Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam người dưới 18 tuổi: kinh nghiệm Liên bang Nga và gợi mở cho Việt Nam

01/01/2025

Tóm tắt: Bài viết trình bày, so sánh một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Liên bang Nga về biện pháp tạm giam người dưới 18 tuổi được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; qua đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Từ khóa: Tạm giam; người dưới 18 tuổi; vụ án hình sự; pháp luật tố tụng hình sự; Liên bang Nga.
Abstract: This article provides discussions and comparison of a number of provisions of the legal regulations on the criminal procedure of Vietnam and the one in law of the Russian Federation on taking into custody measure for persons under the age of 18, which are applied in the process of resolving criminal cases. Thereby, it is to propose a number of recommendations to further improve the criminal procedure law of Vietnam.
Keywwords: Taking into custody measure; persons under the age of 18; criminal case; criminal procedure; the Russian Federation.
 5_88.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi[1] tại thời điểm thực hiện tội phạm, hành vi của họ xâm hại đến các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội phạm theo phân hóa độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, cũng như thỏa mãn điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự, tức là không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 13 BLHS năm 2015. Đây là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm – sinh lý, trình độ nhận thức, kinh nghiệm sống cũng còn hạn chế. Vì vậy, quy định về thủ tục tố tụng nói chung và áp dụng biện pháp ngăn chặn nói riêng đối với người dưới 18 tuổi có những khác biệt so với với nhóm chủ thể là người đã thành niên.
Qua nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 về biện pháp ngăn chặn nhận thấy, tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn quan trọng và nghiêm khắc nhất được quy định trong BLTTHS[2]. Việc áp dụng biện pháp tạm giam (BPTG) luôn gắn liền với những hạn chế về quyền, lợi ích hợp pháp của công dân như: quyền tự do đi lại và cư trú,… Đây là những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận và bảo đảm trong Hiến pháp[3]. Do đó, không phải trường hợp nào, tội phạm nào cũng áp dụng BPTG, phải thận trọng và hạn chế áp dụng[4]. Chính vì vậy, việc áp dụng BPTG đối với người dưới 18 tuổi được quy định trong phần thủ tục đặc biệt (Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi), cụ thể là tại Điều 419 Chương XXVIII BLTTHS năm 2015.
1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi
Theo BLTTHS năm 2015, tạm giam là biện pháp ngăn chặn do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật trong những trường hợp luật định nhằm ngăn chặn tội phạm, hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án[5]. Đáp ứng đúng yêu cầu của Đảng và Nhà nước,BLTTHS năm 2015 đã có nhiều quy định cụ thể hơn nhằm bảo đảm tạm giam chỉ được áp dụng trong những trường hợp thật cần thiết, đúng đối tượng, đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục. Cụ thể: Điều 119 BLTTHS năm 2015 xác định về căn cứ, đối tượng, thẩm quyền áp dụng BPTG; những vấn đề liên quan đến việc áp dụng BPTG trong từng giai đoạn tố tụng và thời hạn áp dụng cụ thể được quy định tại các điều 173, 241, 278, 329, 347 BLTTHS năm 2015.
Do những đặc điểm về tâm lý và thể chất chưa hoàn thiện của người dưới 18 tuổi, nên việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc như tạm giam đã được luật quy định một cách thận trọng, phù hợp tại Điều 419 BLTTHS năm 2015. Cụ thể là:
Thứ nhất, căn cứ tạm giam
Trên cơ sở kế thừa quy định BLTTHS năm 2003[6], Điều 419 BLTTHS năm 2015 quy định: Chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặnđối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết; chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả”. Điều này được hướng dẫn chi tiết bởi khoản 2 Điều 12 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi (Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT). Theo đó, BPTG chỉ áp dụng trong trường hợp người dưới 18 tuổi đã được áp dụng biện pháp giám sát, biện pháp ngăn chặn khác nhưng bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã, có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, có dấu hiệu tiếp tục phạm tội hoặc có các hành vi khác quy định tại khoản 2 Điều 418 BLTTHS năm 2015. Như vậy, BPTG được coi là biện pháp cuối cùng được áp dụng và chỉ áp dụng khi có căn cứ cho rằng, việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. Quy định này xuất phát từ việc người dưới 18 tuổi nếu bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn mang tính chất giam, giữ thì những ảnh hưởng của các biện pháp này nghiêm trọng hơn so với người thành niên.
Bên cạnh đó, để phù hợp với quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015 quy định các căn cứ tạm giam người dưới 18 tuổi phân hóa theo hai nhóm tuổi: người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và đồng thời dựa trên quy định tại Điều 119.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thể áp dụng BPTG về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại 22 tội danh theo khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ có thể áp dụng BPTG về tội phạm nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng nếu có căn cứ quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS năm 2015. Ngoài ra, bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm thì có thể tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
Thứ hai, thẩm quyền áp dụng BPTG
Thẩm quyền tạm giam được quy định tại khoản 5 Điều 119 BLTTHS năm 2015 xác định những người có thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bao gồm cả bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi (quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015). Theo đó, những người có có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam, gồm có: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Thứ ba, thời hạn tạm giam
Thời hạn tạm giam được xác định theo từng loại tội phạm mà bị can, bị cáo bị khởi tố và thời hạn các giai đoạn tố tụng tương ứng như: điều tra (Điều 173), truy tố (Điều 241), chuẩn bị xét xử sơ thẩm (Điều 278), sau khi tuyên án (Điều 329), xét xử phúc thẩm (Điều 347). So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã quy định theo hướng rút ngắn thời hạn tạm giam để điều tra[7] là rất phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 đề cao quyền con người, quyền công dân và cũng rất phù hợp với xu thế của các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới[8]. Còn thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi cũng được rút ngắn bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại BLTTHS[9]. Điều này phù hợp với Nguyên tắc “Các thời gian tạm giam trước khi xét xử cần được pháp luật giới hạn và phải được xem xét thường xuyên” trong Bình luận chung số 24 về tư pháp người chưa thành niên (NCTN) của Liên hợp quốc[10]
Thứ tư, thủ tục áp dụng BPTG
Khoản 6 Điều 119 BLTTHS năm 2015 quy định: “Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết. Đối với tạm giam người dưới 18 tuổi thì luật quy định chặt chẽ hơn: Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi tạm giam người dưới 18 tuổi phải thông báo cho người đại diện của họ biết” (khoản 5 Điều 419 BLTTHS năm 2015). Ngoài ra, theo Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT thì việc thông báo phải bằng văn bản, trong đó phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, điện thoại liên lạc của người ra thông báo và người được thông báo. Trường hợp cần bảo đảm sự có mặt kịp thời của người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể thông báo trực tiếp, qua điện thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi thông báo bằng văn bản[11]. Người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi khi nhận được thông báo phải thông tin kịp thời về việc có mặt và tham gia tố tụng của họ cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng biết[12]. Khi không còn căn cứ để tạm giữ, tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác (Điều 419 BLTTHS năm 2015).
2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga về biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi
BLTTHS Liên bang Nga năm 2001[13] được Đuma quốc gia thông qua ngày 22/11/2001 và được Hội đồng Liên bang Nga phê chuẩn ngày 05/12/2001, đồng thời cũng qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, cho tới nay lần sửa đổi gần nhất là vào ngày 29/5/2024, có hiệu lực từ ngày 01/7/2024.
Qua nghiên cứu quy định về tạm giam NCTN (người dưới 18 tuổi) tại BLTTHS Liên bang Nga, tác giả nhận thấy một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, đối tượng tạm giam
 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga quy định: Đối tượng áp dụng BPTG bao gồm người bị tình nghi hoặc bị can về tội mà Luật Hình sự quy định có mức hình phạt tù trên 03 năm trong trường hợp không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn. Trong những trường hợp đặc biệt, biện pháp ngăn chặn này có thể được áp dụng đối với người bị tình nghi, bị can về tội mà tội phạm này được quy định trong Luật Hình sự có mức phạt tù đến 03 năm nếu có một trong các tình tiết sau: 1) Không có nơi cư trú thường xuyên trên lãnh thổ Liên bang Nga; 2) Không xác định được chính xác nhân thân của họ; 3) Họ đã vi phạm biện pháp ngăn chặn khác đã được áp dụng với họ trước đó; 4) Họ đã trốn tránh cơ quan điều tra hoặc Tòa án[[14]. Trong đó:
Người bị tình nghi là người đã bị khởi tố vụ án hình sự theo những căn cứ và theo thủ tục quy định tại Mục 20 BLTTHS; bị bắt giữ theo quy định tại Điều 91 và Điều 92 BLTTHS; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trước khi khởi tố bị can theo quy định tại Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga[15].
Bị can là người bị tống đạt quyết định khởi tố bị can hoặc bị tống đạt bản cáo trạng. Khi bị can bị đưa ra xét xử được gọi là bị cáo[16].
Theo khoản 2 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga, BPTG áp dụng đối với NCTN là người bị tình nghi hoặc bị can là NCTN. Đó là người đã bị khởi tố vụ án hình sự theo những căn cứ và theo thủ tục quy định tại Mục 20 BLTTHS; bị bắt giữ theo quy định tại Điều 91 và Điều 92 BLTTHS; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trước khi khởi tố bị can theo quy định tại Điều 108BLTTHS Liên bang Nga hoặc bị tống đạt quyết định khởi tố bị can hoặc bị tống đạt bản cáo trạng, trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi.
Thứ hai, căn cứ tạm giam
Căn cứ để áp dụng BPTG là điều kiện để lựa chọn áp dụng BPTG đối với NCTN. Cơ sở để lựa chọn áp dụng biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 97 BLTTHS Liên bang Nga đối với cả người đã thành niên và NCTN nếu có căn cứ cho rằng: 1) Trốn tránh việc điều tra ban đầu, điều tra dự thẩm hoặc xét xử; 2) Có thể tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; 3) Có thể đe dọa người làm chứng, những người khác tham gia tố tụng hình sự, tiêu hủy chứng cứ, cũng như có những hành vi khác cản trở hoạt động tố tụng đối với vụ án. Những biện pháp ngăn chặn đó bao gồm cả BPTG[17]. Ngoài ra, việc áp dụng BPTG đối với NCTN cũng phải bảo đảm căn cứ tạm giam được quy định tại khoản 1 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga. Trong trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam thì trong quyết định cần nêu rõ những tình tiết cụ thể mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để ra quyết định này.
Ngoài ra, khi áp dụng BPTG đối với NCTN, khoản 2 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga Nga quy định: Việc áp dụng BPTG đối với NCTN chỉ có thể được áp dụng trong trường hợp họ bị khởi tố về việc thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong những trường hợp đặc biệt, biện pháp ngăn chặn này có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo là NCTN phạm tội nghiêm trọng[18].
Theo đó, khi áp dụng BPTG đối với NCTN cần xác định đây là biện pháp nghiêm khắc, cần phải cân nhắc khi không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn. Đối với NCTN là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, chưa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, vì vậy, chỉ áp dụng BPTG đối với NCTN trong trường hợp họ bị khởi tố về việc thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc trong những trường hợp đặc biệt là tội phạm nghiêm trọng.
Đối chiếu với Điều 15 BLHS Liên bang Nga về phân loại tội phạm thì: Tội phạm nghiêm trọng là hành vi cố ý, mà mức hình phạt tối đa do Bộ luật này quy định không quá năm năm tù và các hành vi vô ý mà mức hình phạt cao nhất do Bộ luật này quy định không quá mười năm tù[19]. Tội phạm rất nghiêm trọng là hành vi cố ý mà mức hình phạt tối đa do Bộ luật này quy định không quá mười năm tù và hành vi vô ý mà mức hình phạt tối đa do Bộ luật này quy định không quá mười lăm năm năm tù[20]. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là hành vi cố ý mà mức hình phạt tối đa do Bộ luật này quy định từ trên mười năm tù trở lên[21].
Như vậy, BPTG nói chung và đối với NCTN nói riêng là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc, thường hạn chế áp dụng và chỉ áp dụng trong những trường hợp không thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn, hoặc trong các trường hợp đối tượng tạm giam không có nơi cư trú thường xuyên trên lãnh thổ Liên bang Nga, không xác định được nhân thân của họ, họ đã vi phạm biện pháp ngăn chặn khác đã được áp dụng trước đó, họ trốn tránh cơ quan điều tra và Tòa án. Đối với NCTN, chỉ áp dụng BPTG khi thỏa mãn căn cứ kể trên và họ bị khởi tố về tội phạm từ nghiêm trọng trở lên đến rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng hay nói cách khác là những tội phạm mà Luật Hình sự quy định có mức hình phạt tù trên 03 năm trở lên. Có thể nói, căn cứ tạm giam NCTN thể hiện sự cân nhắc nhiều hơn so với nhóm đối tượng người đã thành niên vì đây là nhóm cần được tạo điều kiện cho phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần theo quy định của pháp luật quốc tế. 
Tóm lại, ở Liên bang Nga, việc tạm giam NCTN được áp dụng theo các căn cứ được quy định tại khoản 2 Điều 108 BLTTHS. Ngoài ra, phải tuân thủ các quy định về căn cứ tạm giam và căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS.
Thứ ba, thẩm quyền áp dụng BPTG
Khoản 7 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga quy định tạm giam sẽ do thẩm phán quyết định. Khoản 1 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga xác định: Khi lựa chọn biện pháp ngăn chặn bằng hình thức giam giữ, quyết định của thẩm phán phải nêu rõ tình tiết thực tế cụ thể để thẩm phán ra quyết định đó. 
Khoản 3 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga quy định: Trong trường hợp cần phải áp dụng BPTG thì kiểm sát viên hoặc dự thẩm viên, điều tra viên nếu được kiểm sát viên đồng ý ra công văn đề nghị Toà án xem xét, quyết định. Trong bản đề nghị cần chỉ rõ lý do và căn cứ cần thiết phải tạm giam người bị tình nghi hoặc bị can và không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối với họ. Kèm theo bản đề nghị là những tài liệu khẳng định tính có căn cứ của sự cần thiết phải áp dụng BPTG. Nếu đề nghị tạm giam người bị tình nghi đang bị tạm giữ theo thủ tục quy định tại các Điều 91 và 92 Bộ luật này thì bản đề nghị và những tài liệu nói trên phải được gửi cho thẩm phán chậm nhất là 8 giờ trước khi hết hạn tạm giữ.
Khoản 4 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga cũng quy định: Công văn đề nghị áp dụng BPTG do một thẩm phán Toà án cấp quận hoặc Toà án quân sự cấp tương đương, nơi tiến hành điều tra hoặc nơi người bị tình nghi bị tạm giữ giải quyết trong thời hạn 8 giờ kể từ thời điểm Toà án nhận được hồ sơ với sự tham gia của người bị tình nghi hoặc bị can, kiểm sát viên, người bào chữa nếu họ tham gia vụ án. Người bị tình nghi đang bị tạm giữ theo thủ tục quy định tại Điều 91 và 92 Bộ luật này được đưa đến phiên toà. Người đại diện hợp pháp của người bị tình nghi hoặc bị can là NCTN, dự thẩm viên, điều tra viên cũng có quyền tham gia phiên toà. Việc các bên không có mặt tại phiên toà mà không có lý do chính đáng mặc dù đã được thông báo kịp thời về thời gian mở phiên toà không cản trở việc giải quyết đề nghị tạm giam, trừ trường hợp bị can vắng mặt.
Theo khoản 5 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga, Tòa án chỉ được phép ra quyết định lựa chọn biện pháp ngăn chặn bằng hình thức giam giữ vắng mặt bị can nếu họ bị đưa vào danh sách truy nã quốc tế và (hoặc) Liên bang. Như vậy, khi xem xét áp dụng BPTG thông qua việc tổ chức phiên tòa để ra quyết định thì BLTTHS Liên bang Nga bảo đảm sự có mặt của người bị tình nghi hoặc bị can trong phiên toà xem xét quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với họ.
Phiên tòa cũng tổ chức cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Sau khi xem xét đơn yêu cầu, thẩm phán ra một trong các quyết định sau: 1) về việc lựa chọn biện pháp ngăn chặn bằng hình thức giam giữ đối với người bị tình nghi, bị cáo; 2) về việc từ chối đáp ứng đơn đăng ký; 3) gia hạn thời gian giam giữ. Trong trường hợp bác đề nghị áp dụng BPTG, nếu có đủ căn cứ quy định tại Điều 97 và có tính đến các yếu tố quy định tại Điều 99 Bộ luật này, thẩm phán tự mình quyết định việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm hoặc giam tại nhà đối với người bị tình nghi. Quyết định của thẩm phán được gửi cho người đề nghị, kiểm sát viên, người bị tình nghi hoặc bị can và có hiệu lực thi hành ngay. Việc tiếp tục đề nghị Toà án áp dụng BPTG đối với cùng một người trong cùng vụ án đó sau khi thẩm phán đã ra quyết định không chấp nhận đề nghị tạm giam đối với họ chỉ có thể được chấp nhận nếu có những tình tiết mới chứng minh sự cần thiết phải áp dụng BPTG đối với người này. Nếu vấn đề áp dụng BPTG đối với bị cáo phát sinh tại Toà án thì Toà án quyết định về việc này theo đề nghị của các bên hoặc theo sáng kiến của mình và phải ra quyết định.
Quyết định của thẩm phán về việc áp dụng BPTG hoặc từ chối áp dụng biện pháp ngăn chặn này có thể bị khiếu nại lên Toà án cấp trên theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ra quyết định. Toà án cấp phúc thẩm phải ra quyết định giải quyết kháng cáo hoặc kháng nghị chậm nhất là sau 3 ngày kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị. Quyết định của Toà án cấp phúc thẩm thay đổi quyết định của thẩm phán về việc áp dụng BPTG có hiệu lực thi hành ngay. Quyết định của Toà án cấp phúc thẩm có thể bị khiếu nại lên Toà án cấp giám đốc theo thủ tục quy định tại Mục 48 Bộ luật này.
Những thẩm quyền quy định ở khoản này không được giao thường xuyên cho một thẩm phán nhất định. Những thẩm quyền này phải được giao cho các thẩm phán khác nhau trong cùng một Toà án trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc phân công án.
Thứ tư, thủ tục tạm giam
Khoản 12 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga quy định: Người thụ lý vụ án phải thông báo ngay cho họ hàng thân thích của người bị tình nghi hoặc bị can, nếu không có họ hàng thân thích thì phải thông báo ngay cho những người họ hàng khác, đối với người bị tạm giam là quân nhân thì cho cả đơn vị quân đội về nơi người đó bị tạm giam hoặc về việc thay đổi nơi tạm giam họ.
Khoản 3 Điều 423 BLTTHS Liên bang Nga về áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người bị tình nghi, bị can là NCTN yêu cầu: việc tạm giam hoặc gia hạn thời hạn tạm giam người bị tình nghi, bị can là NCTN cần phải thông báo ngay cho những người đại diện hợp pháp của họ.
Thứ năm, thời gian tạm giam
BLTTHS Liên bang Nga quy định không có sự phân biệt thời hạn tạm giam người đã thành niên và NCTN. Vì thế, theo Điều 109 BLTTHS Liên bang Nga, thời hạn tạm giam để điều tra tội phạm không quá 02 tháng. Trong trường hợp không thể hoàn thành điều tra sơ bộ trong vòng 2 tháng và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn thì thời hạn này có thể được gia hạn bởi thẩm phán Tòa án cấp quận hoặc Tòa án quân sự cấp phù hợp ở nước đó theo cách thức quy định tại khoản 3 Điều 108 BLTTHS với thời hạn đến 6 tháng.
Việc gia hạn tiếp theo có thể được thẩm phán các Toà án nói trên áp dụng đối với bị can phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng nhưng chỉ trong những trường hợp vụ án có tính chất rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, vụ án có tính chất đặc biệt phức tạp và có căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn này theo yêu cầu của dự thẩm viên sau khi được sự đồng ý của kiểm sát viên thuộc các chủ thể của Liên bang Nga hoặc của kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự cấp tương đương, nhưng không quá 12 tháng.
Việc gia hạn thời hạn tạm giam trên 12 tháng chỉ có thể được thực hiện trong những trường hợp đặc biệt đối với bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do thẩm phán Toà án quy định tại khoản 3 Điều 31 Bộ luật này hoặc thẩm phán Toà án quân sự cấp tương đương gia hạn theo đề nghị của dự thẩm viên sau khi được sự đồng ý của Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát Liên bang Nga, nhưng không quá 18 tháng. Thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra được tính từ khi người bị tình nghi, bị can bị tạm giam cho đến khi kiểm sát viên chuyển vụ án đến Toà án.
Thời hạn tạm giam cũng được tính cả những thời gian sau:
1) Thời gian người đó bị tạm giữ với tư cách là người bị tình nghi;
2) Thời gian giam tại nhà;
3) Thời gian bắt buộc chữa bệnh ở cơ sở y tế hoặc tâm thần theo quyết định của Toà án;
4) Thời gian họ bị tạm giam trên lãnh thổ nước khác theo yêu cầu tương trợ tư pháp hoặc yêu cầu chuyển giao họ cho Liên bang Nga theo quy định tại Điều 460 Bộ luật này.
Khi hết thời hạn tạm giam theo thời gian họ bị tạm giam trên lãnh thổ nước khác theo yêu cầu tương trợ tư pháp hoặc yêu cầu dẫn độ và cần thiết phải tiến hành các hoạt động điều tra thì Toà án có quyền ra hạn tạm giam theo trình tự quy định tại khoản này, nhưng không được quá 6 tháng.
Trong trường hợp tạm giam lại người bị tình nghi hoặc bị can trong cùng vụ án đó cũng như trong trường hợp tách hoặc nhập vụ án thì thời gian mà họ đã bị tạm giam trước đó được trừ vào thời hạn tạm giam.
Việc tạm giam đối với bị can là NCTN, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng hình thức tạm giam đối với bị can là NCTN, bị can được thực hiện theo quy định tại các điều 91, 97, 99100 và 108 của Bộ luật. Khi tiến hành điều tra và xét xử vụ án về tội phạm do NCTN thực hiện, cùng với việc áp dụng BPTG theo quy định tại Điều 108 của Bộ luật này cần xác định: Tuổi của NCTN, ngày, tháng, năm sinh của họ; điều kiện sống và giáo dục của NCTN, mức độ phát triển về tâm sinh lý và những đặc điểm khác về nhận thân của họ; ảnh hưởng của người lớn đối với NCTN. Khi quyết định lựa chọn biện pháp khống chế đối với bị can, bị can là NCTN, trong từng trường hợp phải cân nhắc khả năng quản thúc theo cách thức quy định tại Điều 105 của Bộ luật. Việc bắt, tạm giữ hoặc gia hạn tạm giam đối với bị can, bị can là NCTN phải được thông báo ngay cho người đại diện hợp pháp của họ.
3. Một số gợi mở cho Việt Nam
Từ góc nhìn so sánh có thể nhận thấy, BPTG trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga và Việt Nam đều là những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Về tạm giam người dưới 18 tuổi trong pháp luật tố tụng hình sự 2 nước có nhiều điểm tương đồng như: Quy định về NCTN ở pháp luật Liên bang Nga và quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật Việt Nam; quy định về xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự từ đó dẫn đến xác định độ tuổi chịu áp dụng BPTG của pháp luật Việt Nam và Liên bang Nga từ 14 tuổi trở lên cũng phù hợp với Bình luận chung số 24 của Ủy ban Quyền trẻ em của Liên hợp quốc; BPTG người dưới 18 tuổi là biện pháp cuối cùng được lựa chọn, khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn không hiệu quả; việc quy định căn cứ tạm giam dựa vào phân loại tội phạm; về thủ tục tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình, người đại diện của người bị tạm giam; quy định chặt chẽ về thời hạn tạm giam người dưới 18 tuổi và gia hạn tạm giam nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam, tránh việc lạm dụng BPTG và thời gian tạm giam không hợp lý; thời hạn tạm giam có thể được kéo dài cho đến khi Tòa tuyên án; trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan chức năng phải luôn xem xét sự cần thiết của việc tạm giam và nếu có căn cứ thì hủy bỏ tạm giam và thay thế bằng các biện pháp ít nghiêm khắc hơn.
Có thể khẳng định, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Liên bang Nga về các quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi cơ bản phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế như Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người[22], Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị[23] và Những quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ NCTN bị tước bỏ tự do[24]. Tuy nhiên, quy định về tạm giam người dưới 18 tuổi trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Liên bang Nga cũng có những điểm khác biệt sau:
Về căn cứ tạm giam
Liên bang Nga có quy định về trường hợp đối tượng áp dụng BPTG là NCTN một cách cụ thể ở khoản 2 Điều 108 BLTTHS. Trong khi đó, Việt Nam chỉ quy định trường hợp tạm giam NCTN ở Điều 419 BLTTHS năm 2015 nằm ở chương “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi”.
Ngoài ra, về căn cứ tạm giam cụ thể, như đã đề cập, ở Việt Nam nhà làm luật xây dựng các căn cứ tạm đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi chưa rõ ràng, luật quy định các từ ngữ mang tính định tính như “trong trường hợp thật cần thiết”, “khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả”. Việc quy định như vậy chưa chỉ rõ trường hợp phải áp dụng BPTG, mà căn cứ áp dụng còn mang tính chất cảm tính, dẫn đến thiếu đồng bộ, không công bằng: có địa phương cho rằng việc áp dụng BPTG là cần thiết, có địa phương lại cho rằng không cần thiết. Trong khi đó ở Liên bang Nga, căn cứ tạm giam gắn liền với mức hình phạt và những tình tiết làm căn cứ áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội có mức hình phạt tù đến 03 năm.
Chính vì vậy, Việt Nam nên tham khảo những ưu điểm của Nga về cách thiết kế những quy định về căn cứ tạm giam theo hướng chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng gồm: mức hình phạt tù kèm theo những căn cứ chung cho việc tạm giam là loại tội phạm và các hành vi cụ thể của bị can, bị cáo, để khi rơi vào một trong những căn cứ này thì bị can, bị cáo sẽ bị tạm giam bất kể thuộc loại tội phạm nào. Ngoài ra, để hạn chế lạm dụng BPTG (đặc biệt với người dưới 18 tuổi), BLTTHS Liên bang Nga quy định: Trong trường hợp áp dụng BPTG thì trong quyết định cần nêu rõ những tình tiết cụ thể mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để ra quyết định này. Đây cũng là kinh nghiệm tốt mà Việt Nam có thể tham khảo.
Về thẩm quyền áp dụng BPTG
Pháp luật Việt Nam quy định cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tạm giam, còn theo pháp luật Liên bang Nga thì chỉ Tòa án (thẩm phán) là có thẩm quyền ra quyết định tạm giam; tức là, chỉ có Tòa án mới có quyền áp dụng các biện pháp hạn chế, tước tự do con người, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc tình trạng khẩn cấp. Bên cạnh đó, thẩm quyền áp dụng BPTG đối với người dưới 18 tuổi và trên 18 tuổi đang được pháp luật Việt Nam quy định như nhau, trong khi người dưới 18 tuổi là nhóm chủ thể dễ bị tổn thương nên cũng cần có sự nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp.
Theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW cần “thu hẹp đối tượng, người có thẩm quyền quyết định áp dụng BPTG'”. Điều này phù hợp với xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới (trong đó có Liên bang Nga) là quy định chặt chẽ về thẩm quyền quyết định áp dụng BPTG, tránh lạm dụng gây ảnh hưởng đến quyền con người.
Từ sự khác nhau về thẩm quyền áp dụng BPTG nên trình tự, thủ tục áp dụng BPTG theo pháp luật của 2 nước cũng có sự khác nhau. BLTTHS Liên bang Nga quy định thủ tục tạm giam để xem xét quyết định có tạm giam hay không đối với bị can, bị cáo phải thông qua việc mở phiên tòa. Trong khi đó, theo BLTTHS năm 2015 của Việt Nam, Viện kiểm sát có quyền xem quyết định tạm giam bị can, bị cáo mà không bắt buộc phải thông qua việc mở phiên tòa. Quyết định tạm giam, theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam có hiệu lực thi hành ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị và giải quyết theo trình tự phúc thẩm hay tái thẩm, giám đốc thẩm. Còn ở Liên bang Nga, quyết định của thẩm phán về việc áp dụng BPTG hoặc từ chối áp dụng biện pháp ngăn chặn này có thể bị khiếu nại lên Toà án cấp trên theo thủ tục phúc thẩm và quyết định của Toà án cấp phúc thẩm có thể tiếp tục bị khiếu nại lên Toà án cấp giám đốc thẩm. Xuất phát từ tính nghiêm khắc cao nhất của BPTG trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự và sự tác động to lớn đối với người bị áp dụng, đặc biệt là người dưới 18 tuổi, Việt Nam nên nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng giao cho Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPTG; đối với NCTP thì nên giao thẩm quyền cho Tòa Gia đình và NCTN xem xét. Biện pháp này cần phải được kiểm soát chặt chẽ bởi một cơ quan thực hiện chức năng xét xử, không nên giao cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát vì đây là những cơ quan thực hiện chức năng buộc tội để tránh tâm lý chạy theo chỉ tiêu hay bảo đảm các thời hạn tố tụng khắt khe mà lạm dụng tạm giam để thuận lợi cho công tác điều tra, truy tố. Tuy nhiên, quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung và thẩm quyền áp dụng BPTG nói riêng là một vấn đề lớn và phức tạp, đôi khi sự sửa đổi sẽ kéo theo việc thay đổi kết cấu hệ thống pháp luật hiện tại của Việt Nam; do đó, cần thận trọng và có tổng kết thực tiễn trong điều kiện của Việt Nam.
Về thời hạn tạm giam
Quy định về thời hạn tạm giam giữa pháp luật hai nước có một số điểm khác nhau. Theo BLTTHS nước ta, thời hạn tạm giam chia theo loại tội danh, còn BLTTHS Liên bang Nga chỉ quy định chung cho tất cả các loại tội và chỉ khi gia hạn tạm giam mới chia theo loại tội.
BLTTHS Liên bang Nga không có sự phân hoá giữa thời hạn tạm giam NCTN và người đã thành niên, tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 của Việt Nam có xác định thời hạn tạm giam người dưới 18 tuổi “bằng hai phần ba” thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên. Song, việc quy định như vậy mà không giải thích cụ thể như thế nào dễ dẫn đến khó xác định thời hạn cụ thể theo ngày, tháng, năm kéo theo việc áp dụng thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến sự phát triển của người dưới 18 tuổi. Chúng ta cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể cách tính thời hạn “hai phần ba” theo ngày, tháng, năm dự liệu các trường hợp cụ thể trong các giai đoạn tố tụng mà thời hạn này tính ra số thập phân hoặc nghiên cứu rút ngắn thời hạn tạm giam người dưới 18 tuổi bằng cách sửa đổi từ “bằng hai phần ba” thành “không quá hai phần ba” để tránh gây vướng mắc khi tính thời hạn ra số thập phân trong cách tính hiện hành. Việt Nam cũng nên quy định thời hạn tạm giam phân hóa theo hai nhóm tuổi người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Vì so sánh hai nhóm tuổi này, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là nhóm dễ bị tổn thương hơn. Tương tự như trên, chúng ta cần quy định phân hóa thời hạn gia hạn tạm giam theo nhóm tuổi. Nghiên cứu về vấn đề này, chúng ta cần lưu ý định hướng của Ủy ban Quyền trẻ em của Liên hợp quốc trong Bình luận chung số 24 trong quy định thời hạn tối đa để Tòa án hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác đưa ra kết luận cuối cùng về vụ án là không quá 06 tháng kể từ ngày bắt đầu việc giam giữ, nếu không thực hiện được thì phải trả tự do cho người dưới 18 tuổi[25].

 


[1] Xem Điều 90 BLHS năm 2015 quy định về áp dụng BLHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
[2] BLTTHS năm 2015 đã quy định các biện pháp ngăn chặn tại Chương VII: Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, ở Mục 1: Biện pháp ngăn chặn gồm 17 Điều, từ Điều 109 đến Điều 125.
[3] Điều 20 Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
[4] Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Mục B.1a, Phần II quy định: “Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế việc áp dụng BPTG đối với bị can trong một số loại tội”.
[5] Ngô Thị Thùy Trang (2021), Một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện về biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Nghề luật, số tháng 5/2021, Hà Nội, tr. 47.
[6] Điều 303 Chương XXXII – Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên.
[7] Theo quy định tại BLTTHS năm 2003: Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá 02 tháng và lần thứ hai không quá 01 tháng; đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
[8] Tham khảo thêm: Ngô Thị Thùy Trang (2020), Bàn về thời hạn tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 – Một số đề xuất, kiến nghị, Tạp chí Công an nhân dân, số chuyên đề Khoa học chiến lược an ninh, tháng 12/2020.
[9] Điều 419 BLTTHS năm 2015.
[10] Bình luận chung số 24 về Quyền của trẻ em trong hệ thống tư pháp trẻ em của Ủy ban Quyền trẻ em, đoạn số 98, mục F. Tước quyền tự do, bao gồm giam giữ trước khi xét xử và sau khi xét xử, phần nguyên tắc chung: The duration of pre-trial detention should be limited by law and be subject to regular review”.
[11] Khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT.
[12] Khoản 3 Điều 7 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT.
[13] Xem tại: https://www.consultant.ru/document/cons_doc_LAW_34481/, truy cập ngày 15/7/2024.
[14] Khoản 1 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga.
[15] Khoản 1 Điều 46 BLTTHS Liên bang Nga.
[16] Khoản 1, Khoản 2 Điều 47 BLTTHS Liên bang Nga.
[17] Khoản 7 Điều 98 BLTTHS Liên bang Nga.
[18] Khoản 2 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga.
[19] Khoản 3 Điều 15 BLHS Liên bang Nga.
[20] Khoản 4 Điều 15 BLHS Liên bang Nga.
[21] Khoản 5 Điều 15 BLHS Liên bang Nga.
[22] Điều 9 Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người năm 1948 (UDHR) quy định: “không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện”.
[23] Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) quy định: “mọi người có quyền hưởng tự do an toàn cá nhân, không ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ”.
[24] Nguyên tắc thứ hai trong Những quy tắc của Liên hợp quốc về Bảo vệ NCTN bị tước bỏ tự do năm 1990 quy định: “Việc tước bỏ tự do của một người chưa thành niên nên là cách xử lý cuối cùng trong khoảng thời gian cần thiết ngắn nhất và được áp dụng đối với những trường hợp cá biệt”.
Điều 37(b) Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989 quy định: “Không trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp pháp hoặc tùy tiện. Việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em phải được tiến hành phù hợp với pháp luật và chỉ được coi là biện pháp cuối cùng và áp dụng trong thời hạn thích hợp ngắn nhất”.
[25] Bình luận chung số 24 về Quyền của trẻ em trong hệ thống tư pháp trẻ em của Ủy ban Quyền trẻ em, đoạn số 90: The Committee, conscious of the practice of adjourning court hearings many times and/or for long periods, urges States parties to adopt maximum limits for the number and length of postponements and introduce legal or administrative provisions to ensure that the court or other competent body makes a final decision on the charges not later than six months from the initial date of detention, failing which the child should be released.