Hoàn thiện chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay
29/10/2024
Tóm tắt: Nội dung bài viết phân tích, trình bày 3 vấn đề sau: i) Khái quát về thuế tiêu thụ đặc biệt; ii) Thực trạng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành ở Việt Nam và iii) Khuyến nghị hoàn thiện chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt; chính sách thuế; pháp luật thuế.
Abstract: The content of the article provide analyses and discussions of the following 3 matters: i) Overview of special consumption tax; ii) Current status of special consumption tax policy in Vietnam and iii) Recommendations to improve the special consumption tax policy in Vietnam in the coming time.
Key words: Special consumption tax; Law on Special Consumption Tax; taxation policy; taxation law.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Khái quát về thuế tiêu thụ đặc biệt
Khái quát chung về thuế, một công trình nghiên cứu nêu ra việc cần thiết giải đáp tính hợp pháp của thuế dựa trên 03 phương diện như sau: (i) tính hợp pháp về mặt xã hội; (ii) tính hợp pháp về mặt chính trị và (iii) tính hợp pháp về mặt pháp lý
[1]. Trong khi đó, một học giả khác cho rằng: “
Về mặt pháp lý, thuế là một quyết nghị đơn phương của quốc gia...”
[2], “
thuế là một khoản đóng góp bằng tiền, mà chánh quyền đòi hỏi ở các tư nhân; đóng góp vĩnh viễn, không đối phần, để tài trợ các gánh nặng công cộng”
[3]; từ đó, nhà làm luật “
khi xây dựng một chế độ thuế, khi thay đổi một thứ thuế nào, người ta phải tính đến những hậu quả chính trị và kinh tế của sự tân tạo hay sửa đổi”
[4].
Xét về thuật ngữ, thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) tiếng Anh là “excise tax” được sử dụng trong các văn bản ở Mỹ, Thái Lan, Nhật Bản, Myanmar... Tuy nhiên, tại một số nước, khi dịch sang tiếng Anh, thì được gọi là “consumption tax” (Trung Quốc), “special consumption tax” (Việt Nam), “luxury sales tax” (Indonesia)...
Theo Mc Carten và Stotsky, thuế TTĐB (excise tax) hay còn gọi là thuế phân biệt thường được sử dụng để đánh vào một mặt hàng mà Chính phủ không khuyến khích người dân sử dụng (hàng xa xỉ hay hàng hóa không có lợi cho sức khỏe). Theo đó, hàng hóa được chọn để đánh thuế thường có một hoặc một số đặc điểm như: việc dùng nó gây ra các tác động tiêu cực, sản phẩm có cầu ít co giãn theo giá; hàng hóa có độ co giãn của cầu theo thu nhập lớn hơn 1; hàng hóa mà việc sản xuất và kinh doanh cần được Chính phủ điều tiết
[5]. Theo Rob Preece, thuế TTĐB là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế tiêu dùng, đóng vai trò quan trọng trong nguồn thu ngân sách nhà nước do các loại hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB có khối lượng tiêu thụ lớn, ít người sản xuất, lượng cầu ít biến động, dễ xác định và ít có khả năng thay thế. Trong khi đó, chi phí hành thu thuế TTĐB không lớn. Đồng thời, trong vai trò là một sắc thuế thuộc loại thuế tiêu dùng nhưng vì là thuế tiêu dùng đặc biệt nên ngoài tính chất là thuế gián thu, thuế TTĐB còn có những đặc điểm riêng biệt
[6].
Ở Việt Nam, có quan điểm nhận định: “
Thuế TTĐB là thuế gián thu đánh vào một số loại hàng hóa và dịch vụ đặc biệt thuộc đối tượng hạn chế tiêu dùng, điều tiết tiêu dùng, góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thuế TTĐB phải kê khai nộp tại khâu sản xuất và khâu nhập khẩu”
[7]. Theo đó, đối tượng chịu thuế TTĐB là những hàng hóa, dịch vụ, theo nhà làm luật, trong một giai đoạn thời gian cụ thể, cần thiết hạn chế tiêu dùng, điều tiết tiêu dùng.
Phụ thuộc vào mục tiêu hạn chế tiêu dùng hoặc điều tiết tiêu dùng, nhà làm luật xây dựng thuế suất thuế TTĐB phù hợp. Theo đó, mục tiêu chính của thuế TTĐB là điều tiết, định hướng tiêu dùng và hoạt động sản xuất, kinh doanh và tạo lập nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Song song với quá trình toàn cầu hóa và các cam kết quốc tế, mục tiêu của thuế TTĐB hướng tới hạn chế tiêu dùng và sản xuất hàng hóa có hại cho sức khỏe và môi trường cũng như khuyến khích tiêu dùng và sản xuất hàng hóa thân thiện với môi trường. Từ những mục tiêu trên, nguyên tắc xác định thuế suất thuế TTĐB phải hướng tới tính đơn giản, tính minh bạch, tính trung lập và tính ổn định của các sắc thuế nói chung và thuế suất thuế TTĐB nói riêng.
2. Thực trạng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành ở Việt Nam
Đối tượng của thuế TTĐB
Ở Việt Nam, hiện nay, thuế TTĐB đánh vào 10 nhóm hàng hóa và 6 nhóm dịch vụ
[8]. Cụ thể:
- Hàng hóa là đối tượng chịu thuế TTĐB gồm: (1) Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hít, nhai, ngửi, ngậm; (2) Rượu; (3) Bia; (4) Xe ô tô dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng loại có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng; (5) Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi lanh trên 125cm
3; (6) Tàu bay, du thuyền;
(7) Xăng các loại; (8) Điều hòa nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống; (9) Bài lá; (10) Vàng mã, hàng mã.
- Dịch vụ là đối tượng chịu thuế TTĐB gồm: (1) Kinh doanh vũ trường; (2) Kinh doanh mát-xa (massage), ka-ra-ô-kê (karaoke); (3) Kinh doanh ca-si-nô (casino); trò chơi điện tử có thưởng bao gồm trò chơi bằng máy giắc-pót (jackpot), máy sờ-lot (slot) và các loại máy tương tự; (4) Kinh doanh đặt cược; (5) Kinh doanh gôn (golf) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn; (6) Kinh doanh xổ số.
Thuế suất thuế TTĐB
Hiện nay, pháp luật Việt Nam sử dụng phương pháp tính thuế tương đối (sử dụng thuế suất theo tỷ lệ %) để tính thuế TTĐB. Thuế suất thuế TTĐB được quy định theo từng nhóm hàng hóa, nhóm dịch vụ và được phân loại theo tính chất, mức độ của hàng hóa, dịch vụ cần được điều tiết. Thông thường, mức thuế suất thuế TTĐB tương đối cao, từ 10% đến 150%
[9]. Tuy nhiên, đối với một số mặt hàng có định hướng khuyến khích tiêu dùng, thuế suất thuế TTĐB tương đối thấp như xăng E5 thuế suất thuế TTĐB là 8%; xăng E10 thuế suất thuế TTĐB là 7% hay xe ô tô chạy điện thuế suất thuế TTĐB từ 1%-7% tùy theo kiểu loại, số chỗ ngồi và theo thời gian áp dụng luật. Chính sách ưu đãi về thuế TTĐB đối với xe ô tô chạy bằng điện mới được Việt Nam áp dụng từ ngày 01/3/2022
[10].
Một số vướng mắc, hạn chế trong chính sách thuế TTĐB
Qua 04 lần sửa đổi và sau gần 15 năm triển khai thực hiện, các quy định của Luật Thuế TTĐB năm 2008 đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội như góp phần định hướng sản xuất, tiêu dùng của xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng có thu nhập cao, tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội; bảo vệ môi trường; thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)... Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và thời gian tới, chính sách thuế TTĐB hiện hành đã bộc lộ những hạn chế nhất định như đối tượng chịu thuế TTĐB còn hẹp hơn so với thông lệ quốc tế; một số quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, mô tả mặt hàng tại Biểu thuế chưa thực sự rõ ràng dẫn đến vướng mắc trong thực tế thực hiện; mức thuế suất chưa phù hợp nên chưa đạt được mục tiêu hạn chế tiêu dùng; chưa có chính sách hoàn thuế TTĐB đối với số thuế TTĐB chưa được khấu trừ hết đối với một số mặt hàng cần khuyến khích sản xuất, tiêu dùng, sản phẩm thân thiện môi trường... Để giải quyết các vướng mắc nêu trên, dự án Luật Thuế TTĐB (sửa đổi) đã được bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 và dự kiến sẽ trình Quốc hội khóa XV cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (
tháng 10/2024).
3. Khuyến nghị hoàn thiện chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam
3.1. Sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội về thuế, phí như sau:
“Sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, phí theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, gắn với cơ cấu lại nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế và áp dụng mức thuế suất hợp lý, hướng tới một hệ thống thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, bảo đảm huy động hợp lý các nguồn lực cho ngân sách nhà nước, đồng thời góp phần thiết lập môi trường cạnh tranh phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển của nền kinh tế…”[11].
Việc sửa đổi Luật Thuế TTĐB tới đây cần tiến tới hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính sách thuế của Việt Nam phù hợp với các tiêu chuẩn của hệ thống thuế tốt theo thông lệ quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu về nguồn lực để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, bao gồm sắc thuế TTĐB. Theo đó, đối với thuế TTĐB, cần rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung đối tượng chịu thuế TTĐB để điều tiết tiêu dùng phù hợp với sự dịch chuyển về xu hướng tiêu dùng trong xã hội cũng như định hướng của Đảng và Nhà nước về bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường; xây dựng lộ trình điều chỉnh tăng thuế đối với các mặt hàng thuốc lá, bia, rượu để hạn chế sản xuất, tiêu dùng và thực hiện các cam kết quốc tế; rà soát điều chỉnh mức thuế TTĐB một số mặt hàng để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030; nghiên cứu áp dụng kết hợp giữa thuế suất theo tỷ lệ và mức thuế tuyệt đối đối với một số hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB.
3.2. Bổ sung đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN)
Tiêu chuẩn Việt Nam đề xuất ở đây là “TCVN 12828:2019”. Đây là tiêu chuẩn được áp dụng đối với nước giải khát, bao gồm đồ uống hương liệu (kể cả nước uống tăng lực, nước uống thể thao, nước điện giải và các đồ uống đặc biệt khác), nước giải khát có chứa cà phê, nước giải khát có chứa chè, đồ uống thảo mộc, nước giải khát có chứa trái cây và các loại đồ uống từ ngũ cốc (sản phẩm thuộc nhóm thực phẩm 14.1.4 Phụ lục 4 Thông tư số 24/2019/TT-BYT ngày 30/08/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định về quản lý và sử dụng phụ gia thực phẩm). Tiêu chuẩn này không áp dụng đối với sản phẩm: sữa, sản phẩm từ sữa; thực phẩm dạng lỏng dùng với mục đích dinh dưỡng; nước khoáng thiên nhiên, nước uống đóng chai; nước rau, quả và nectar rau, quả; sản phẩm từ cacao. Theo đó, đề xuất xác định đánh thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường, trừ các sản phẩm không áp dụng “TCVN 12828:2019” vừa nêu ở trên. Đồng thời, để khuyến khích doanh nghiệp sản xuất hoặc nhập khẩu, cần nghiên cứu, quy định cụ thể mức thuế suất thuế TTĐB đối với nước giải khát theo hàm lượng đường nhất định.
Sở dĩ mặt hàng nước giải khát có đường được đề xuất đánh thuế TTĐB là do:
Thứ nhất, chủ trương điều tiết đồ uống có đường đã được thể hiện trong một số chiến lược, kế hoạch quốc gia của Việt Nam
[12];
thứ hai, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đánh giá nước giải khát có đường là yếu tố nguy cơ hàng đầu gây bệnh không lây nhiễm như tim mạch, đái tháo đường… WHO đã chính thức khuyến nghị tới Chính phủ các nước để tiến hành nhiều hành động khuyến khích người dân tiếp cận thức ăn lành mạnh thông qua biện pháp đánh thuế vào nước giải khát có đường;
thứ ba, ngày càng nhiều quốc gia đánh thuế TTĐB đối với đồ uống có đường. Riêng tại ASEAN, có 6/10 quốc gia đã đánh thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường.
3.3. Bổ sung đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thức uống đại mạch và nước giải khát không cồn
Hiện nay, thuế TTĐB được đánh vào đồ uống có cồn như rượu, bia. Tuy nhiên, trên thực tế đã xuất hiện sản phẩm thức uống không cồn được sản xuất từ nguyên liệu như mặt hàng bia, theo quy trình giống mặt hàng bia (chỉ khác là sau quá trình lên men thì tách cồn ra khỏi sản phẩm, đồng thời bổ sung hương liệu tự nhiên) và mùi vị đặc trưng của mặt hàng bia, hình thức bề ngoài của mặt hàng bia. Do vậy, thức uống đại mạch không cồn được đánh giá là sản phẩm tương tự mặt hàng bia không cồn, cần được bổ sung vào đối tượng chịu thuế TTĐB. Theo thông tin từ Bộ Tài chính, hiện nay Oman đánh thuế TTĐB đối với bia có nồng độ cồn bằng 0 và thuế suất thuế TTĐB đối với mặt hàng này ở mức 50%. Thái Lan, Ấn Độ đang nghiên cứu để đánh thuế TTĐB đối với bia có nồng độ cồn bằng 0 trong khoảng từ 14% đến 22%
[13].
3.4. Bổ sung đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá mới và thiết bị, bộ phận, dung dịch của thuốc lá mới
Việt Nam hiện đang đánh thuế TTĐB đối với mặt hàng “thuốc lá điếu”, “xì gà”, “chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hít, nhai, ngửi, ngậm”. Tuy nhiên, trên thế giới đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới có sử dụng toàn bộ, một phần hoặc không sử dụng nguyên liệu từ cây thuốc lá (gọi chung là thuốc lá mới) để hút, hít, ngửi như thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng, shisha. Tại Việt Nam, mặc dù các loại thuốc lá mới chưa được phép nhập khẩu hoặc sản xuất, kinh doanh, tuy nhiên, sản phẩm này cũng đã được một số người sử dụng.
Theo WHO, Bộ Y tế và các tổ chức bảo vệ sức khỏe đánh giá, người hút trực tiếp thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng và shisha bị ảnh hưởng đến sức khỏe như hút thuốc lá truyền thống, do các sản phẩm này đều có chứa các thành phần độc hại. Không những thế, người xung quanh nơi hút thuốc cũng bị tác động
[14]. Do vậy, việc bổ sung đánh thuế TTĐB đối với thuốc lá mới và thiết bị, bộ phận, dung dịch của thuốc lá mới khi Chính phủ cho phép kinh doanh các sản phẩm này sẽ bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật, phù hợp với Công ước khung về kiểm soát thuốc lá (FCTC) mà Việt Nam là thành viên.
3.5. Bổ sung đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng được cấp phép tại Việt Nam
Trò chơi điện tử trên mạng (game online) là một loại hình giải trí có sự tương tác giữa những người chơi với nhau và giữa người chơi với máy chủ của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi trực tuyến thông qua các thiết bị điện tử như máy tính cá nhân, máy chơi game, các thiết bị di động. Ở nhiều nước như Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc... trò chơi điện tử trên mạng đã trở thành một ngành công nghiệp. Tại Việt Nam, trò chơi điện tử trên mạng ngày càng phát triển về loại hình và quy mô
[15].
Theo Bộ Y tế và Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai thì trò chơi trên mạng có nhiều tác động tiêu cực đến người chơi về sức khỏe thể chất (thừa cân, béo phì, thị lực, xương khớp), về sức khỏe tâm thần (tác động đến sự phát triển tư duy, rối loạn tâm thần, gây nghiện, ảnh hưởng đến hệ thần kinh làm trẻ suy giảm sự tập trung…)
[16]. Do vậy, cần thiết đề xuất bổ sung đánh thuế TTĐB đối với dịch vụ “kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng” của các doanh nghiệp cung cấp game online tại Việt Nam.
3.6. Bổ sung áp dụng thuế tuyệt đối, áp dụng phương pháp tính thuế hỗn hợp (thuế suất theo tỷ lệ và mức thuế tuyệt đối), đồng thời tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng thuốc lá
Hiện nay, thuế TTĐB đối với mặt hàng thuốc lá được xác định theo phương pháp áp dụng thuế suất theo tỷ lệ % ở mức là 75%. Mức thuế suất này đã được áp dụng từ ngày 01/01/2019 và cao hơn 7% so với mức thuế suất mặt hàng thuốc lá của giai đoạn từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2018. Tuy nhiên, một trong những nhược điểm của phương pháp này là làm tăng giá các sản phẩm có chất lượng cao, có thể vượt quá khả năng của người tiêu dùng, từ đó khuyến khích hàng giả, buôn lậu loại hàng hóa cao cấp. Để hạn chế nhược điểm này, các nước đã sử dụng phương pháp tính thuế hỗn hợp, tức là vừa áp dụng phương pháp tính thuế theo tỷ lệ % vừa tính theo mức thu tuyệt đối theo số lượng hoặc trọng lượng của hàng hóa chịu thuế. Ngày càng có nhiều quốc gia áp dụng phương pháp tính thuế hỗn hợp đối với mặt hàng thuốc lá, từ 48 quốc gia năm 2008 lên 61 quốc gia năm 2016
[17].
Ngoài ra, mặc dù thuế suất thuế TTĐB đối với thuốc lá đã được tăng theo lộ trình từ 2016 đến nay, tuy nhiên với thuế suất 75%, năm 2020, WHO đánh giá tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ thuốc lá tại Việt Nam chỉ ở mức khoảng 38,85%, mức tương đối thấp so với nhiều quốc gia khác
[18]. Đồng thời, số liệu từ Bộ Y tế cho thấy tỷ lệ hút thuốc lá của người Việt Nam vẫn ở mức cao hơn dự kiến
[19].
Do vậy, cần thiết đề xuất áp dụng phương pháp tính thuế hỗn hợp, đồng thời điều chỉnh tăng thuế suất đối với thuốc lá với mục tiêu tăng giá bán, nhất là tăng giá đối với thuốc lá giá rẻ (sản phẩm tiềm ẩn nhiều nguy cơ, tác hại đến sức khỏe hơn thuốc lá cao cấp), qua đó góp phần điều tiết, hạn chế tiêu dùng đối với thuốc lá.
3.7. Tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng rượu, bia
Thuế suất thuế TTĐB đối với rượu ở mức từ 35%-65% tùy theo mức độ cồn và bia là 65%. Mức thuế suất hiện hành này đã được điều chỉnh tăng từ 8%-9% đối với bia, rượu từ 20
o trở lên và tăng hơn 16% đối với rượu dưới 20
o so với mỗimức thuế suất trước đó. Tuy nhiên, thực tế cho thấy: (i) tình hình sử dụng rượu, bia ở Việt Nam vẫn ở mức cao và có xu hướng tăng nhanh; (ii) thuế TTĐB đối với bia, rượu còn ở mức thấp, mới chiếm khoảng 30% giá bán lẻ, trong khi ở nhiều nước, tỷ lệ này từ 40-85% giá bán lẻ
[20]. Từ tình hình đó, các tác giả đề xuất nghiên cứu tăng mức thuế suất thuế TTĐB đối với rượu, bia bảo đảm mức tăng giá rượu, bia sau khi điều chỉnh phải tăng kịp theo mức tăng thu nhập và lạm phát, qua đó góp phần giảm sử dụng rượu bia trong thời gian tới.
3.8. Điều chỉnh giảm thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe ô tô thân thiện với môi trường, xe ô tô pick up chở hàng cabin kép
Nhằm khuyến khích tiêu thụ dòng xe thân thiện với môi trường, ngoài ô tô chạy điện đã có mức thuế suất thuế TTĐB khá thấp từ 1%-15% tùy theo loại xe, số chỗ và theo lộ trình, từ ngày 01/01/2009, thuế TTĐB cũng đã có sự phân biệt về thuế suất đối với xe ô tô sử dụng động cơ chạy bằng xăng kết hợp với năng lượng điện, năng lượng sinh học (xe hybrid), chỉ bằng 70% mức thuế suất áp dụng cho xe cùng loại. Tuy nhiên, với mô tả “xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp với năng lượng điện, năng lượng sinh học, trong đó tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng” cho thấy chính sách thuế mới hướng tới dòng xe chủ yếu chạy bằng động cơ xăng. Trong khi đó, hiện nay đã xuất hiện xe ô tô chủ yếu chạy bằng điện, nạp điện bằng hệ thống sạc điện riêng, còn động xăng chỉ có tính chất dự phòng, hoạt động trong tình huống hết điện. Dòng xe này cũng sử dụng hai loại động cơ xăng và động cơ điện như mô tả trong Luật Thuế TTĐB hiện hành, nhưng lượng khí thải xả ra môi trường rất thấp. Theo đó, chúng tôi đề xuất cần phân biệt xe ô tô nạp điện bằng hệ thống sạc điện riêng, từ đó có chính sách thuế ưu đãi hơn so với dòng xe hybrid đang được điều chỉnh trong Luật Thuế TTĐB hiện hành.
Ngoài ra, đối với mặt hàng ô tô, cần nghiên cứu sửa đổi mô tả “xe vừa chở người vừa chở hàng” cho phù hợp với TCVN 7271:2003
[21], đồng thời điều chỉnh thuế suất thuế TTĐB đối với loại xe ô tô pick up chở hàng ca bin kép cho phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, bảo đảm tính công bằng đối với các đối tượng chịu thuế và không gây thất thu thuế cho Nhà nước
[22] ■
[1] Michel Bouvier, Marie-Christine Escalssan, Jean-Pierre Lassale (2005),
Tài chính công, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 700.
[2] Lê Đình Chân (1971),
Tài chánh công, Tủ sách Đại học Luật khoa Sài Gòn, Sài Gòn, tr. 112.
[3] Lê Đình Chân (1971), sđd, tr. 147.
[4] Lê Đình Chân (1971), sđd, tr. 153.
[5] Mc Carten và Stotsky (1995), dẫn theo Đề tài nghiên cứu khoa học “
Đánh giá tác động của thuế TTĐB đến người tiêu dùng, doanh nghiệp ở Việt Nam”, Nguyễn Thị Thu, Vũ Thị Huyền Trang, Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính.
[6] Rob Preece (2012), “
Excise taxation of key commodities across South East Asia: a comparative analysis ahead of the ASEAN Economic Community in 2015”, https://worldcustomsjournal.org/Archives/Volume%206%2C%20Number%201%20(Mar%202012)/02%20Preece.pdf.
[7] Nguyễn Thị Lan Hương (2015),
Pháp luật thuế, lý luận, lịch sử, thực trạng và so sánh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 163.
[8] Theo Điều 2 Luật Thuế TTĐB.
[9] Nguyễn Thị Lan Hương (2015), tlđd, tr. 163.
[10] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự năm 2022.
[11] Điểm 4 Mục V Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội.
[12] Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045 được phê duyệt tại Quyết định số 02/QĐ-TTg ngày 05/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ; Kế hoạch quốc gia phòng, chống bệnh không lây nhiễm và rối loạn sức khỏe tâm thần giai đoạn 2022-2025 được phê duyệt tại Quyết định số 155/QĐ-TTg ngày 29/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
[21] Theo TCVN 7271:2003, có nhiều loại xe có mô tả “
vừa chở người, vừa chở hàng loại có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng”: như ô tô tải VAN (ô tô tải thùng kín có khoang chở hàng liền với cabin), ô tô pick up chở hàng cabin kép, ô tô pick up chở hàng ca bin đơn.