho rằng, NĐD chỉ tham gia tố tụng để hỗ trợ cho bị hại trong các thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho bị hại là người dưới 18 tuổi hoặc kịp thời phát hiện những hoạt động tố tụng chưa bảo đảm quyền của bị hại để thay mặt bị hại đưa ra hướng giải quyết. Quyền quyết định yêu cầu khởi tố hay không khởi tố theo yêu cầu của bị hại là người dưới 18 tuổi (ngoại trừ trường hợp bị hại là người mất năng lực hành vi dân sự hoặc chưa đủ 6 tuổi) vẫn phải xuất phát từ ý thức, quan điểm của bị hại và cần phải tham khảo ý kiến của họ. Bởi vì, khi người thân của bị hại là người dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra cũng chưa chắc đã bảo đảm được quyền và lợi ích tốt nhất đối với họ. Do đó, để làm rõ nội dung này, rất cần văn bản hướng dẫn cụ thể trên nguyên tắc xem xét thêm ý kiến của bị hại.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 421 Bộ luật TTHS năm 2015 và Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT quy định, khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tổ chức lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi thì NĐD được tham dự. Tuy nhiên, NĐD chưa được pháp luật quy định cho phép được tham gia hỏi khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đồng ý
[12]. Theo tác giả, đây là một điểm còn hạn chế trong kỹ thuật lập pháp. Mục đích cơ bản của hoạt động lấy lời khai bị hại nhằm thu thập các chứng cứ của vụ án đã xảy ra và chỉ có thể đạt được khi thiết lập được mối quan hệ trao đổi thông tin giữa người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và bị hại. Trong đó, sự tin tưởng là yếu tố rất quan trọng, tuy nhiên, để có được sự tin tưởng của người bị hại trong khi lấy lời khai là rất khó đối với bị hại là người dưới 18 tuổi và thường không dễ thực hiện. Bị hại còn có thể bị người khác đe dọa, khiến cho họ nảy sinh tâm lý sợ hãi và bất hợp tác; đối với người dưới 18 tuổi nói chung còn có cảm giác mặc cảm nên khai báo không đúng
[13]. Do đó, có những trường hợp khi tiến hành ghi nhận lời khai, bị hại là người dưới 18 tuổi dễ bị hoảng loạn về mặt tinh thần ảnh hưởng đến tâm lý do phải tường thuật lại cụ thể những hành vi bị bạo lực hoặc bị xâm hại tình dục hoặc phương pháp tiến hành ghi nhận lời khai của CQCTQ tiến hành tố tụng chưa thật sự phù hợp đã dẫn đến bị hại khủng hoảng tinh thần và thậm chí là có hành động tự tử
[14]. Như vậy, vai trò của NĐD lúc này là rất quan trọng và việc được tham gia hỏi là rất cần thiết. Trong thực tiễn hoạt động lấy lời khai, vẫn có trường hợp người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cho phép NĐD được tham gia hỏi nhưng không ghi nội dung này vào biên bản. Tuy nhiên, nếu chưa được quy định cụ thể NĐD có quyền này thì có được tiến hành hay không sẽ phụ thuộc vào ý chí của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
2.3. Sự tham gia tố tụng hình sự của nhà trường, tổ chức
Căn cứ vào tình hình thực tiễn giải quyết vụ án hình sự và quy định của pháp luật, CQCTQ tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án quyết định có hay không sự tham gia của đại diện nhà trường, tổ chức (thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cơ quan, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt) trong vụ án hình sự có bị hại là người dưới 18 tuổi. Khoản 3 Điều 4 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT hướng dẫn: “đại diện của nhà trường, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan phải có mặt đầy đủ và tham gia các hoạt động tố tụng theo quyết định hoặc yêu cầu của CQCTQ tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng”. Khoản 3 Điều 20 Thông tư số 43/2021/TT-BCA ngày 22/4/2021 quy định trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện một số trình tự, thủ tục TTHS thân thiện trong quá trình tiếp nhận, giải quyết, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra vụ án xâm hại người dưới 18 tuổi hướng dẫn lấy lời khai đối với người dưới 18 tuổi là bị hại như sau: “Cơ quan điều tra có thể mời đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, nhà trường hoặc cán bộ trợ giúp khác có hiểu biết về tâm lý học, có kinh nghiệm có mặt khi lấy lời khai hoặc tiến hành các hoạt động tố tụng khác đối với bị hại là người dưới 18 tuổi để hỗ trợ cho họ”. Hai văn bản dưới luật này cho thấy, đại diện nhà trường, tổ chức có thể tham gia vào hoạt động lấy lời khai đối với bị hại là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, Điều 421 Bộ luật TTHS năm 2015 lại chưa quy định nội dung này, dẫn đến có sự không phù hợp giữa văn bản luật và văn bản dưới luật.
Sự có mặt của đại diện nhà trường, tổ chức trong các hoạt động TTHS sẽ giúp cho trẻ em giảm bớt áp lực về tâm lý, tránh khai đi khai lại nhiều lần làm tăng thêm sự khủng hoảng tinh thần của bị hại. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở mức độ tham gia mà không được hỏi để hỗ trợ về tâm lý, tinh thần trong buổi ghi lời khai thì mục đích bảo vệ quyền và lợi ích cho bị hại là người dưới 18 tuổi chưa được bảo đảm trong từng vụ án cụ thể, khi áp dụng pháp luật.
3. Một số kiến nghị
Thứ nhất, bỏ quy định đại diện là người được UBND cấp xã cử giám hộ, thay bằng NĐD là người được UBND cấp xã nơi người dưới 18 tuổi cư trú cử để tham gia các hoạt động TTHS.
Tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT theo hướng: NĐD của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi được xác định theo thứ tự sau đây: cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi; người giám hộ đương nhiên; người được UBND cấp xã nơi người dưới 18 tuổi cư trú cử đại diện; người do Toà án chỉ định. Đồng thời, lược bỏ điều“54” để loại trừ trách nhiệm của người được UBND cấp xã cử làm đại diện cho người dưới 18 tuổi theo quy định tại các điều 55, 56 BLDS năm 2015. Cụ thể, khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT sửa đổi, bổ sung như sau: “Người giám hộ của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi là người giám hộ đương nhiên hoặc người được UBND cấp xã nơi người dưới 18 tuổi cư trú cử hoặc Tòa án chỉ định theo quy định tại các điều 46, 47, 48, 52 Mục 4 Chương III BLDS. Bên cạnh đó, tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Thông tư này cũng bỏ cụm từ “người giám hộ”, quy định hoàn chỉnh sẽ là: “Yêu cầu UBND cấp xã nơi người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi cư trú cử đại diện nếu họ không có người giám hộ đương nhiên”.
Kiến nghị này sẽ khắc phục được những hạn chế trong hiện tại, phù hợp với tư cách là NĐD của người dưới 18 nói chung và người dưới 18 tuổi là bị hại nói riêng trong vụ án hình sự. Đồng thời, sau khi kết thúc việc giải quyết vụ án hình sự thì tư cách đại diện của người được UBND cấp xã cử sẽ tự nhiên chấm dứt.
Thứ hai, quy định tiêu chí, đối tượng để UBND cấp xã cử NĐD cho bị hại là người dưới 18 tuổi.
Pháp luật TTHS cần quy định tiêu chí cụ thể để tạo điều kiện thuận lợi cho UBND cấp xã trong việc cử NĐD cho bị hại là người dưới 18 tuổi nói riêng và người dưới 18 tuổi nói chung khi tham gia TTHS. Hiện nay, tiêu chí này chỉ mới được quy định cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Có thể sẽ có quan điểm cho rằng, quy định này rất khó thực hiện, nhưng để tạo điều kiện tốt nhất cho người dưới 18 tuổi, cũng như bảo đảm hơn nữa quyền của người dưới 18 tuổi trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thì việc làm này là cần thiết. Do đó, tác giả kiến nghị bổ sung thêm tại điểm a khoản 1 Điều 8 Thông tư số 06/2018/TTLT hoặc một điều riêng với nội dung: “Người đại diện do UBND cấp xã cử có kiến thức pháp luật, đã được tham gia tập huấn hoặc đào tạo, bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi”.
Thứ ba, bổ sung quy định NĐD khi tham gia buổi lấy lời khai được hỏi bị hại là người dưới 18 tuổi khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đồng ý; ghi nhận nội dung đại diện nhà trường, tổ chức được tham gia lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi, được hỏi khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đồng ý trong Bộ luật TTHS năm 2015.
Bộ luật TTHS năm 2015 cho phép NĐD được tham gia hoạt động lấy lời khai bị hại là người dưới 18 tuổi nhưng chưa quy định được tham gia hỏi bị hại để hỗ trợ cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoàn thành buổi ghi lời khai nhanh chóng, tránh việc phải tổ chức ghi nhận lời khai nhiều lần có thể ảnh hưởng đến tâm lý của người dưới 18 tuổi. Tương tự như vậy, sự tham gia của đại diện nhà trường, tổ chức đối với hoạt động lấy lời khai chưa được Bộ luật TTHS năm 2015 quy định nhưng lại được cụ thể trong văn bản dưới luật. Quy định văn bản dưới luật này tốt cho bị hại là người dưới 18 tuổi và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi nói chung. Do đó, cần ghi nhận cho NĐD, nhà trường, tổ chức được tham gia hoạt động lấy lời khai và được hỏi khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đồng ý. Kiến nghị này khi được ghi nhận sẽ tạo sự thống nhất trong quy định thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Như vậy, Điều 420, Điều 421 Bộ luật TTHS năm 2015 sẽ được sửa đổi như sau:
“1. Khi lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng, hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi:
Điều 420. Việc tham gia tố tụng của NĐD, nhà trường, tổ chức
“2. NĐD của người dưới 18 tuổi,thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, tổ chứcđược tham gia việc lấy lời khai, hỏi cung, đặt câu hỏi người dưới 18 tuổi; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội người dưới 18 tuổi trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra”.
Điều 421. Lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng; hỏi cung bị can; đối chất, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo trước thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung cho người bào chữa, NĐD, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, nhà trường, tổ chức của họ.
2. …Việc lấy lời khai của người bị hại, người làm chứng phải có NĐD hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đại diện nhà trường, tổ chức khi được mời tham dự”.
Thứ tư, hướng dẫn cụ thể quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại trong trường hợp có xung đột ý kiến giữa bị hại là người dưới 18 tuổi với NĐD.
Hướng dẫn làm việc với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự năm 1997 của Hội đồng Kinh tế - xã hội Liên hợp quốc, tại phần III, mục 51, điểm c quy định:
“cho phép trẻ em là nạn nhân được trình bày các quan điểm và lo ngại của mình và cần phải được xem xét các quan điểm lo ngại đó ở mọi giai đoạn thích hợp của tiến trình tố tụng…”[15]. Do đó, CQCTQ tiến hành tố tụng cần nghiên cứu ban hành văn bản hướng dẫn về vấn đề này hoặc trước mắt bổ sung trong Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT theo hướng:
“Điều….
Đối với các vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại CQCTQ tiến hành tố tụng cần xem xét ý kiến của bị hại là người dưới 18 tuổi để quyết định khởi tố hay không khởi tố theo yêu cầu của bị hại được quy định tại Điều 155 Bộ luật TTHS”.
Đối với các vụ án khởi tố theo yêu cầu của NĐD của bị hại là người dưới 18 tuổi, CQCTQ tiến hành tố tụng cần xem xét ý kiến của người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp bị hại bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hại chưa đủ 6 tuổi. Kiến nghị này cũng phù hợp với quy định tại Điều 54 BLDS năm 2015. Trường hợp khi có xung đột ý kiến, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải tìm hiểu nguyên nhân, xác định mức độ nặng, nhẹ và sự ảnh hưởng đến người dưới 18 tuổi khi tiến hành khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, vẫn phải lấy ý kiến của bị hại là người dưới 18 tuổi là cơ sở cao nhất để quyết định./.
[1] Article 1 Convention on the right of the Child “…a child means every human being below the age of eighteen years unless under the law applicable to the child, the majority is attained earlier”.
[2] Xem: Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016.
[3] Xem: khoản 1 Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015.
[4] Lê Thị Thùy Dương, Đinh Văn Đoàn (2022),
“Bị hại là trẻ em trong các vụ án về tội phạm sử dụng bạo lực theo pháp luật TTHS Việt Nam – Tiếp cận từ một số chuẩn mực quốc tế”, Hội thảo Phòng ngừa, xử lý các hành vi sử dụng bạo lực đối với trẻ em, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 296.
[5] Xem: khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ban hành ngày 21/12/2018 quy định về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi.
[7] Xem: khoản 1 ĐIều 414 Bộ luật TTHS năm 2015.
[8] Xem các điều 46, 47, 48, 52 và 54 Mục 4 Chương III BLDS năm 2015.
[9] Xem khoản 2 Điều 420 Bộ luật TTHS năm 2015.
[10] Xem khoản 3 Điều 420 Bộ luật TTHS năm 2015.
[11] Lê Huỳnh Tấn Duy (2018),
Hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr.123.
[12] Xem khoản 3 Điều 421 Bộ luật TTHS năm 2015 và Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT.
[13] Lê Nguyên Thanh (2021),
Hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi theo pháp luật TTHS Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên”, tr. 603.
[14] Cà Mau điều tra vụ bé gái 13 tuổi tự tử do bị xâm hại nhiều lần, https://vtc.vn/ca-mau-dieu-tra-vu-be-gai-13-tuoi-tu-tu-do-bi-xam-hai-nhieu-lan-ar317357.html, truy cập ngày 20/6/2023.
[15] Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Huong-dan-lam-viec-voi-tre-em-trong-he-thong-tu-phap-hinh-su-1997-275823.aspx.