Kiến nghị hoàn thiện Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính
10/01/2025
Tóm tắt: Ngày 24/11/2015, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Bộ luật Dân sự năm 2015, trong đó ghi nhận vấn đề chuyển đổi giới tính tại Điều 37. Sự kiện này đưa Việt Nam trở thành quốc gia thứ 62 trên thế giới hợp pháp hoá chuyển đổi giới tính ở thời điểm tháng 11 năm 2015[1]. Để cụ thể hoá Điều 37 nhằm hiện thực hoá vấn đề chuyển đổi giới tính, Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính đã được xây dựng trên cơ sở Nghị quyết số 89/2023/QH15 ngày 02/6/2023 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023. Nghiên cứu Dự thảo cho thấy, vẫn còn nhiều vấn đề chưa phù hợp và còn mâu thuẫn. Bài viết này đưa ra các kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung Dự thảo, bảo đảm sự phù hợp và sự tương thích với các văn bản pháp luật khác, đặc biệt là Bộ luật Dân sự.
Từ khoá: Chuyển đổi giới tính; quyền nhân thân; Bộ luật Dân sự.
Abstract: On November 24, 2015, the 13th-tenure National Assembly passed the Civil Code of 2015, which recognized a provision on transgender in Article 37. This marked Vietnam as the 62nd country in the world of legalization of transgender in November 2015. To concretize Article 37 to realize the matter of transgender, the Bill of Law on Transgender has been developed on the ground of the Resolution No. 89/2023/QH15 dated June 2, 2023 of the National Assembly on the Law and Ordinance making Program in 2024 with amendment of the Law and Ordinance making Program in 2023. Reviews of the Bill of Law shows that there are still several inappropriate and contradictory concerns. This article provides a number of recommendations for further improvement of the Bill of Law, helping the assurance of conformity and compatibility with other legal documents, especially the Civil Code.
Keywords: Transgender; right to personal identity; the Civil Code.

Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Kiến nghị hoàn thiện Chương 1 của Dự thảo
1.1. Kiến nghị hoàn thiện Điều 3 Dự thảo
Thứ nhất, về khái niệm “chuyển đổi giới tính”.
Khoản 1 Điều 3 Dự thảo đưa ra khái niệm như sau: Chuyển đổi giới tính là việc một người chuyển từ giới tính khi sinh là nam hoặc nữ thành nữ hoặc nam và ngược lại theo quy định của Luật này. Trong khái niệm này, có một số vấn đề cần được cân nhắc như sau:
Một là, giới tính được chuyển đổi là “giới tính khi sinh” sẽ không bao quát được đầy đủ mọi trường hợp. Bởi vì có thể người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính đã thực hiện việc xác định lại giới tính, nên giới tính ở thời điểm họ đề nghị can thiệp y khoa có thể đã khác với giới tính khi sinh. Do đó, nên cân nhắc đến hai từ “khi sinh” theo một trong hai phương án:
Phương án 1: thay hai từ “khi sinh” bằng hai từ “hiện tại”.
Phương án 2: lược bỏ hai từ “khi sinh”.
Hai là, việc sử dụng cụm từ “và ngược lại” trong khái niệm là không cần thiết, bởi vì cụm từ “nam hoặc nữ thành nữ hoặc nam” đã bao gồm trong đó cả cụ từ “và ngược lại”. Nếu muốn giữ nguyên cụm từ “và ngược lại” thì cần thay cụm từ “nam hoặc nữ thành nữ hoặc nam” bằng một trong hai cụm từ “nam thành nữ” hoặc “nữ thành nam”.
Ba là, đoạn cuối của khái niệm có đoạn “theo quy định của Luật này”, theo đó việc chuyển đổi giới tính chỉ được thực hiện theo quy định của Luật Chuyển đổi giới tính. Trong khi đó, các vấn đề liên quan đến việc chuyển đổi giới tính sẽ được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau, ngay trong các quy định của Dự thảo cũng đề cập đến Bộ luật Dân sự (BLDS), hoặc để xác định cá nhân đề nghị can thiệp y khoa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự như khoản 2 Điều 10 hay không thì phải dựa vào quy định của BLDS mà không thể dựa vào Luật Chuyển đổi giới tính. Để khắc phục điều này, có hai phương án như sau:
Phương án 1: bỏ cụm từ “theo quy định của Luật này”.
Phương án 2: thêm cụm từ “và luật khác có liên quan” vào cuối khái niệm.
Thứ hai, về khái niệm “bản dạng giới” tại khoản 2 Điều 3 Dự thảo.
Trong khái niệm này cũng có cụm từ “giới tính khi sinh” nên cũng không phù hợp như đã phân tích ở khái niệm “chuyển đổi giới tính” nói trên, bởi người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính có thể đã xác định lại giới tính và giới tính sau khi xác định lại trái ngược với giới tính khi sinh của họ. Để khắc phục vấn đề này, cần thay thế cụm từ “giới tính khi sinh” bằng cụm từ “giới tính hiện có”.
Thứ ba, về khái niệm “giới tính khi sinh”.
Khoản 4 Điều 3 Dự thảo đưa ra khái niệm như sau: Giới tính khi sinh là giới tính nam hoặc nữ, được xác định cho một cá nhân ở thời điểm được sinh ra, chủ yếu dựa trên đặc điểm bộ phận sinh dục ngoài của cá nhân đó. Theo khái niệm này, giới tính của cá nhân ở thời điểm được sinh ra sẽ được xác định là nam hoặc nữ. Tuy nhiên, theo quy định tại mục 11 của Phụ lục 04 ban hành kèm theo Thông tư số 17/2012/TT-BYT ngày 24/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế về quy định cấp và sử dụng giấy chứng sinh thì trường hợp trẻ em được sinh ra mà có dị tật, không rõ là nam hay nữ thì ghi là không xác định. Do đó, khái niệm về giới tính khi sinh cần phải được xem xét để điều chỉnh cho phù hợp. Theo những phân tích ở trên thì giới tính khi sinh ra có thể sẽ khác với giới tính tại thời điểm cá nhân đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính. Hơn nữa, theo Điều 10 Dự thảo này thì cá nhân phải đủ 18 tuổi mới có thể đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính. Do đó, cần ghi nhận về giới tính tại thời điểm đề nghị can thiệp y khoa thay vì đưa ra khái niệm “giới tính khi sinh”.
Thứ tư, về khái niệm “người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính”.
Khoản 5 Điều 3 Dự thảo đưa ra khái niệm như sau: “Người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính là người đề nghị bệnh viện thực hiện can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính”. Nội hàm của khái niệm này chưa rõ ràng, và dựa vào khái niệm này sẽ chưa thể xác định cụ thể người đề nghị can thiệp y khoa là ai. Liệu rằng, nếu người đó không tự mình nộp hồ sơ đề nghị can thiệp y khoa mà do người khác nộp hộ thì ai sẽ là người yêu cầu? Do đó, cần thay cách định nghĩa hiện tại bằng một cách định nghĩa khác. Ví dụ như “Người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính là người có mong muốn được chuyển đổi giới tính hiện tại sang giới tính khác”.
Thứ năm, về khái niệm “bệnh viện được phép can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính”.
Trong Dự thảo không đưa ra khái niệm “bệnh viện được phép can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính”, song khái niệm “bệnh viện được phép can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính” sẽ khác với khái niệm “bệnh viện được phép can thiệp y khoa” nói chung. Tuy nhiên, các cụm từ này lại được sử dụng lẫn lộn, thay thế cho nhau. Ví dụ, khoản 11 Điều 3 Dự thảo viết “bệnh viện được phép can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính”, nhưng khoản 12 Điều 3 Dự thảo lại viết “bệnh viện được phép can thiệp y khoa”.
1.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định khác trong Chương 1
Thứ nhất, khoản 8 Điều 5 Dự thảo đặt ra một trong các hành vi bị nghiêm cấm đó là “Tiết lộ thông tin, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người chuyển đổi giới tính, người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính, người đã can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính mà không có sự đồng ý của họ”. Tuy nhiên, quy định này không cần thiết bởi vì quy định về “Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình” tại Điều 38 BLDS năm 2015 đã bao quát được mọi trường hợp, trong đó bao gồm cả trường hợp cá nhân đã thực hiện việc chuyển đổi giới tính.
Thứ hai, khoản 1 Điều 6 Dự thảo đưa ra nguyên tắc chuyển đổi giới tính là “Người đã chuyển đổi giới tính có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được công nhận theo quy định của BLDS và luật khác có liên quan”. Tuy nhiên, nội dung nguyên tắc này trùng lặp với nội dung tương tự tại Điều 37 BLDS năm 2015 nên việc thiết kế nguyên tắc này là không cần thiết.
Thứ ba, khoản 6 Điều 7 Dự thảo ghi nhận quyền của công dân trong chuyển đổi giới tính là “Có đầy đủ quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được công nhận theo quy định của BLDS và pháp luật có liên quan”. Tuy nhiên, quy định này trùng lặp với khoản 1 Điều 6 Dự thảo và nội dung tương ứng tại Điều 37 BLDS năm 2015 nên không cần thiết.
Thứ tư, khoản 7 Điều 7 Dự thảo quy định về quyền “Được giữ nguyên quan hệ cha, mẹ, con cũng như quyền và nghĩa vụ từ quan hệ hôn nhân gia đình trước khi chuyển đổi giới tính bao gồm cả việc nhận nuôi con nuôi”. Tuy nhiên, nội dung này gần như trùng lặp với nội dung của khoản 2 Điều 6 Dự thảo nên cần cân nhắc lược bớt một trong hai quy định nhằm tránh trùng lặp.
Thứ năm, câu đầu tiên của khoản 9 Điều 7 Dự thảo ghi nhận rằng “Được bảo đảm quyền tài sản đối với tài sản tạo lập trước khi chuyển đổi giới tính”. Trong câu này thừa hai từ “tài sản” ở vị trí đầu tiên. Đồng thời ở câu thứ hai của khoản 9 Điều 7 Dự thảo ghi nhận rằng “Trường hợp trên giấy chứng nhận quyền tài sản có thông tin giới tính thì cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền tài sản có nghĩa vụ điều chỉnh thông tin theo giới tính đã được công nhận”. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 7 Dự thảo, việc thay đổi thông tin giới tính trên các giấy tờ có liên quan là quyền của người chuyển đổi giới tính nên khi họ thực hiện quyền này thì cơ quan có thẩm quyền mới có thể điều chỉnh thông tin. Chính vì vậy, cần thêm câu “nếu người chuyển đổi giới tính có yêu cầu thay đổi” vào cuối khoản 9 Điều 7 Dự thảo để bảo đảm sự tương thích với các quy định khác.
Thứ sáu, khoản 10 Điều 7 quy định về quyền “Được tham gia các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao theo quy định của pháp luật phù hợp với giới tính nam hoặc nữ”. Tuy nhiên, trong các khoản khác của Điều 7 và các điều khác của Dự thảo đều sử dụng cụm từ “giới tính đã được công nhận”. Do đó, để bảo đảm sự thống nhất giữa các khoản trong Điều 7 và các điều khác trong Dự thảo thì cần thay cụm từ “giới tính nam hoặc nữ” thành “giới tính đã được công nhận” tại khoản 10 Điều 7 Dự thảo.
Thứ bảy, nội dung khoản 6 Điều 8 ghi nhận nghĩa vụ “Cam kết thực hiện các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo giới tính đã được chuyển đổi”. Nội dung này vừa trùng lặp với khoản 1 vừa không minh thị với cụm từ “thực hiện các quyền con người”. Hơn nữa, tên của Điều 8 là “nghĩa vụ ...”, song nội dung khoản 6 lại ghi nhận “nghĩa vụ thực hiện quyền” là không phù hợp, bởi vì nếu là quyền thì có thể thực hiện hoặc không.
2. Kiến nghị hoàn thiện Chương 2 của Dự thảo
Thứ nhất, tên gọi Chương 2 nên đặt lại để tránh rườm rà. Ví dụ, có thể đặt tên là “Can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính”.
Thứ hai, về các phương pháp can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính.
Theo Điều 9, việc can thiệp y khoa theo phương pháp nào là do người có mong muốn chuyển đổi giới tính lựa chọn. Đồng thời cũng theo quy định này thì việc phẫu thuật cơ quan sinh dục là không bắt buộc. Tuy nhiên, nói đến “giới tính” là nói đến những biểu lộ sinh học đặc trưng của một người (như nhiễm sắc thể, tuyến sinh dục, các bộ phận sinh dục trong và ngoài) là nam hay nữ
[2]. Giới tính thể hiện những đặc điểm sinh học của nam và nữ, có tính chất bẩm sinh, tự nhiên, sinh thành, biến đổi tuân theo quy luật sinh học, gắn liền với cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết đi
[3]. Như vậy, để xác định giới tính của một người có thể phải dựa vào nhiều đặc điểm như nhiễm sắc thể, bộ phận sinh dục. Thời điểm xác định giới tính của một người là thời điểm cấp giấy chứng sinh
[4]. Theo khoản 1 Điều 2 Thông tư số 17/2012/TT-BYT ngày 24/10/2012 của Bộ Y tế về quy định cấp và sử dụng giấy chứng sinh, thẩm quyền cấp giấy chứng sinh thuộc về: Bệnh viện đa khoa có khoa sản; Bệnh viện chuyên khoa phụ sản, Bệnh viện sản - nhi; Nhà hộ sinh; Trạm y tế cấp xã; Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hợp pháp khác được phép cung cấp dịch vụ đỡ đẻ. Một thực tế từ trước đến nay là khi trẻ mới được sinh ra, chúng ta thường chỉ dựa vào bộ phận sinh dục để xác định giới tính của trẻ (trừ khi trẻ được sinh ra mà có khuyết tật bẩm sinh về giới tính thì cần thông qua thủ tục xác định lại giới tính theo quy định của pháp luật). Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định số 88/2008/NĐ-CP ngày 05/8/2008 của Chính phủ về Xác định lại giới tính: “
Khuyết tật bẩm sinh về giới tính là những bất thường ở bộ phận sinh dục của một người ngay từ khi mới sinh ra, biểu hiện ở một trong các dạng như nữ lưỡng giới giả nam, nam lưỡng giới giả nữ hoặc lưỡng giới thật”. Như vậy, nếu trẻ được sinh ra mà không có bất thường ở bộ phận sinh dục thì mặc nhiên được hiểu là không có khuyết tật bẩm sinh về giới tính và có thể xác định chính xác giới tính của trẻ là nam hay nữ trên cơ sở bộ phận sinh dục đã hoàn thiện.
Ngay cả khoản 4 Điều 3 Dự thảo cũng ghi nhận quy định về “giới tính khi sinh” theo hướng coi bộ phận sinh dục ngoài của cá nhân là yếu tố quan trọng để xác định giới tính của cá nhân. Chính vì vậy, muốn thay đổi giới tính thì phải thay đổi bộ phận sinh dục nhằm bảo rằng bộ phận sinh dục ngoài phải tương ứng với giới tính của cá nhân. Do đó, cần coi việc phẫu thuật cơ quan sinh dục là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với cá nhân muốn chuyển đổi giới tính.
Thứ ba, về điều kiện đối với người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính.
Một là, việc quy định công dân Việt Nam là “nam hoặc nữ” là không cần thiết, bởi vì theo quy định tại Phụ lục 4 ban hành kèm theo Thông tư số 17/2012/TT-BYT ngày 24/10/2012 của Bộ Y tế về quy định cấp và sử dụng giấy chứng sinh, thẩm quyền cấp giấy chứng sinh thì giới tính được ghi nhận đối với trẻ em được sinh ra cũng chỉ có thể là nam hoặc nữ. Hơn nữa, khoản 1 Điều 3 Dự thảo cũng đã khẳng định chuyển đổi giới tính từ nam hoặc nữ sang nữ hoặc nam, và khoản 4 Điều 3 cũng xác định giới tính khi sinh là nam hoặc nữ. Chính vì vậy, cần lược bỏ cụm từ “là nam hoặc nữ” tại khoản 1 Điều 10 Dự thảo.
Hai là, việc quy định điều kiện đối với người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính là phải từ đủ 18 tuổi trở lên tại khoản 1 Điều 10 cũng không cần thiết. Bởi vì, để cá nhân đạt được điều kiện “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” thì cá nhân đã phải đủ 18 tuổi trở lên
[5]. Do đó, điều kiện “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” tại khoản 2 Điều 10 Dự thảo đã bao gồm cả điều kiện “đủ 18 tuổi trở lên” tại khoản 1 Điều 10 Dự thảo.
Ba là, các điều kiện đặt ra đối với người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính tại Điều 10 Dự thảo còn quá sơ sài. Nếu theo các điều kiện này thì bất cứ cá nhân nào cũng có thể đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính. Trong khi đó, liên quan đến vấn đề chuyển đổi giới tính tại Điều 37 BLDS năm 2015, có ý kiến cho rằng “
chuyển đổi giới tính không phải là nhu cầu và cũng không phải là quyền của tất cả mọi người mà chỉ dành cho những người thoả mãn những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật”
[6]. Mặc dù cũng có ý kiến cho rằng, chuyển đổi giới tính là quyền nhân thân của cá nhân
[7], song khi thực hiện các quyền này, cá nhân phải có đủ các điều kiện nếu pháp luật có liên quan có quy định về việc thực hiện quyền đó
[8]. Những điều kiện được ghi nhận tại Điều 10 Dự thảo mới chỉ là những điều kiện chung chung mà chưa phải là những điều kiện gắn với vấn đề chuyển đổi giới tính. Có những điều kiện quan trọng chưa được đề cập đến như:
(i) Người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính phải là người có giới tính sinh học hoàn thiện, tức là đã xác định được rõ giới tính của họ là nam hoặc nữ dựa trên sự hoàn chỉnh về cả nhiễm sắc thể, bộ phận sinh dục trong và ngoài. Trường hợp giới tính sinh học của một người có khuyết tật bẩm sinh hoặc giới tính chưa được định hình chính xác thì cá nhân thực hiện việc xác định lại giới tính theo quy định tại Điều 36 BLDS năm 2015 và Nghị định số 88/2008/NĐ-CP về xác định lại giới tính mà không thực hiện việc chuyển đổi giới tính
[9].
(ii) Người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính phải có bản dạng giới khác biệt với giới tính sinh học của họ. Đây là trường hợp cá nhân nhận diện mình là nam nhưng những biểu hiện trên cơ thể lại là nữ và ngược lại. Đây là điều kiện bắt buộc đối với người đề nghị chuyển đổi giới tính trong pháp luật về chuyển đổi giới tính của hầu hết các quốc gia cho phép cá nhân được chuyển đổi giới tính. Đó là yêu cầu mang tính quyết định của việc chuyển đổi giới tính. Việc quy định điều này là rất cần thiết và phù hợp với thực tiễn điều chỉnh pháp luật về chuyển đổi giới tính, cũng như tránh tình trạng lạm dụng việc chuyển đổi giới tính
[10].
(iii) Người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính phải có đủ sức khoẻ để thực hiện các phương pháp can thiệp y khoa. Đây cũng là một điều kiện quan trọng cần phải được ghi nhận, bởi vì việc sử dụng các phương pháp can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ của cá nhân đề nghị can thiệp y khoa. Do đó, chỉ khi cá nhân có đủ sức khoẻ và không chống chỉ định sử dụng nội tiết tố sinh dục, không chống chỉ định phẫu thuật tuyến vú và cơ quan sinh dục mới có thể tiến hành can thiệp y khoa. Việc không ghi nhận điều kiện này có thể dẫn đến việc xâm phạm quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể được ghi nhận tại Điều 33 BLDS năm 2015 khi tiến hành can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính.
Thứ ba, về hồ sơ, thủ tục đối với người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính.
Theo điểm a khoản 1 Điều 11 Dự thảo, đơn đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính phải ghi thông tin về “nơi thường trú”. Tuy nhiên, cả BLDS năm 2015 và Luật Cư trú năm 2020 đều ghi nhận chung về nơi cư trú của cá nhân mà trong đó có thể là nơi thường trú, nơi tạm trú hoặc nơi ở hiện tại. Hơn nữa, theo khoản 2 Điều 11 Luật Cư trú năm 2020 thì có thể có trường hợp không xác định được nơi thường trú của công dân. Do đó, cần thay đổi cụm từ “nơi thường trú” thành “nơi cư trú” để bảo đảm sự thống nhất với các luật khác có liên quan.
3. Kiến nghị hoàn thiện Chương 3 của Dự thảo
Thứ nhất, về Giấy xác nhận đã can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính.
Khoản 1 Điều 16 Dự thảo xác định một trong các nội dung của Giấy xác nhận đã can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính là “giới tính sau khi can thiệp y khoa” tại điểm c. Tuy nhiên, Giấy xác nhận đã can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính không phải là một giấy tờ để công nhận giới tính mới của cá nhân chuyển đổi giới tính. Giấy công nhận giới tính mới là giấy tờ ghi nhận giới tính mới sau khi đã can thiệp y khoa. Do đó, việc xác định nội dung về “giới tính sau khi can thiệp y khoa” tại điểm c khoản 1 Điều 16 là không phù hợp, cần lược bỏ.
Thứ hai, về việc cấp lại Giấy xác nhận đã can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính.
Khoản 5 Điều 21 Dự thảo quy định về cấp lại Giấy xác nhận đã can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính. Tuy nhiên, người nộp đơn yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận đã can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính lại là “người đề nghị cấp lại giấy phép hành nghề” mà không phải là “người đã can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính”. Đây là một sai sót về kỹ thuật cần phải được chỉnh sửa để bảo đảm sự đúng đắn của quy định.
Thứ ba, về tính logic của các quy định về Giấy xác nhận đã can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính.
Trong Chương 3 Dự thảo, Giấy xác nhận đã can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính được ghi nhận tại Điều 16 và Điều 21. Tuy nhiên, việc thiết kế các quy định về Giấy xác nhận đã can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính ở các điều khác nhau như hiện tại là không phù hợp, thiếu tính liên kết. Để bảo đảm sự phù hợp và logic, cần ghép khoản 4 và khoản 5 Điều 21 với Điều 16, đồng thời chuyển điều luật sau khi được ghép xuống thứ tự sau cùng của Chương 3.
4. Kiến nghị hoàn thiện Chương 4 của Dự thảo
Hồ sơ đề nghị công nhận giới tính nam hoặc nữ phải có các giấy tờ sau: Bản sao căn cước công dân, thẻ căn cước công dân hoặc hộ chiếu (điểm b); Lý lịch tư pháp (điểm c); Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là độc thân (điểm d). Đây là những giấy tờ chứng minh các điều kiện bắt buộc đối với người đề nghị can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính. Tuy nhiên, các điều kiện này đã đặt ra ngay tại thời điểm họ nộp hồ sơ đề nghị thực hiện can thiệp y khoa theo quy định tại Điều 11 Dự thảo. Khi họ đã được cấp Giấy chứng nhận can thiệp y khoa để chuyển đổi giới tính theo Điều 16 Dự thảo tức là họ đã có đầy đủ giấy tờ để chứng minh họ đáp ứng các điều kiện. Do đó, hồ sơ đề nghị công nhận giới tính nam hoặc nữ lại tiếp tục yêu cầu cung cấp các loại giấy tờ này là không cần thiết, gây phiền hà cho người chuyển đổi giới tính.
5. Kiến nghị đối với Chương 5 của Dự thảo
Theo điểm b khoản 2 Điều 68 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì “các chương trong văn bản phải có nội dung tương đối độc lập và có tính hệ thống, lô gích với nhau”. Trong khi đó nội dung của Chương 5 Dự thảo tương đối ngắn và không có sự độc lập với các chương khác để có thể thiết kế thành một chương riêng, đặc biệt Điều 25 của Chương 5 hoàn toàn dẫn chiếu tới Điều 22 và 23 Chương 4. Do đó, nội dung Chương 5 nên được ghép vào các chương khác tương ứng, cụ thể:
Điều 24 nên được chuyển lên Chương 3 và thiết kế thành một hoặc một số khoản tương ứng trong Điều 16 hoặc thiết kế thành một điều riêng biệt đặt sau Điều 16 hoặc sau Điều 21.
Điều 25 sẽ chuyển lên Chương 4 và đặt sau Điều 23./.
[1] Xem thêm tại website: https://www.xaydungdang.org.vn/nhan-quyen-va-cuoc-song/co-so-xay-dung-luat-bao-ve-nguoi-chuyen-gioi-o-viet-nam-17454.
[2] Nguyễn Minh Tuấn (2017),
Chuyển đổi giới tính cho người bị đau khổ về giới, bài viết trong Kỷ yếu Hội thảo “Góp ý dự án Luật chuyển đổi giới tính”, Trung ương Hội Luật gia Việt Nam và Vụ Pháp chế - Bộ Y tế phối hợp tổ chức ngày 29/12/2017.
[3] Trường Đại học Luật Hà Nội (2013),
Tập bài giảng Luật Bình đẳng giới, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 5.
[4] Theo quy định tại Phụ lục số 04 ban hành kèm theo Thông tư số 17/2012/TT-BYT ngày 24/10/ 2012 của Bộ Y tế về quy định cấp và sử dụng giấy chứng sinh. Phụ lục này hướng dẫn cách ghi giấy chứng sinh, trong đó một trong những nội dung phải ghi trong giấy chứng sinh đó là giới tính của trẻ.
[5] Xem thêm: Điều 21 BLDS năm 2015.
[6] Đây là ý kiến tác giả tiếp thu được thông qua một số buổi hội thảo và tọa đàm khoa học, trong đó có Tọa đàm khoa học “
Trao đổi các nội dung mới của BLDS năm 2015 với các thành viên tổ biên tập” của Khoa Pháp luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, tổ chức ngày 04, 05/01/2017. Những ý kiến này được thể hiện khi thảo luận trực tiếp nên ở đây chỉ mô tả lại mà không thể dẫn nguồn.
[7] Xem thêm: Lê Thị Giang,
Quyền chuyển đổi giới tính – quyền nhân thân trong BLDS năm 2015, Tạp chí Kiểm sát, số 14/2016, tr. 38-44.
[8] Xem thêm: Nguyễn Văn Hợi (chủ biên, 2020),
Hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi giới tính ở Việt Nam, sách chuyên khảo, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 38.
[9] Xem thêm: Nguyễn Văn Hợi (chủ biên, 2020),
tlđd, tr. 164-165.
[10] Xem thêm: Nguyễn Văn Hợi (chủ biên, 2020),
tlđd, tr. 166-167.