Thực hiện dân chủ nhân dân toàn quá trình ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
18/12/2024
Tóm tắt: Thời gian qua, Trung Quốc đã có nhiều bước tiến trong việc thực hiện “dân chủ nhân dân toàn quá trình”. Trong bài viết này, tác giả phân tích thực tế thực hiện “dân chủ nhân dân toàn quá trình” ở Trung Quốc và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Từ khóa: Dân chủ; dân chủ nhân dân toàn quá trình; chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới.
Abstract: China has made series of strides in enforcement of "whole-process people's democracy" in recent times. Within this article, the author provides an analysis of the reality of enforcement of "whole-process people's democracy" in China and gives a number of lessons learnt for Vietnam.
Keywords: Democracy; whole-process people's democracy; socialism with Chinese characteristics for a new era.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Quan niệm của Trung Quốc về dân chủ và dân chủ nhân dân toàn quá trình
Với tư cách là nước lớn, Trung Quốc không dễ dàng tiếp nhận mọi giá trị hay quan niệm của phương Tây, trong đó quan niệm về “dân chủ” là một trường hợp điển hình. Trung Quốc luôn khẳng định rằng, quan niệm về “dân chủ” của họ không bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng về hệ thống nghị viện lưỡng viện phương Tây, chế độ đa đảng cạnh tranh và sự phân chia quyền lực theo mô hình “tam quyền phân lập”. Bản chất và cốt lõi nền dân chủ của Trung Quốc là người dân làm chủ đất nước; Đảng, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.
Khái niệm “toàn quá trình” là cách mới để mô tả mối quan hệ của nhân dân với vấn đề quản lý đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) đặc sắc Trung Quốc. Còn “dân chủ nhân dân” có nghĩa là Đảng Cộng sản Trung Quốc và Nhà nước đại diện cho nhân dân để điều hành công việc đất nước. “Dân chủ nhân dân toàn quá trình” là một phạm trù lý luận quan trọng được đưa vào Báo cáo chính trị Đại hội 20 Đảng Cộng sản Trung Quốc và Điều lệ Đảng sửa đổi, được Trung Quốc khẳng định là một hình thái mới của văn minh chính trị thế giới. Theo quan điểm chính thức của Trung Quốc, “dân chủ nhân dân toàn quá trình” là một nền dân chủ theo “định hướng quá trình”, “bao gồm tất cả các khía cạnh của quá trình dân chủ và tất cả các lĩnh vực của xã hội, thông qua bầu cử, hiệp thương, ra quyết định, quản lý và giám sát”
[1].
Dân chủ nhân dân toàn quá trình là một đặc trưng của nền dân chủ XHCN, giúp phân biệt mô hình dân chủ của Trung Quốc với mô hình dân chủ của các nước tư bản, mà theo chủ tịch Tập Cận Bình thì đó là nền dân chủ theo nghĩa rộng nhất, chân chính nhất và hiệu quả nhất. Điều này ngụ ý rằng, mô hình dân chủ của Trung Quốc được cho là
“tốt hơn” so với mô hình dân chủ của phương Tây. Nói cách khác, “dân chủ nhân dân toàn quá trình” là ý tưởng của Trung Quốc về một loại hình dân chủ đặc trưng của riêng nước này, một phiên bản “dân chủ” thực sự bởi vì không chỉ thể hiện trong lúc bầu cử, mà dân chủ thể hiện trong tất cả các khâu và toàn bộ quy trình hoạt động chính trị. “Dân chủ nhân dân toàn quá trình” là mô hình để lãnh đạo Trung Quốc thuyết phục người dân về sức mạnh của hệ thống chính trị Trung Quốc, đồng thời bác bỏ những lời chỉ trích của quốc tế nhằm vào Trung Quốc liên quan tới những vấn đề như dân chủ, nhân quyền
[2].
2. Thực hành dân chủ nhân dân toàn quá trình ở Trung Quốc
Thực hành dân chủ nhân dân toàn quá trình ở Trung Quốc hướng đến mục tiêu mọi người đều được hưởng các quyền dân chủ rộng rãi nhất và đều được tham gia có hiệu quả vào quản trị nhà nước không phân biệt dân tộc, chủng tộc, giới tính, nghề nghiệp, thành phần gia đình, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, tình trạng tài sản. Để đạt được mục tiêu này, Trung Quốc đã thiết lập một loạt các sắp xếp thể chế dân chủ, bao gồm hệ thống Đại hội đại biểu nhân dân, hệ thống hiệp thương chính trị và hợp tác đa đảng do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, hệ thống mặt trận thống nhất yêu nước, hệ thống tự trị khu vực dân tộc, khối tự trị quần chúng cơ sở…, trong đó đáng chú ý là hệ thống đại biểu nhân dân. Đây là thiết chế quan trọng mang tính dân chủ nhân dân toàn quá trình, luôn tuân thủ phương châm lấy người dân làm trung tâm, bảo đảm các cơ quan lập pháp, hành pháp, giám sát và tư pháp luôn lắng nghe tiếng nói của nhân dân.Với quan niệm về dân chủ nhân dân toàn quá trình như trên, Trung Quốc đã thiết lập và thực hành dân chủ trên tất cả các phương diện của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, biểu hiện cơ bản như sau:
Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong việc thực hiện dân chủ nhân dân
Một mặt, Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn đại diện cho lợi ích cơ bản của đại đa số nhân dân Trung Quốc, không có lợi ích riêng, chưa bao giờ đại diện cho lợi ích của bất kỳ nhóm lợi ích, nhóm quyền lực hay giai cấp đặc quyền nào. Vì vậy, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cơ bản cho quá trình phát triển dân chủ nhân dân. Ở một nước rộng lớn như Trung Quốc với 56 dân tộc, dân số hơn 1,4 tỷ người, thì sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương Đảng là vô cùng quan trọng. Chỉ có tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng mới bảo đảm dân chủ đúng hướng, bảo đảm toàn dân quản lý các công việc nhà nước, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua các kênh, các hình thức khác nhau theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, phát huy dân chủ nhân dân toàn quá trình là một yêu cầu tất yếu để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Phát triển dân chủ nhân dân toàn quá trình có thể tập hợp được trí tuệ và sức lực của toàn dân vào sự nghiệp của Đảng và của đất nước, làm cho việc ra quyết định của Đảng khoa học hơn, hiệu quả hơn, lý luận, đường lối, nguyên tắc, chính sách của Đảng được quán triệt sâu sắc và thực thi mạnh mẽ hơn.
Dân chủ nhân dân toàn quá trình là nền dân chủ XHCN do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, và đó là nền dân chủ vì lợi ích cơ bản của đại đa số nhân dân. Đảng Cộng sản Trung Quốc, với tư cách là đảng cầm quyền, đại diện cho lợi ích của tất cả người dân Trung Quốc và luôn đặt lợi ích cơ bản của đa số người dân lên hàng đầu. Nền dân chủ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc là một nền quản trị dân chủ hợp tác và cùng có lợi, với tiền đề rằng lợi ích cơ bản của tất cả mọi người là như nhau. Điều này được các nhà chính trị cũng như các học giả Trung Quốc mô tả là sự khác biệt về dân chủ ở các nước phương Tây, nơi các đảng chính trị chỉ đại diện cho một bộ phận cử tri, một nhóm lợi ích, nơi có kẻ thua người thắng, thực hiện theo lý thuyết trò chơi có tổng bằng không
[3].
Hai là, thực hiện chế độ Đại hội đại biểu nhân dân với tư cách là hệ thống chính trị cơ bản của đất nước, qua đó bảo đảm cho nhân dân là chủ nhân của đất nước
Điều 34 Hiến pháp Trung Quốc quy định, tất cả công dân Trung Quốc đủ 18 tuổi đều có quyền bầu cử và ứng cử, trừ những người bị tước quyền chính trị theo quy định của pháp luật. Theo nhiệm kỳ 5 năm, Trung Quốc tiến hành tổng tuyển cử đại hội Đại biểu nhân dân các cấp, với hơn một tỷ cử tri tham gia bầu cử. Đây là cuộc bầu cử lớn nhất trên thế giới, được Trung Quốc coi là một trong những sự kiện thực hành dân chủ nhân dân sinh động nhất của đất nước.
Hơn nữa, Trung Quốc thực hiện lựa chọn các đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc với thành phần đại diện rộng rãi. Có năm cấp Đại hội đại biểu nhân dân ở Trung Quốc, với tổng số khoảng hơn 2,6 triệu đại biểu, trong đó có hơn 2,4 triệu đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân cấp huyện, thị trấn, chiếm 94,5% tổng số đại biểu; các đại biểu đều do cử tri bầu trực tiếp. Luật Bầu cử của Trung Quốc quy định mỗi khu vực, mỗi dân tộc, mỗi lĩnh vực phải có số lượng đại biểu phù hợp, có yêu cầu rõ ràng đối với đại biểu cấp cơ sở, đặc biệt là đại biểu công nhân, nông dân, đại biểu cán bộ chuyên môn kỹ thuật, đại biểu phụ nữ, đại biểu dân tộc thiểu số. Quy định này bảo đảm rằng mọi khu vực, mọi ngành, mọi lĩnh vực và mọi dân tộc đều có đại biểu dân cử. Ví dụ, trong cơ cấu của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ 13 (nhiệm kỳ 2018 - 2023), trong số 2.980 đại biểu có 742 đại biểu là nữ, chiếm 24,9% tổng số đại biểu; 468 đại biểu công nhân, nông dân, chiếm 15,7% tổng số đại biểu, trong đó có 45 đại biểu là lao động di cư, 613 đại biểu là cán bộ chuyên môn kỹ thuật, chiếm 20,6% tổng số đại biểu, 438 đại biểu là người dân tộc thiểu số, chiếm 14,7% tổng số đại biểu. 55 dân tộc thiểu số trong cả nước đều có đại biểu tại Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc, và các nhóm dân tộc có dân số cực kỳ nhỏ cũng có ít nhất một đại biểu tại Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc
[4].
Ba là, xây dựng hệ thống khu tự trị dân tộc để bảo vệ quyền của các dân tộc thiểu số
Khu tự trị dân tộc là một hệ thống chính trị cơ bản ở Trung Quốc và là một bảo đảm thể chế quan trọng cho cách giải quyết đúng đắn các vấn đề dân tộc mang đậm chất Trung Hoa. Hệ thống khu tự trị dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của trung ương, thành lập cơ quan tự trị và thực hiện quyền tự chủ. Tính đến nay, Trung Quốc đã thành lập tổng cộng 155 đơn vị tự trị dân tộc, bao gồm 5 khu tự trị, 30 quận tự trị và 120 huyện tự trị. Diện tích các khu hành chính tự trị dân tộc chiếm 64% diện tích cả nước
[5]. Mục đích cơ bản của việc thực hiện chế độ tự trị vùng dân tộc là giữ vững đoàn kết dân tộc, thống nhất đất nước. Cơ quan tự quản ở các khu vực dân tộc tự trị là chính quyền địa phương cấp một trực thuộc trung ương lãnh đạo, phải phục tùng sự lãnh đạo thống nhất của chính quyền trung ương để bảo đảm mệnh lệnh của trung ương được thông suốt. Trên cơ sở đó, nhân dân các dân tộc được bảo đảm hưởng quyền bình đẳng và thực hiện nghĩa vụ bình đẳng theo quy định của pháp luật, hỗ trợ các dân tộc cùng phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện sự phát triển chung, thịnh vượng chung, thực hiện đầy đủ quyền lợi của mình. Các quyền tự trị của khu tự trị dân tộc chủ yếu bao gồm: quyền lập pháp, quyền phát triển kinh tế, quyền quản lý tài chính, quyền đào tạo và sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số, quyền giáo dục và phát triển văn hóa, quyền sử dụng ngôn ngữ...
Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính phủ Trung Quốc rất coi trọng việc đào tạo và sử dụng cán bộ thiểu số, đã xây dựng được một đội ngũ đông đảo cán bộ dân tộc thiểu số vừa có năng lực vừa có phẩm chất chính trị. Việc thực hiện hệ thống tự trị vùng dân tộc mang lại một bảo đảm quan trọng về mặt tổ chức. Thực tiễn chứng minh rằng, việc Trung Quốc thực hiện hệ thống tự trị dân tộc khu vực không chỉ có lợi cho đoàn kết dân tộc, thống nhất quốc gia và ổn định xã hội, mà còn có lợi cho sự phát triển và tiến bộ của các dân tộc thiểu số và sự ổn định lâu dài của đất nước. Trong chín năm từ 2012 đến 2020, GDP khu vực của năm khu tự trị Nội Mông, Quảng Tây, Tây Tạng, Ninh Hạ, Tân Cương và ba tỉnh đa sắc tộc Vân Nam, Quý Châu, Thanh Hải đã tăng từ 5,1 nghìn tỷ nhân dân tệ lên 10,4 nghìn tỷ nhân dân tệ; GDP đầu người của khu vực tăng từ 27.000 nhân dân tệ lên 52.000 nhân dân tệ; tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 43,1% lên 55,1%. 31,21 triệu người nghèo vùng dân tộc thiểu số đều đã thoát nghèo, toàn bộ 420 huyện nghèo cấp nhà nước ở khu tự trị dân tộc thiểu số đã thoát nghèo, cùng cả nước đạt được mục tiêu phát triển toàn diện
[6].
Bốn là, phát huy vai trò của Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc
Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân (Chính hiệp) là một kênh quan trọng và là cơ quan tham vấn chuyên biệt cho nền dân chủ hiệp thương ở Trung Quốc. Nó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản trị quốc gia của Trung Quốc và là một thể chế mang đặc sắc Trung Quốc, với các chức năng cụ thể là:
Thứ nhất, thực hiện hiệp thương trước khi ra quyết định và trong quá trình tổ chức thực hiện quyết định, thông qua các phiên họp toàn thể, họp ban thường vụ, họp chủ tịch, họp ủy ban đặc biệt, họp hiệp thương đặc biệt, diễn đàn hiệp thương... để bàn những chủ trương lớn của đất nước, những vấn đề quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và thực hiện tham vấn rộng rãi, chuyên sâu để giải đáp những vấn đề người dân quan tâm.
Thứ hai, bảo đảm sự tham gia chính trị có trật tự của người dân về mọi mặt trong quá trình hiệp thương. Ủy ban toàn quốc của Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc có 34 khu vực, bao gồm 8 đảng dân chủ và nhân dân không đảng phái, các tổ chức nhân dân lớn, 56 dân tộc và 5 tôn giáo lớn. Hiện tại, có hơn 3.200 tổ chức Chính hiệp ở cấp quốc gia, tỉnh, thành phố, quận và hơn 600.000 thành viên Chính hiệp ở tất cả các cấp
[7]. Đặc điểm ngành và thành phần ủy ban như vậy bảo đảm cho sự tham gia của người dân từ tất cả các đảng phái, tổ chức, dân tộc, giai cấp và tầng lớp xã hội trong các công việc của Nhà nước.
Năm là, duy trì chế độ tự quản cấp cơ sở
Hệ thống chính quyền tự quản cấp cơ sở là hệ thống chính trị cơ bản ở Trung Quốc. Hiến pháp quy định Ủy ban dân cư và Ủy ban dân làng được thành lập ở thành thị và nông thôn tùy theo khu vực. Các Ủy ban dân cư và Ủy ban dân làng đều do chính người dân bầu ra.
Chức năng tự quản của các Ủy ban dân làng và Ủy ban dân cư chủ yếu là tổ chức các cuộc tham vấn dân chủ và đưa ra các quyết định dân chủ trên cơ sở tham vấn; thông qua các cuộc họp dân cư, họp dân làng hoặc họp đại diện dân cư và họp đại diện dân làng, các vấn đề được thảo luận và đưa ra nghị quyết cuối cùng; tổ chức cho cư dân xây dựng hoặc sửa đổi điều lệ hội tự quản, hương ước, quy ước của khu dân cư để hình thành quy tắc ứng xử chung của cư dân; tổ chức cho cư dân giám sát công việc của Ủy ban khu phố, Ủy ban thôn, đánh giá hiệu quả làm việc của nhân viên. Tất cả quy trình ra quyết định của Ủy ban khu phố, Ủy ban thôn đều công khai, kết quả cũng công khai, có thể dán lên tường và các bảng thông báo, trên giao diện điện thoại di động, bảo đảm giám sát hiệu quả các công việc của Ủy ban khu phố và Ủy ban thôn
[8].
Trung Quốc là nước đông dân, mật độ dân số cao, hệ thống chính quyền tự quản cấp cơ sở không chỉ bảo đảm việc thực hiện các quyền dân chủ của quần chúng mà còn đóng một vai trò quan trọng trong việc ứng phó với những rủi ro và thách thức lớn như thiên tai, dịch bệnh.
Sáu là, bảo đảm dân chủ nhân dân toàn quá trình là nền dân chủ toàn diện
Tính toàn diện của nền dân chủ Trung Quốc thể hiện ở tất cả các khâu, các giai đoạn, từ “bầu cử dân chủ” đến “hiệp thương dân chủ”, “ra quyết định dân chủ”, “quản lý dân chủ” và “giám sát dân chủ”, bảo đảm cho nhân dân được hưởng đầy đủ quyền bầu cử, quyền được biết, quyền tham gia, quyền phát biểu, quyền giám sát, nhân dân được tham gia đầy đủ vào việc quản lý nhà nước, xã hội và đất nước. Ngoài ra, tính toàn diện còn thể hiện ở phạm vi bao trùm của dân chủ, đó là bao trùm tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, văn minh sinh thái… Hơn nữa, tính toàn diện còn thể hiện ở sự đa hướng của dân chủ. Theo nghĩa này, dân làm chủ không chỉ thể hiện ở các chính sách, biện pháp điều hành đất nước mà còn thể hiện ở sự ra đời của các cơ quan nhà nước các cấp và việc ra quyết định của các cơ quan này trong mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh của công việc. Các đại biểu của năm cấp đại hội đại biểu nhân dân, từ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc đến Đại hội đại biểu nhân dân cấp xã, thị trấn đều được bầu cử dân chủ. Đại hội đại biểu nhân dân các cấp bầu ra người đứng đầu cơ quan nhà nước cùng cấp. Ở cấp cơ sở, thôn định kỳ bầu cử cấp ủy viên thôn theo quy định của pháp luật, trực tiếp thực hiện các quyền dân chủ theo quy định của pháp luật, quản lý các công việc của cơ sở và các công tác phúc lợi công cộng theo quy định của pháp luật
[9]. Các doanh nghiệp và tổ chức công thiết lập một hệ thống quản lý dân chủ dựa trên hội đồng đại diện của người lao động, người lao động đóng vai trò tích cực trong việc ra quyết định quan trọng của doanh nghiệp
[10].
Nền dân chủ nhân dân toàn quá trình của Trung Quốc bảo đảm sự kết hợp dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, đồng thời thực hiện tốt sự thống nhất quyền dân chủ của công dân và hiệu quả quản lý nhà nước. Một trong những biểu hiện của việc thực hành dân chủ trên khía cạnh này là Trung Quốc thường tổ chức lấy ý kiến công chúng về các dự thảo luật và đã nhận được sự quan tâm, tham gia nhiệt tình của người dân. Ví dụ, trong quá trình biên soạn Bộ luật Dân sự, Ban soạn thảo đã 10 lần tiến hành trưng cầu công khai ý kiến người dân thông qua trang web của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc, nhận được 1,02 triệu ý kiến, trong đó có nhiều ý kiến quan trọng đã được tiếp thu. Điều đó cho thấy tiếng nói của người dân Trung Quốc đã được chú ý đầy đủ, thực hiện đúng quan điểm nhân dân làm chủ đất nước
[11].
3. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Một là, Trung Quốc cho rằng, trên thế giới không có một hệ thống chính trị nào giống hệt nhau, cũng như không có một mô hình hệ thống chính trị nào có thể áp dụng cho tất cả các quốc gia. Ngay cả ở các nước phương Tây, hệ thống dân chủ và hình thức dân chủ cũng không hoàn toàn giống nhau. Sẽ là phi dân chủ nếu sử dụng một thước đo duy nhất để đo lường các hệ thống chính trị phong phú và đầy màu sắc của thế giới, cũng như xem xét nền văn minh chính trị đầy màu sắc của nhân loại bằng con mắt đơn điệu. Các quốc gia nên lựa chọn hình thức dân chủ phù hợp với đặc điểm dân tộc và trình độ phát triển của mình, thay vì sao chép. Sự can thiệp từ bên ngoài và cái gọi là "chuyển hóa dân chủ" đã gây ra rất nhiều tác hại. Trung Quốc không tìm cách xuất khẩu “mô hình dân chủ” của Trung Quốc, cũng như không chấp nhận bất kỳ nỗ lực nào của các thế lực bên ngoài nhằm thay đổi mô hình thể chế của Trung Quốc. Trung Quốc kiên quyết ủng hộ các quốc gia độc lập lựa chọn con đường phát triển dân chủ của mình và phản đối các thế lực bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác dưới cái cớ "dân chủ"
[12]. Điều đó cho thấy, Trung Quốc có quan điểm riêng và cách thực hành dân chủ riêng của họ. Mặc dù chúng ta cần tiếp tục xem xét, kiểm nghiệm hiệu quả của dân chủ “mô hình Trung Quốc”, nhưng dù sao cách tiếp cận vấn đề của họ cũng là bài học có giá trị tham khảo cho Việt Nam khi bàn về dân chủ.
Hai là, trong tiến trình thực hiện dân chủ phải luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, qua đó giữ vững lập trường của việc thực hiện dân chủ XHCN. Cần nhận thấy những giá trị tốt đẹp và sự phù hợp của dân chủ XHCN với xã hội phương Đông và với chế độ chính trị mà chúng ta xây dựng.
Ba là, bảo đảm dân chủ ở cơ sở thực chất. Năm 2022, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, thay thế Pháp lệnh về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 và Nghị quyết số 55/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 30/8/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan. Luật này đã có hiệu lực từ ngày 01/7/2023. Thực hiện có hiệu quả dân chủ ở cơ sở chính là minh chứng cho việc thực hiện dân chủ nhân dân toàn quá trình, không phải chỉ là dân chủ trong lúc bầu cử hay lúc vận động tranh cử, mà là dân chủ mọi lúc, mọi nơi. Muốn có dân chủ nhân dân toàn quá trình, cần chú ý một số nội dung sau đây:
- Bảo đảm “Dân bàn” thực chất, tức là để người dân được tham gia ý kiến, trong một số trường hợp có quyền quyết định đối với việc ban hành và tổ chức thực hiện chính sách công. Nói cách khác, phải thực hiện việc ban hành và tổ chức thực thi chính sách theo mô hình từ dưới lên (bottom-up); ngược lại, nếu người dân không được “bàn” mà chỉ chấp hành các chính sách do cơ quan nhà nước ban hành thì đó là mô hình chính sách từ trên xuống (top-down). Mô hình từ trên xuống có hạn chế là dễ tạo ra tham nhũng, lợi ích nhóm, người dân thờ ơ với các chính sách của Nhà nước; thậm chí có thể dẫn đến phản đối tập thể mà đỉnh điểm là tạo ra xung đột hoặc điểm nóng xã hội, do vậy không nhận được sự đồng tình, ủng hộ của người dân.
- Mở rộng thực hiện dân chủ trực tiếp. Thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở thời gian qua cho thấy các nội dung của dân chủ trực tiếp còn hạn chế, thay vào đó nhiều vấn đề ở cơ sở chủ yếu được quyết định bằng hình thức dân chủ đại diện, thông qua Hội đồng nhân dân hoặc thông qua các cơ chế giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Để cụ thể hoá quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ XIII và quy định của Hiến pháp năm 2013, thời gian tới, cần cân nhắc mở rộng dân chủ trực tiếp trong thực hiện dân chủ ở cơ sở trên cả bốn lĩnh vực: trưng cầu ý dân, sáng kiến công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi nhiệm đại biểu dân cử. Muốn vậy, cần giải quyết một số vấn đề như sau:
+ Mở rộng phạm vi các nội dung nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp như quyết định hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư; quyết định người đại diện của cộng đồng dân cư... Quyết định của cộng đồng dân cư là quyết định có giá trị thi hành trong cộng đồng dân cư nên không cần phải xem xét, phê duyệt bởi một cơ quan, tổ chức khác, kể cả Nhà nước. Nhà nước chỉ can thiệp, bãi bỏ quyết định của cộng đồng dân cư trong trường hợp quyết định đó trái Hiến pháp và pháp luật.
+ Quy định hình thức sáng kiến nhân dân, công nhận quyền của người dân trong việc đề xuất các vấn đề để cộng đồng dân cư hoặc chính quyền địa phương quyết định thay vì quyền đề xuất, sáng kiến chỉ thuộc về Nhà nước.
+ Ban hành cơ chế bảo đảm thực hiện dân chủ trực tiếp, trong đó chú ý đến các yêu cầu như: sự cởi mở của cơ quan công quyền, bao gồm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính quyền cơ sở; bảo đảm về điều kiện vật chất và phương tiện kỹ thuật, bao gồm chế độ, chính sách và điều kiện hoạt động của các tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư, cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật, công khai thông tin, thảo luận, bàn bạc tại cộng đồng dân cư; công cụ đánh giá mức độ thực hiện dân chủ ở cộng đồng dân cư bao gồm các thang, bảng, chỉ số đánh giá chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, đánh giá mức độ tham gia và sự hài lòng của người dân đối với các hoạt động dân chủ tại cơ sở, đánh giá sự phản hồi của chính quyền địa phương đối với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; năng lực nhận thức của người dân và chính quyền trong việc thực hành dân chủ■
[1] Wang, Xining (2022),
Whole-Process People’s Democracy is a High Quality Democracy, Ministry of Foreign Affairs of China.
[2] Hoàng Huệ Anh (2022, chủ nhiệm),
Chủ trương và lý luận mới của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Trung Quốc, Báo cáo tổng quan Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
[3] Trò chơi có tổng bằng không là một khái niệm trong lý thuyết trò chơi, mô tả tình huống trong đó cái mà một người kiếm được tương đương với cái mà người khác mất đi, dẫn đến sự thay đổi ròng tài sản hoặc lợi ích của các bên là bằng không.
[4] Báo Tin tức Bắc Kinh, ngày 04/12/2021.
[5] Xem: Sách trắng chính sách dân tộc, đăng trên website của Chính phủ Nhân dân Trung ương, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: https://www.gov.cn/jrzg/2009-09/27/content_1427937.htm, truy cập ngày 06/7/2024.
[6] Báo Tin tức Bắc Kinh, ngày 04/12/2021.
[8] Điều 2 Luật Tổ chức Ủy ban dân làng năm 2018 của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
[9] Điều 12 Luật Tổ chức Đại hội Đại biểu Nhân dân địa phương và chính quyền nhân dân các cấp địa phương năm năm 2022 của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
[10] Xem Chương 2 Quy chế Quản lý dân chủ doanh nghiệp năm 2012 của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.