Đổi mới tư duy pháp lý về thể chế kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay
12/01/2025
Tóm tắt: Nội dung bài viết đề cập, phân tích một số hạn chế trong tư duy pháp lý về thể chế kinh tế tư nhân ở Việt Nam, từ đó lập luận đưa ra các phương hướng và đề xuất các giải pháp đổi mới tư duy pháp lý về thể chế kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa:Tư duy pháp lý; thể chế; kinh tế tư nhân.
Abstract: The article focuses on discussions and analyses of a number of shortcomings in legal thinking about private economic institutions in Vietnam, from which arguments for suggestions for solutions are presented and given to innovate legal thinking on private economic institutions in Vietnam today.
Keywords: Legal thinking; institutions; private economics.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Một số hạn chế trong tư duy pháp lý về thể chế kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Kinh tế tư nhân là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế quốc dân. Ở nước ta, vai trò và mối quan hệ giữa thành phần kinh tế tư nhân với kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước có những bước thăng trầm, khác biệt trong thực tiễn lịch sử. Điều đó đã thể hiện trong quy định ở các bản Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 và ở các quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật khác. Trên thực tế, đó là quá trình phát triển từ thấp tới cao về điều kiện tồn tại xã hội, về nhận thức vai trò kinh tế tư nhân, khuynh hướng điều chỉnh pháp luật, định chế pháp luật đối với kinh tế tư nhân. Điều đó cũng cho thấy tư duy pháp lý về kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng đối với việc hình thành, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển thành phần kinh tế này trong mối quan hệ với kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, thể chế kinh tế tư nhân trước hết phải là sự đổi mới tư duy pháp lý về xây dựng pháp luật, tổ chức thực thi pháp luật và bảo vệ pháp luật ở lĩnh vực này trên thực tế.
Tư duy pháp lý về thể chế kinh tế tư nhân thực chất là quá trình hình thành nhận thức lý tính pháp lý về đối tượng chính là kinh tế tư nhân để khái quát, rút ra những kết luận về thành phần kinh tế này trong đời sống kinh tế quốc dân nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng, định chế, điều chỉnh pháp luật trên thực tế. Về nội hàm, tư duy pháp lý về thể chế kinh tế tư nhân có thể được nhận diện ở một số khía cạnh cơ bản như: tư duy về sự tồn tại hay sự hiện diện của kinh tế tư nhân trong cấu trúc nền kinh tế quốc dân; tư duy thể chế kinh tế tư nhân (trọng tâm thể hiện ở xây dựng, ban hành pháp luật, hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật); tư duy về mô hình kinh tế tư nhân, địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh như doanh nghiệp, công ty, hộ kinh doanh…; tư duy về phương thức kinh doanh và quản trị nội bộ; tư duy về quản lý nhà nước (bằng việc hình thành các thiết chế, các hình thức, phương pháp quản lý, đánh giá hiệu quả…) đối với kinh tế tư nhân; tư duy về mối quan hệ giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước; tư duy về sự hợp tác kinh doanh song phương và đa phương; tư duy về phòng vệ thương mại, doanh thu, lợi nhuận doanh nghiệp, chính sách thuế, phí...
Có thể khẳng định, công cuộc đổi mới thời gian qua ở nước ta đã đem lại sức sống của một nền kinh tế thị trường đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Đặc biệt, thành phần kinh tế tư nhân đã có những đóng góp to lớn cho sự ổn định, phát triển bền vững của nền kinh tế nước nhà. Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê:
“Hiện nay, nước ta có khoảng gần 900 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, với khoảng 7 triệu doanh nhân. Kinh tế tư nhân đang đóng góp gần 45% GDP cả nước, 1/3 thu ngân sách nhà nước, hơn 40% vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội, tạo ra công ăn việc làm cho 85% số lao động cả nước; chiếm tới 35% tổng kim ngạch nhập khẩu và 25% tổng kim ngạch xuất khẩu”[1]. Mặc dù vậy, ngoài những kết quả đạt được, thì thể chế kinh tế tư nhân ở nước ta còn bộc lộ không ít hạn chế thể hiện cả về nội dung, hình thức, hiệu quả và hệ giá trị trên thực tế. Một trong các nguyên nhân dẫn tới hạn chế này là:
“Hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ”[2]. Cụ thể:
Một là, dưới góc độ tổng quan năng lực tư duy pháp lý mà đặc biệt tư duy xây dựng, điều chỉnh pháp luật kinh tế chưa thực sự nhạy bén, theo kịp trước biến đổi của đời sống thực tiễn. Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật được tiếp cận trong tổng thể sự đổi mới tư duy pháp lý nói chung. Tư duy pháp lý trong lĩnh vực nhận thức về một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) có sự điều tiết của Nhà nước được khởi xướng từ 1986 đến nay, sau hơn ba thập kỷ đã lạc hậu và kịch trần để tạo ra đột biến mới. Những quan niệm bước đầu về điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường với sự lo âu lệch hướng, sợ đi vào vết xe đổ, đã lạc hậu và không đủ làm tiền đề cho quá trình tạo lập khung khổ pháp luật đủ sức kích hoạt một nền kinh tế hội nhập toàn cầu hóa. Kinh tế thị trường định hướng XHCN cần phải có một mô hình mới để tồn tại, thích ứng với điều kiện của thời đại công nghiệp 4.0. Theo đó, tư duy pháp lý cần đi trước để nhận thức loại bỏ những rào cản, nhanh chóng tiếp biến thức thời, làm nền tảng cho quá trình xây dựng, điều chỉnh pháp luật. Một khung pháp lý mới mang tính mở đủ điều kiện cho sự phát triển bền vững, đồng bộ về kinh tế, chính trị, xã hội, tổ chức vận hành và kiểm soát quyền lực nhà nước một cách có hiệu quả.
Hai là, dấu ấn tư duy cơ chế kinh tế tập trung bao cấp ít nhiều vẫn còn ảnh hưởng, chi phối trên thực tế. Có thể nói, những hạn chế tư duy của cơ chế tập trung bao cấp bắt nguồn từ việc nhận thức khiên cưỡng, một chiều khi coi pháp luật là “phương tiện thống trị thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền” hay thực chất “pháp luật chẳng qua là ý chí của giai cấp cầm quyền đề lên thành luật”. Với cách tiếp cận coi trọng khía cạnh giai cấp này sẽ dẫn đến việc định chuẩn pháp lý và điều chỉnh pháp luật trên thực tế thiếu tính khách quan. Điều này đã làm hạn chế vai trò, giá trị xã hội của pháp luật trong điều chỉnh, trật tự hóa quan hệ xã hội, làm lu mờ tính khách quan trong xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế nói chung, thể chế kinh tế tư nhân nói riêng. Biểu hiện của hạn chế này trên thực tế là tư duy cơ chế xin-cho, tập trung quyền quản lý kinh tế lên các cơ quan trung ương, thiếu sự phân cấp, phân quyền, bó hẹp khung pháp luật điều chỉnh kinh tế tư nhân và quá coi trọng kinh tế nhà nước.
Ba là, ở một khía cạnh nào đó, lúc nào đó, tư duy pháp chế vẫn được đặt lên trước tiếp cận tư duy Nhà nước pháp quyền hoặc tư duy cơ chế xin-cho vẫn tồn tại trong các hoạt động thực tiễn pháp lý. Tư duy coi trọng tính pháp chế có những đặc trưng thể hiện ở cách tiếp cận, xem xét nhấn mạnh đến khía cạnh “bảo đảm tính đúng đắn với quy định của pháp luật, sự thực hiện pháp luật một cách triệt để nghiêm minh”. Về nguyên lý, điều này không có gì sai, duy chỉ có sự coi trọng này chủ yếu nghiêng về khía cạnh hình thức đối với các mặt hoạt động trong xây dựng pháp luật. Nếu quy định pháp luật thiếu chính xác về phương diện định chuẩn, hoặc không phù hợp với trạng thái quan hệ xã hội thì việc yêu cầu tôn trọng, thực thi pháp luật một cách triệt để, nghiêm túc thực chất không đem lại giá trị. Trong khi đó, tư duy Nhà nước pháp quyền phân định rõ vai trò của Nhà nước, pháp luật và tính độc lập của quan hệ xã hội trong tương tác của sự tồn tại. Tư duy pháp lý trong Nhà nước pháp quyền quan niệm, có cách tiếp cận phù hợp với nguyên lý tôn trọng đặc tính quan hệ xã hội. Pháp luật chỉ là công cụ bảo đảm môi trường pháp lý thuận lợi để quan hệ xã hội được tồn tại, phát triển và phát huy giá trị hữu ích hoặc không cho nó phổ biến nếu đó là quan hệ xấu, tiêu cực. Nghĩa là tôn trọng nội dung, bản chất của quan hệ xã hội với tính cách là đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Điều này đòi hỏi việc pháp luật hóa, quy phạm hóa trước hết phải tôn trọng quy luật vận động khách quan của quan hệ xã hội.
Bốn là, tư duy cầu toàn hoặc nóng vội trong xây dựng, tổ chức thực thi pháp luật dẫn đến thiếu đột biến, năng động trong thực tiễn đã bỏ qua những cơ hội, nhu cầu và xu thế phát triển. Thực tế cho thấy, nguyên nhân của hạn chế này bắt nguồn từ việc không ý thức một cách đầy đủ, kịp thời trạng thái vận động, nhu cầu của quan hệ xã hội trên thực tế để kịp thời xây dựng, ban hành pháp luật điều chỉnh nó. Cầu toàn trong xây dựng pháp luật sẽ làm giảm giá trị, hiệu quả điều chỉnh, thậm chí vô hiệu trong điều chỉnh bằng pháp luật, vì quan hệ xã hội cụ thể đó đã biến đổi hoàn toàn trên thực tế. Mặt khác, tư duy xây dựng pháp luật nói chung bị ràng buộc, quy chiếu từ nhiều góc độ quan điểm tiếp cận khác nhau của đời sống chính trị, pháp lý. Điều này dẫn đến cảm quan một khung điều chỉnh pháp luật nói chung bị bó hẹp, khó vượt khỏi khuôn khổ của những quan niệm bảo thủ. Đó là một rào cản thực sự bởi thực tiễn quan hệ xã hội đã đặt ra nhu cầu cần có sự điều chỉnh pháp luật để hiện thực hóa giá trị của nó. Ở chiều ngược lại, vì nhiều nguyên nhân mà nhà làm luật có thể nóng vội đưa ra các quy định pháp luật vượt khá xa trạng thái, mô thức quan hệ xã hội đang tồn tại trên thực tế, dẫn đến thiếu hiệu quả. Nói tóm lại, tư duy cầu toàn hoặc nóng vội có sự ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đối với quá trình xây dựng và ban hành pháp luật. Trên thực tế, không ít văn bản vừa mới ban hành đã phải dừng hiệu lực hoặc chỉnh sửa, bổ sung ngay, hay đưa ra những quy định thiếu tính thực tiễn, gây hiệu ứng không tốt trong xã hội.
Năm là, quản lý nhà nước về kinh tế tư nhân còn yếu kém, tư duy lợi ích nhóm, lợi ích ngành vẫn hiện hữu đâu đó trong xây dựng pháp luật điều chỉnh các quan hệ đầu tư, cấp vốn, đấu thầu, kinh doanh, thương mại, trong đó nổi lên là quản lý vốn ngân sách nhà nước, vốn vay hoặc viện trợ không hoàn lại từ các nguồn khác... Đây là một vấn nạn tồn tại khá lâu và chỉ được hạn chế khi có các quy định chặt chẽ hơn về phân cấp, phân quyền kiểm soát cấp vốn ngân sách, như Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 và thành lập cơ quan chuyên môn Ủy ban Quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Trên thực tế, nhìn chung nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đến được với các thành phần kinh tế tư nhân dưới dạng cho vay, hỗ trợ hoặc kết hợp công tư (PPP) trong đầu tư cũng rất hạn chế hoặc khó khăn. Thể chế pháp lý vẫn còn bó hẹp, chưa thông thoáng để các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân được tiếp cận thuận lợi, hiệu quả hơn. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã chỉ rõ việc xuất hiện những quan hệ không lành mạnh giữa các doanh nghiệp của tư nhân và cơ quan quản lý nhà nước, can thiệp vào quá trình xây dựng, thực thi chính sách để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành “lợi ích nhóm”, gây hậu quả xấu về kinh tế - xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân.
Sáu là, chưa thực sự hình thành, sử dụng tư duy tiếp cận Hiến pháp trong các hoạt động thực tiễn pháp lý. Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất và mang tính tối thượng trong tiếp cận ở mọi hoạt động thực tiễn pháp lý. Điều này đòi hỏi mọi chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật, thực hiện hành vi pháp lý trước hết phải lấy thước đo của Hiến pháp bảo đảm sự phù hợp cả về phương diện nội dung và hình thức. Trong xây dựng, điều chỉnh pháp luật đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng bởi nó là tiền đề để định chuẩn phù hợp và bảo đảm tính pháp chế. Một thực tế vẫn tồn tại đó là không phải mọi văn bản pháp luật (nhất là văn bản áp dụng pháp luật) khi ban hành đều có được sự phù hợp với quy định của Luật, Hiến pháp cả về nội dung, hình thức và khuynh hướng điều chỉnh, do đó, việc hình thành tư duy tiếp cận từ Hiến pháp sẽ là một giải pháp tối quan trọng trong xây dựng pháp luật cần được nhận diện và quan tâm.
Bảy là, tư duy xây dựng thể chế pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế, đầu tư, thương mại nhìn chung vẫn còn tình trạng luật ống, luật khung; hoặc, một văn bản luật cần có nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện; hoặc giữa các văn bản có xung đột, mâu thuẫn, chồng chéo trong điều chỉnh các lĩnh vực có liên quan (xét cả theo chiều dọc hoặc chiều ngang, về mặt nội dung hoặc hình thức). Cấu trúc văn bản, kỹ thuật pháp lý, thuật ngữ và văn phạm pháp lý còn có chỗ thiếu chính xác, khó hiểu hoặc hiểu với nhiều nghĩa. Điều này rõ ràng đã tạo ra những nút nghẽn vướng mắc trong quá trình áp dụng, thực hiện các chính sách, giải pháp thực tế cụ thể về kinh tế, thương mại vốn dĩ có yêu cầu nhanh chóng, thông thoáng, phù hợp với thông lệ và đòi hỏi của quan hệ hợp tác quốc tế hiện nay.
2. Phương hướng đổi mới tư duy pháp lý về thể chế kinh tế tư nhân ở nước ta
Đổi mới tư duy pháp lý nói chung, tư duy xây dựng thể chế pháp lý nói riêng được đặt ra theo nguyên lý khi thực tiễn khung điều chỉnh pháp luật đã lạc hậu và không còn thích ứng, phù hợp. Theo đó, xuất phát từ thực tiễn tất yếu đặt ra nhu cầu tìm kiếm tư duy tiếp cận, hình thành khung pháp lý mới. Ở nước ta, có thể nói trong ba thập kỷ qua có sự giao thoa tư duy nhận thức của nhiều hệ thống pháp luật trong quá trình xây dựng pháp luật thuộc lĩnh vực kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân trên các phương diện về thương mại, đất đai, tài chính... Trong bối cảnh nền kinh tế mở, số hóa, chúng ta đã, đang tham gia nhiều tổ chức, hiệp hội, diễn đàn kinh tế đa phương và song phương thì việc mở rộng phạm vi điều chỉnh, nội luật hóa nội dung chi tiết của các điều ước quốc tế đã ký kết là điều tất yếu. Xuất phát từ thực tiễn, phương hướng đổi mới tư duy pháp lý về thể chế kinh tế tư nhân ở nước ta, trong thời gian tới, gồm:
Thứ nhất, phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, cấp thiết trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đó là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Thứ hai, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng để trở thành động lực phát triển nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô và chất lượng.
Thứ ba, xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng.
Thứ tư, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là phòng, chống mọi biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ “lợi ích nhóm”, thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính.
Thứ năm, xây dựng nền kinh tế cởi mở theo đó kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, phục vụ, chuyển kiểm soát sang quản lý thông qua các công cụ pháp luật và chính sách phù hợp với cơ chế thị trường.
Thứ sáu, đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các hộ kinh doanh tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước, có đủ năng lực cạnh tranh và khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 103/2023/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, theo đó: “Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, chính sách; khơi thông các nguồn lực; xử lý hiệu quả các vướng mắc để phát triển các loại thị trường ổn định, an toàn, lành mạnh, bền vững; nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách, thực thi công vụ. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng chiến lược trọng điểm, quan trọng quốc gia”.
3. Một số giải pháp đổi mới tư duy pháp lý về thể chế kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Đổi mới tư duy, tạo đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội thời gian tới là nhiệm vụ cấp thiết, do đó việc lựa chọn giải pháp thích ứng cho từng nội dung có ý nghĩa rất quan trọng. Quá trình đổi mới tư duy xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế tư nhân cần quán triệt sâu sắc nội dung Nghị quyết số 20/NQ-CP ngày 19/3/2019 của Chính phủ về phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 3 năm 2019: “Thể chế pháp luật cần thể hiện sâu sắc tinh thần đổi mới; các bộ, cơ quan ngang bộ phải coi việc rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực được phân công là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên; kịp thời phát hiện và xử lý các quy định trái pháp luật, không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội”. Theo đó, cần coi trọng một số giải pháp:
Thứ nhất, dứt khoát đoạn tuyệt định kiến, quan niệm “ghẻ lạnh” với kinh tế tư nhân
Đây là vấn đề trong tư duy, nhận thức, đã được Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thẳng thắn chỉ ra là nhanh chóng: “Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng”. Trên thực tế, dù không phổ biến nhưng vẫn còn đâu đó sự coi thường kinh tế tư nhân khi cho rằng, đặc tính của kinh tế tư nhân nhỏ lẻ, phân tán, tuổi thọ doanh nghiệp ngắn, vốn và năng lực còn hạn chế, thiếu ổn định và chuyên nghiệp, lợi dụng cơ hội hoặc thế mạnh sân sau chống lưng nên dễ phá vỡ cấu trúc thị trường, thậm chí làm biến động nền kinh tế... Dĩ nhiên, có những hạn chế nhất định, nhưng sẽ sai lầm nếu quên đi sự đóng góp gần 50% thu nhập quốc dân và tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người của loại hình kinh tế này. Ở Việt Nam, hiện nay, đã có những tập đoàn kinh tế tư nhân có vốn, năng lực đầu tư, doanh thu lợi nhuận vượt xa các tập đoàn kinh tế nhà nước. Phương án kết hợp giữa Nhà nước với tư nhân (PPP) trong đầu tư một số dự án trọng điểm trên thực tế là cần thiết để từng bước xóa bỏ ngăn cách, hài hòa các thành phần kinh tế, cùng hội nhập và phát triển. Điều này đòi hỏi cần thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Tư duy kinh tế cởi mở tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước đầu tư chiều sâu công nghệ vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; bảo đảm để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn lực của Nhà nước trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nhà nước, thu hút vồn, mở rộng quy mô bằng việc bán cổ phần ưu đãi cho người lao động tại doanh nghiệp.
Thứ hai, tạo lập môi trường pháp lý bình đẳng, cạnh tranh minh bạch, lành mạnh giữa các thành phần kinh tế
Để phát triển kinh tế tư nhân thực sự thành động lực quan trọng của nền kinh tế đòi hỏi cải cách hệ thống phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường, từ đó tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng là yếu tố then chốt. Về nguyên lý, thị trường là yếu tố quyết định nội dung, khuynh hướng điều chỉnh của pháp luật. Theo ý kiến của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan
[3], nguyên tắc cạnh tranh, công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình phải được áp dụng trong mọi quyết định về phân bổ hay tái phân bổ nguồn lực, kể cả khi đề xuất, thiết kế và quyết định thực hiện các dự án đầu tư công hay tư cần sử dụng nhiều nguồn lực. Trong điều kiện nước ta còn thiếu những nguồn lực lớn rất cần thiết cho phát triển một nền kinh tế hiện đại trong những năm tới, điều này càng trở nên quan trọng và cấp bách. Năm 2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 999/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Đồng thời với việc phê duyệt Đề án thúc đẩy phát triển toàn diện kinh tế tư nhân đã từng bước bảo đảm môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ và kinh tế truyền thống; bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia mô hình kinh tế chia sẻ bao gồm người cung cấp dịch vụ, người sử dụng dịch vụ và doanh nghiệp cung cấp nền tảng; khuyến khích đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ số và phát triển nền kinh tế số. Nhà nước cần tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; phù hợp nguyên tắc và thông lệ quốc tế; để kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, đặc biệt là hoàn thiện khung pháp luật, chính sách về thành lập, tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh doanh, tiếp tục cập nhật điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Quản lý thuế, Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành để bảo đảm tính đồng bộ, cụ thể và minh bạch; có tính khả thi cao và dễ thực hiện. Triển khai có hiệu quả các quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và các văn bản hướng dẫn thi hành; rà soát cắt giảm tối đa các thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh nhằm bảo đảm duy trì niềm tin và tăng cường đầu tư kinh doanh bền vững.
Thứ ba, nâng cao hiệu lực, sự thích ứng của quản lý nhà nước trong môi trường số với thể chế pháp lý thông thoáng, không có “điểm nghẽn” cản trở hoạt động kinh doanh thương mại tư nhân
Quản lý nhà nước phải tôn trọng yêu cầu quy luật khách quan của thị trường, ở nước ta đó là phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Phát huy mọi tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế để kinh tế phát triển tốt hơn, giải phóng mọi nguồn lực cho phát triển, coi trọng các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân được coi trọng đúng mức. Hiện nay, nước ta đã và đang thực hiện quá trình đổi mới một cách căn bản, toàn diện phương thức quản lý nhà nước theo mô hình Chính phủ số, kinh tế số với tính chất chuyển từ kiểm soát sang kiến tạo; từ can thiệp trực tiếp sang gián tiếp; từ tiền kiểm sang giám sát theo nguyên tắc quản lý rủi ro. Theo đó, tư duy quản trị nhà nước lĩnh vực kinh tế tư nhân cần tập trung vào vai trò chức năng nhà nước theo nguyên lý: định hướng, quy hoạch và điều tiết phát triển kinh tế; tạo lập khung khổ pháp luật, môi trường thể chế cho phát triển kinh tế; can thiệp gián tiếp vào đầu tư, sản xuất của doanh nghiệp và phân bổ nguồn lực phát triển kinh tế; thanh tra, kiểm tra và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật; tổ chức thực thi chính sách, pháp luật.
Cần coi trọng tư duy, thực tiễn về phân cấp, phân quyền quản lý gắn với chế độ trách nhiệm từng chủ thể, trong phạm vi thẩm quyền thuộc địa phương hoặc trung ương, theo ngành dọc hoặc ngang cùng cấp. Các cơ quan trung ương đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội. Các cơ quan nhà nước ở chủ động, đổi mới tư duy sáng tạo, dám nghĩ dám làm để hỗ trợ cho các loại hình kinh tế tư nhân từng bước hội nhập như doanh nghiệp tư nhân, kinh tế hộ gia đình, cá nhân. Tôn trọng nguyên tắc phân bổ nguồn lực của thị trường, lấy sự phát triển của thị trường làm tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước.
Thứ tư, đổi mới tư duy của các doanh nhân, nhà đầu tư hoặc góp vốn, người lao động nhằm chuyển đổi thích ứng mô hình kinh tế số và hội nhập phát triển
Tư duy pháp lý về kinh tế tư nhân có ba nhóm chủ thể quan trọng, trực tiếp thực hiện việc đổi mới và có sự tương tác hữu cơ với nhau, đó là tư duy của các nhà quản lý, làm luật, xây dựng thể chế và tư duy của các doanh nhân, nhà đầu tư và những người lao động. Theo đó, tư duy của các doanh nhân, người lao động đóng vai trò quyết định và cụ thể cho quá trình quản trị, bảo đảm chất lượng sản phẩm, trách nhiệm xã hội với người tiêu dùng. Đáng kể trước hết là tư duy của các doanh nhân, nhà đầu tư cần hướng tới một mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại, bảo đảm các tiêu chí kỹ thuật, chất lượng, hiệu quả, tiết kiệm cho quá trình đầu tư, xuất nhập khẩu, tăng doanh thu, tạo niềm tin kinh doanh cho đối tác và hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước, xã hội. Doanh nhân phải hướng tới tư duy tạo lập mô hình kinh doanh hiện đại, dám đầu tư công nghệ tiên tiến vượt qua thử thách để có năng lực cạnh tranh với doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với người lao động trong các tâp đoàn, công ty, hợp tác xã hoặc kinh doanh của hộ gia đình, cá nhân cũng không thể đứng ngoài sự đòi hỏi hội nhập, nhanh chóng xóa bỏ làm ăn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu công nghệ cao và chất lượng sản phẩm thấp.
Thứ năm, đổi mới tư duy về các giải pháp cấp bách trong điều kiện thực thi các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (như EVFTA, CPTPP, RCEP...). Theo Bộ Công Thương, EVFTA dự kiến sẽ tác động tích cực đến lao động, việc làm và an sinh xã hội, giúp tăng thêm 146.000 việc làm/năm, tập trung vào những ngành sử dụng lao động có tốc độ xuất khẩu cao sang thị trường Liên minh châu Âu (EU), trong đó có nhiều ngành nghề với sự tham gia quan trọng của kinh tế tư nhân. Mức tăng thêm việc làm trong một số ngành dự kiến: Dệt may tăng 71.300 (năm 2025) và 72.600 (năm 2030); da giày có tốc độ tăng việc làm là 4,3% và 3,8% vào các năm 2025 và 2030. Một số ngành khác cũng có số lượng việc làm tăng cao là vận tải hàng không (1,5% vào năm 2025), vận tải thủy (0,9% vào năm 2025). Ví dụ, trong 5 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Ý đạt 2,85 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, xuất khẩu sang Ý đạt 2,14 tỷ USD, tăng 10,3%; nhập khẩu từ Ý đạt 0,71 tỷ USD, tăng 6,0%. Thặng dư thương mại với Ý đạt 1,43 tỷ USD, cao hơn mức 1,27 tỷ USD của cùng kỳ năm 2023. Hai nước đang phấn đấu sớm đưa kim ngạch hai chiều lên 7 tỷ USD
[4]. Về hợp tác đầu tư, số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cũng cho thấy, tính đến tháng 5/2024, Ý hiện đứng thứ 33 trong số 146 nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với 153 dự án có tổng số vốn hơn 536 triệu USD. Đây là thực tiễn đòi hỏi sự nhạy bén về tư duy, sự đồng thuận giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư để đưa ra những giải pháp kịp thời, có hiệu quả.
Tuy nhiên, trên thực tế, thể chế pháp lý và các biện pháp thực thi vẫn còn có các mặt hạn chế, ràng buộc, kiềm chế nhu cầu phát triển về kinh tế, xã hội. Mặc dù, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế chính sách để tháo gỡ những vướng mắc cho cộng đồng doanh nghiệp và có nhiều quan điểm, định hướng mới về quản lý kinh tế, trong đó có các quan điểm, các đột phá lớn về kinh tế tư nhân. Vấn đề quan trọng nhất trong tư duy pháp lý về thể chế kinh tế tư nhân là hướng tới và nhanh chóng đưa ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn, doanh nghiệp, kinh tế tập thể, hợp tác xã, tổ hợp tác, kinh tế hộ gia đình, cá nhân và tạo mọi điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư, kinh doanh, đổi mới sáng tạo. Đẩy mạnh hỗ trợ việc phát triển doanh nghiệp tư nhân, cụ thể cần tập trung hỗ trợ có hiệu quả cho doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Với doanh nghiệp khởi nghiệp, cần có các quy định, chính sách hỗ trợ về vốn, công nghệ, quản trị… các điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp dễ dàng được thành lập để bắt nhịp gia nhập thị trường, trong cạnh tranh, phát triển và tiêu thụ các sản phẩm mới. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, lực lượng chiếm số lượng đông đảo nhất, năng động nhất, với những đóng góp không thể phủ nhận cho kinh tế - xã hội, nhưng cũng là khu vực dễ bị tổn thương, cần có chính sách hỗ trợ cụ thể được luật định rõ ràng, xóa bỏ mọi gánh nặng không chính thức, dễ dàng tiếp cận và được phép khai thác hiệu quả các nguồn lực quốc gia… Mọi cản trở về tư duy pháp lý cần được giải phóng để sớm thu hút các tập đoàn sản xuất hàng đầu thế giới bằng một cơ chế pháp lý có tính ưu đãi cho việc hình thành chuỗi sản xuất công nghệ tiên tiến các sản phẩm đồng bộ ở Việt Nam./.
[1] Theo Tạp chí Doanh nghiệp và tiếp thị, số ra ngày 18/8/2024.
[2] Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
[3] Ý kiến tại Hội nghị Đổi mới toàn diện quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam, ngày 12/3/2021.
[4] Theo VCCI: WTO-FTA, ngày 18/8/2024.